Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Văn hóa là gì? pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 34 trang )




Văn hóa là gì?

Nhiều bạn trẻ cứ nghe thấy từ “văn hóa” là đã thấy một khái
niệm nào đó cao xa, hàn lâm và khó hiểu. Nhưng với tôi, tôi
nghĩ văn hóa là những gì rất gần gũi, rất quen thuộc trong
cuộc sống hàng ngày. Bạn cứ thử một lần đi xa khỏi nơi mình
sinh ra và lớn lên, khi ấy, trong đầu bạn nhớ về những hình
ảnh nào, dù chỉ là một món ngon, hay một con phố quen – thì
đó chính là văn hóa.

Không hiểu tôi định nghĩa như thế có đúng không, nhưng với
cá nhân tôi, những gì sắp kể dưới đây chính là văn hóa:

Chày cối

Ngày nay, lớp trẻ đa phần chỉ nghe đến từ “chày cối” khi
thấy một người nào đó ngang ngạnh, hay cãi cùn, người ta
gọi là cãi chày cãi cối. Nhưng ở thế hệ tôi, chày và cối là
những vật dụng quen thuộc lắm.

Đây là cặp cối – chày của nhà tôi. Không nhớ mẹ đã mua từ
bao giờ, nhưng khoảng mười tuổi tôi đã thấy nó xuất hiện
trong bếp nhà mình.



Tôi sẽ nói về cái cối trước: Nó bằng đá nguyên khối, rất
nặng. Mỗi lần vần ra để giã cua hay vừng lạc, tôi luôn phải hì


hụi rất lâu mới rê nó ra đúng chỗ cần thiết. Nó thô sơ. Thô sơ
đến mức hai tai cối cũng chỉ là hai phần nhô ra, như hai cái
mấu, thân cối gần như còn nguyên những vết đục đẽo, miệng
cối nhìn thấy rõ cả những đường vân đá, nứt nẻ vằn vện. Chỉ
duy nhất lòng cối là được người thợ đá chế tác và đánh giấy
ráp khá nhẵn nhụi, tròn đều.


Lòng cối


Tai cối



Vân đá trên thân cối


Tôi vẫn nhớ khi giã gạo, vì cối đầm nên âm thanh phát ra
cũng rất trầm: thịch thịch thịch. Và vì nó rất nặng nên thi
thoảng, mẹ tôi còn dùng nó để lèn vại dưa muối, đúng là ko
gì thay thế được.
Qua thời gian, lòng cối ngày càng trơn nhẵn, nhưng có vẻ nó
chẳng hao hụt đi nhiều. Nó vẫn nặng như thế, những vết đục
đẽo vẫn thô ráp như thế. Đúng như một khối đá đích thực.

Nhìn ở góc này, chiếc cối đúng là một khối đá đích thực


Giờ mẹ tôi đã mua một chiếc cối khác, bằng gang đúc. Nó

nhỏ nhắn và thuận tiện hơn khi di chuyển, nhưng gõ thì kêu
boong boong và không thể giã mạnh tay được. Nứt ngay. Cái
cối đá giờ vẫn ở dưới gầm bếp gas, đậy một miếng nhựa
phẳng lên để cất mấy chai nước mắm, nước tương, xì dầu…

Còn đây là cái chày. Nó có màu nâu cánh gián đặc trưng của
chày gỗ. Chắc hẳn, nó được làm từ một khúc cây với hai đầu
được vát tù, ở giữa thắt gọn lại như cái eo để làm chỗ cầm.



Một đầu chày (cái đầu mà thường được dùng nhiều hơn) có
những vết rạn nứt của thớ gỗ. Dễ hiểu thôi, để giã nát từng ấy
cua, từng ấy gạo, từng ấy vừng lạc và đủ thứ cần giã trong
từng ấy năm, cối đá có thể không mòn nhưng chày bằng gỗ
cũng phải nứt thôi.


Đầu chày đã có những vết nứt


Và bạn có biết, chày và cối còn là một biểu tượng Âm Dương
trong văn hóa Việt không? Đó là lý do tại sao, ngay khi nghĩ
ra ý tưởng về bài viết này, đối tượng đầu tiên tôi lựa chọn là
chày và cối.

Quạt nan

Cách đây khoảng hai mươi năm, khi điện còn khan hiếm,
không một nhà ai thiếu được vật dụng này. Cây quạt nan là

một hình ảnh thân quen mà bất cứ đứa nhỏ nào tầm tuổi tôi
cũng nhớ, thậm chí nhớ rất lâu. Vì nó đâu chỉ có chức năng
làm mát, nó – đôi khi còn được các bà mẹ dùng làm “phương
tiện” giáo huấn, in dấu những lằn roi trên mông đứa nào
nghịch ngợm.


Chiếc quạt nan quen thuộc


Quạt nan là một vật dụng đơn giản, đan từ những nan tre
ruột, trắng ngà, nhìn rõ cả những sợi xơ chạy dọc thân nan.
Một số cái còn được nhuộm thêm phẩm màu xanh, màu đỏ ở
phần viền quạt. Có những chiếc quạt dùng lâu, nan tre ngả
màu cũ, độ đan nhau của những chiếc nan cũng xộc xệch
hơn. Hồi đó, gần như nhà nào cũng viết tên nhà mình lên
thân quạt bằng mực tím, mực xanh, như một cách để “đánh
dấu” chủ sở hữu.
Cây quạt này nhà tôi mới mua gần đây, dù giờ quạt máy và
điều hòa đã rất phổ biến. Có một điều lạ là con trai tôi rất
thích gió từ chiếc quạt nan, nó bảo: mẹ quạt bằng tay đi cho
con đỡ bị ho. Tôi để ý thì đúng thật! Bật điều hòa hay quạt
máy, gió thổi ra thường làm trẻ con hay ho, viêm họng. Quạt
bằng quạt nan thì hơi mỏi nhưng lại có thể điều tiết được
hướng gió, chỉnh được mức độ nên trẻ con không bị ho khi
nằm gió quạt nan. Điều này, không biết mấy ai còn để ý?


Một góc quạt nan



Thêm nữa, tìm hiểu sâu hơn về chiếc quạt, bạn có thể khám
phá ra cả một nền thủ công mây tre đan vô cùng tinh xảo,
khéo léo của Việt Nam. Đó là lý do tại sao tôi chọn cây quạt
nan để đưa vào bài viết này.

Con dao

Vật dụng thứ ba, lại tiếp tục là một đồ vật vô cùng quen
thuộc: Con dao.


Con dao nhà tôi


Nhìn bức ảnh này, có lẽ các bạn nghĩ đây là một con dao
nhọn. Nhưng sự thật, con dao này không hề nhọn. Nó có hình
dáng thuôn nhọn như thế là do nhà tôi dùng nó đã ngót nghét
hai mươi năm. Thử so với hình ảnh một con dao gần giống
như vậy, khi còn mới, thì bạn mới thấy cái phần thép hao
khuyết đi ấn tượng đến thế nào. Từ con dao này, cũng đã có
biết bao bữa rau, bữa thịt được chế biến. Con dao càng dùng
càng quen tay, quen đến từng điểm tỳ, từng vết lõm mà bàn
tay người cầm đặt vào.


So sánh nó với một con dao mới, có hình dáng tương tự để
thấy độ mòn ấn tượng



Nhà tôi cũng có những con dao mới, nhưng lạ một điều là cứ
dùng dao mới thì cứ ngường ngượng thế nào, thao tác cũng vì
thế mà kém khéo léo, nhanh nhẹn. Thế nên, quay đi quay lại,
những người đứng bếp ở nhà tôi đều dùng con dao cũ. Nó
không mới, không đẹp, nhưng nước thép thật bền, thật bén,
có lỡ tay băm làm quằn lưỡi thì mài vào trôn bát vài đường là
lại sắc như mới. Điều này không dễ thấy ở một con dao thời
bây giờ, nhất là những con dao inox.
Và, cũng giống như những vật dụng nêu trên, nếu tìm hiểu về
nguồn gốc của con dao, bạn có thể thấy cả một kho tri thức
về nghề rèn nông cụ rất thú vị của Việt Nam.

Cái bát ăn cơm

Khi viết phần này, tôi muốn viết cụ thể về chiếc bát ăn cơm
của sứ Hải Dương. Nhưng rất đáng tiếc là loại bát mà tôi
định viết giờ không thể tìm thấy ở bất cứ đâu, nên riêng với
đồ vật này, tôi không để ảnh chụp.

Cách đây khoảng chục năm thì bát sứ Hải Dương là một mặt
hàng “hot” của các bà nội trợ. Còn hiện tại, nó đã trở thành
một chiếc bát của quá khứ, gần như không thể tìm thấy trên
thị trường. Chiếc bát đơn giản với màu men trắng chủ đạo,
viền bằng những đường thẳng song song màu đỏ quanh
miệng bát, không cầu kỳ, không tô vẽ. Thế nhưng nó lại là
một ấn tượng tuổi thơ đặc biệt đối với tôi, nhất là khi chuyển
từ chiếc bát sứ có màu xỉn sang bát sứ Hải Dương men trắng.
Bát sứ cũ có màu men xanh, đáy bát vẫn còn nguyên cả vành
tròn gờn gợn của chiếc đáy phía dưới, và lấm tấm những hạt
cát do công nghệ nung còn chưa phát triển. Khi chuyển sang

một chiếc bát sứ Hải Dương trắng trẻo, dày dặn, ngày đó, tôi
chỉ thấy sung sướng vì mình không phải ăn trong một cái bát
mà theo tôi là có màu “bân bẩn”. Nhưng phải đến tận bây
giờ, khi bát sứ Hải Dương ngày đó cũng trở nên lỗi mốt, tôi
mới thấy quý những chiếc bát “bân bẩn” ngày xưa. Chỉ tiếc là
tôi không giữ được chiếc bát nào như thế, tiếc nhất là cái bát
chiết yêu mà bà nội tôi bán cháo sườn ngày xưa… Chúng
chưa thể gọi là đồ cổ, nhưng với tôi, chúng chứa đựng cả một
tuổi thơ đẹp đẽ.

Và đương nhiên, nghề gốm sứ của Việt Nam mình, chỉ qua
vài chiếc bát thì chẳng thể nào nói hết. Nhưng đó chẳng phải
là một nghề cần phải gìn giữ và phát triển hay sao???

Cái chiếu

Chiếu cói


Có lẽ, ngay cả ở thời hiện tại, ở Việt Nam, người ta vẫn trọng
chiếu cói hơn các loại chiếu nilon, chiếu trúc… Đơn giản là

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×