Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Điều trị bệnh Alzheimer từ những dấu hiệu đầu tiên pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.52 KB, 12 trang )









Điều trị bệnh Alzheimer
từ những dấu hiệu đầu
tiên

Alzheimer là hiện tượng thoái hóa não bộ không có khả
năng phục hồi ở người cao tuổi, gây nên chứng mất trí và
sa sút trí tuệ.


Ca bệnh Alzheimer đầu tiên được phát hiện vào năm 1907.
Từ đó đến nay, số lượng bệnh nhân ngày Những tổn thương
ở tế bào thần kinh vỏ não và các cấu trúc xung quanh làm sa
sút trí nhớ, suy giảm sự phối hợp vận động, giảm cảm nhận
của các giác quan…, dần dần dẫn đến tình trạng mất trí nhớ
và mất các chức năng tâm thần kinh.

càng gia tăng, nhất là khi tuổi thọ của con người ngày càng
tăng nhờ vào tiến bộ của ngành y tế.
Theo thống kê năm 2005 tại châu Âu, số lượng người bị bệnh
Alzheimer tăng cao hơn so với các bệnh lý phổ biến khác
như đột quỵ, tiểu đường, ung thư vú… Trên thế giới, tỷ lệ
người dưới 70 tuổi mắc bệnh này là 5% và trên 80 tuổi là 40 -
50%.


Theo dự đoán của các nhà khoa học Hoa Kỳ, từ nay đến năm
2030, số lượng bệnh nhân Alzheimer ở nước này sẽ khoảng
600 ngàn người, trong đó 50% là bệnh nhân trên 85 tuổi.


Dự đoán những dấu hiệu sớm

Hiện tại, y học vẫn chưa có thuốc chữa khỏi hoàn toàn bệnh
Alzheimer, nhưng có thể điều trị triệu chứng và chăm sóc
hiệu quả cho người bệnh khi sớm phát hiện những dấu hiệu
bệnh.

Từ 55 đến 60 tuổi, chúng ta cần khám chuyên khoa để nhận
biết những dấu hiệu của rối loạn trí nhớ như suy giảm nhận
thức nhẹ (Mild Cognitive Impairment - CMI), nhất là khi có
các biểu hiện sau đây:
- Cuộc sống bị đảo lộn do suy giảm trí nhớ (quên những sự
việc mới vừa nhắc đến, quên tên người quen, quên công việc
quan trọng cần làm…).
- Không thể tập trung hoặc tự xây dựng và thực hiện kế
hoạch làm việc (giảm khả năng hoạch định kế hoạch, liên tục
không thể hoàn thành nhiều công việc do khó tập trung và
không biết nên giải quyết việc đó như thế nào, ngay cả những
việc đơn giản và quen thuộc).
- Nhầm lẫn các thời điểm trong ngày (sáng tưởng là trưa hoặc
tối), đôi khi quên mình đang ở đâu và cần đến đâu.
- Mắt nhìn kém vì bị đục thủy tinh thể, do đó khó đọc chữ,
không phân biệt được màu sắc, khó nhận biết khoảng cách xa
gần…
- Khả năng ngôn ngữ kém (nói và viết khó khăn vì không thể

tìm ra đúng từ để diễn đạt ý muốn nói, nói chuyện thiếu tính
logic).
- Ngày càng xa lánh mọi người, tránh tiếp xúc với người
thân, bạn bè, không còn hứng thú với những thú giải trí quen
thuộc.
- Tính khí thay đổi thất thường, thường hay cáu kỉnh, nghi
ngờ, phiền muộn, lo âu, sợ hãi không có lý do.
Vai trò của gia đình trong điều trị
Việc điều trị bằng thuốc chỉ đạt hiệu quả cao trong những
giai đoạn khởi phát của bệnh. Trên thị trường hiện có các loại
thuốc giúp kích thích não tiết ra nhiều Acetylcholin (chất có
vai trò dẫn truyền thông tin) giúp cải thiện chức năng hoạt
động của não nhằm giảm bớt tình trạng suy giảm trí nhớ và
tăng khả năng tư duy của người bệnh. Tuy nhiên, các loại
thuốc trên chỉ tác động tốt trong giai đoạn người bệnh mới bị
Alzheimer.
Trong việc điều trị bệnh này, việc theo dõi và kiên nhẫn
chăm sóc của người thân có vai trò vô cùng quan trọng. Ở
giai đoạn đầu, người bệnh có thể tự khắc phục tình trạng suy
giảm trí nhớ của mình bằng cách lập bảng ghi nhớ, ghi vào sổ
tay và nhờ mọi người xung quanh nhắc nhở.

Ngoài ra, bệnh nhân cần thay đổi lối sống bằng cách thực
hiện các biện pháp giảm căng thẳng (câu cá, nghe nhạc, tập
yoga), đi dạo thường xuyên, làm các bài tập trí nhớ (chơi đố
ô chữ, sudoku)…
Khi bệnh đã chuyển sang giai đoạn nặng thì người bệnh rất
dễ rơi vào trạng thái nguy hiểm như bị trầm cảm, đi lạc, thậm
chí muốn tự tử… nên rất cần sự giám sát liên tục của người
thân. Nên cho bệnh nhân đeo vòng có ghi rõ địa chỉ, số điện

thoại để dễ tìm khi người bệnh đi lạc.
Ngoài các phương pháp trên, hiện các nhà khoa học trên thế
giới đang tập trung nghiên cứu thêm các phương pháp phòng
ngừa và điều trị khác cho căn bệnh này. Nhìn chung, các kết
quả thu được là khả quan.
Phòng bệnh Alzheimer
Do còn nhiều hạn chế trong điều trị bệnh Alzheimer nên việc
phòng ngừa bệnh vô cùng quan trọng, có vậy người bệnh mới
không trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Dưới đây
là một số nguyên tắc giúp phòng bệnh Alzheimer:
- Năng tập luyện thể chất và tinh thần. Hoạt động thể chất
thường xuyên giúp lưu thông máu và dưỡng chất đến cho não
tốt hơn, giúp mô não khỏe mạnh và tăng cường khả năng
phòng chống bệnh tật, đồng thời giúp não thực hiện tốt các
chức năng thần kinh.
Vì vậy, giới chuyên môn khuyến cáo là mọi người, đặc biệt
là nhóm người trung niên trở lên nên luyện tập thể thao đều
đặn, đi bộ hoặc chạy bộ từ 30 đến 60 phút mỗi ngày.
Nghiên cứu của các bác sĩ ở Đại học Pittsburgh (Canada) cho
thấy đi bộ nhiều có thể làm giảm nguy cơ bị Alzheimer. Đi
bộ ít nhất tám cây số mỗi tuần có thể giúp tăng chức năng
của não đến mười năm, đặc biệt là các khu vực vỏ não có
nhiệm vụ lưu giữ ký ức và trung tâm tư duy.
- Không ngừng tiếp thu kiến thức mới. Nên thường xuyên bổ
sung kiến thức bằng cách đọc sách, tự mày mò, tìm tòi để
giúp bộ óc không bị trì trệ và suy giảm trí nhớ cũng như khả
năng tư duy.
Thực tế cho thấy những người cao tuổi thường xuyên dùng
máy tính làm việc, đọc truyện, xem tin tức, chơi cờ, làm
thơ… thì đầu óc tỏ ra minh mẫn hơn nhóm người không có

thói quen này.
- Tìm cách thoát khỏi áp lực. Stress và trầm cảm là nguyên
nhân làm tăng nguy cơ bệnh Alzheimer. Tình trạng stress liên
tục làm cho cơ thể bài tiết nhiều hormone cortisol, tác động
xấu đến vùng não đảm nhận chức năng nhắc nhớ và tư duy,
gây tình trạng rối loạn và làm cho trí nhớ suy giảm đáng kể.
- Chú ý đến việc ăn uống. Các nhà nghiên cứu về bệnh
Alzheimer đã chỉ ra rằng càng ăn ít mỡ động vật thì tỷ lệ
bệnh càng giảm. Một bằng chứng rõ ràng là tỷ lệ người Nhật
sống tại Mỹ bị bệnh Alzheimer cao gấp hai lần so với người
Nhật sống tại quê hương họ.
- Không hút thuốc lá. Những người hút thuốc lá và cả những
người hít phải khói thuốc lá hằng ngày có khả năng bị mắc
bệnh Alzheimer cao gấp hai lần những người sống trong môi
trường bình thường không có khói thuốc.
- Bổ sung vitamin E. Vitamin E có nguồn gốc chống oxy hóa,
giúp làm chậm quá trình suy giảm trí nhớở con người, tức là
có tác dụng ngăn ngừa bệnh Alzheimer.
Các chất chống oxy hóa có sẵn trong cơ thể thường xuyên
làm nhiệm vụ kích thích hoạt động của vùng não có chức
năng về trí nhớ và khi cơ thể được bổ sung vitamin E thì cơ
chế trên lại càng hiệu quả và làm giảm bệnh.
Vitamin E có nhiều trong các loại thực phẩm: đậu tương, giá
đỗ, vừng, lạc, hạt hướng dương…
- Sử dụng nhóm thuốc NSAID. NSAID (Non-Steroidal Anti-
Inflamamatory Drug) là nhóm thuốc kháng viêm và giảm đau
thường được bác sĩ kê đơn giảm đau cho người bệnh, từ đau
đầu, đau lưng cho đến đau xương khớp.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia tại Đại học Y Harvard
(Mỹ), nhóm bệnh nhân mắc bệnh viêm khớp dạng thấp nếu

dùng nhóm thuốc này có khả năng giảm được tới 50% rủi ro
mắc bệnh Alzheimer.
Trong thực tế, những người đã mắc bệnh Alzheimer nếu
dùng Aspirin hoặc các thuốc NSAID thì khả năng ngôn ngữ
và các chức năng thần kinh được cải thiện rõ rệt, trí nhớ được
tăng cường, minh mẫn hơn so với những người không dùng
thuốc đó.

×