Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Lịch sử ra đời và phát triển của Gia Định báo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.12 KB, 43 trang )

1

Phần I: Khái quát lịch sử ra đời và sự phát triển của Gia Định Báo
1. Lịch sử ra đời của Gia Định Báo
1.1 Nguyên nhân ra đời
Có thể nói trong thời kỳ đầu tiên của chế độ thuộc địa Pháp tại Nam
Kỳ, một trong những công cụ được sử dụng sớm nhất là báo chí. Đầu
năm 1862, khi hịa ước Nhâm Tuất (5.6.1862) công nhận quyền thống trị
của Pháp tại Sài Gịn và ba tỉnh miền Đơng Nam Kỳ chưa ra đời thì họ đã
phát hành tờ cơng báo bằng tiếng Pháp đầu tiên có tên là Bulletin officiel
de I’expédition de Cochinchine (Nam Kỳ viễn chinh công báo: BOEC).
Trang đầu của tờ báo nêu rõ: “Tờ Nam Kỳ viễn chinh cơng báo đăng
những văn kiện chính của ơng Tổng tư lệnh sẽ phát hành mỗi tuần một
lần; nó bao gồm các nghị định, quyết định và thơng cáo có liên quan đến
các giới chức dân sự và quân sự và cư dân nước ngoài thuộc lục địa
Châu Á sống tại Nam Kỳ, trong những tỉnh đặt dưới thẩm quyền của
nước Pháp. Các quảng cáo và lời rao thương mại được đăng ở một trang
riêng kèm theo tờ công báo…”
Cuối trang, chính quyền thực dân cũng thơng báo cả việc phát hành
song song một tờ Bulletin des Communes (Làng xã cơng báo) in bằng
chữ Hoa, cũng với mục đích tương tự. Ngày 1.1.1864, Pháp cho ra đời tờ
Courrier de Saigon (Sài Gịn thư tín). Báo ra nửa tháng một kỳ, nội
dung gần gũi với báo chí đời thường hơn, vì ngồi phần cơng vụ, cịn có
các mục nghị luận, khảo cứu, quảng cáo… Cũng trong năm 1864, một cơ
quan quan trọng được thành lập có tên Direction de I’ Intérieur (Nha nội
vụ) cũng có chức năng như tờ BOCF nhưng trong một tấm mức hạn hẹp
hơn. Những điều kể trên cho thấy, chỉ trong chưa đầy 5 năm nắm quyền
thống trị phân nửa lãnh thổ Nam Kỳ, sau khi cho ra đời đủ loại báo bằng
cả tiếng Pháp lẫn tiếng Hoa thì việc thực dân Pháp phát hành một tờ báo
bằng chữ Quốc ngữ là một biện pháp tất yếu nhằm kiện toàn bộ máy cai



2

trị của họ. Và Gia Định Báo đã góp mặt vào sinh hoạt báo chí những năm
đầu Pháp thuộc trong bối cảnh như thế.
1.2 Lịch sử ra đời Gia Định Báo
Khi Kerguda sang làm Thống Đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la
Cochinchine) đã có lời mời cụ Trương Vĩnh Ký ra làm quan, nhưng cụ từ
chối và xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là Gia Định Báo. Lời yêu
cầu của cụ được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản được ký
ngày 1/4/1865, nhưng không phải ký cho cụ Trương Vĩnh Ký mà lại ký
cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux (một viên thông ngôn làm ở
Soái phủ Nam Kỳ). Và phải đến ngày 16/9/1869 mới có Nghị định của
Chuẩn đơ đốc Marie Gustave Hector Ohier ký giao hẳn tờ Gia Định Báo
cho cụ Trương Vĩnh Ký đứng làm chủ biên (Quyết định số 189:
“Quyết định:
Kể từ hôm nay, việc biên tập tờ Gia Định Báo được giao phó cho ơng
Pétrus Trương Vĩnh Ký, người với tư cách là chánh tổng tài của tờ này,
sẽ được lãnh một khoản lương hàng năm là 3000 đồng quan Pháp. Tờ
báo tiếp tục ra mỗi tuần. Nó sẽ được chia ra làm hai phần: một phần
chính thức gồm các văn kiện, quyết định của ông Thống đốc và nhà cầm
quyền với tài liệu bằng tiếng Pháp do Nhà Nội vụ cung cấp và được ông
Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ Quốc ngữ; phần khác, khơng chính thức, sẽ
gồm có những bài viết bổ ích và vui về những đề tài lịch sử, những sự
kiện về luân lý, thời sự…để có thể đọc được trong các trường học bản xứ
và khiến cho công chúng Việt Nam quan tâm đến. Trước khi phát hành,
việc trao đổi sẽ thực hiện tại Nha Nội vụ. Giám Đốc Nha Nộ vụ lãnh thi
hành quyết định này: Quyết định sẽ được vào sổ và phổ biến ở những nơi
xét thấy cần thiết”- Theo nhà nghiên cứu Lê Nguyễn). Qua sự việc này
thì Gia Định Báo được coi là tờ báo tiếng Việt đầu tiên của nước ta.



3

1.3 Ngày phát hành số báo đầu tiên
Chi tiết về số báo đầu tiên của Gia Định báo được phát hành có nhiều
thơng tin trái ngược nhau. Có tác giả như cụ Đào Trinh Nhất (tự Quán
Chi, là nhà văn, nhà báo Việt Nam của thế kỷ 20, cụ cộng tác cho các tờ
báo như: Phụ nữ tân văn, Công luận, Thần chung, Tân Văn, Việt nam,
Điễn tin, và làm chủ bút báo Ðuốc Nhà Nam) thì cho rằng số đầu tiên
được ấn hành năm 1867, một số tác giả và nhà nghiên cứu khác lại cho
rằng ngày 1/4/1865 mới là đúng, và gần đây nhất thì có người đưa ra giả
thuyết, vẫn là giả thuyết thơi vì chưa có gì xác minh rõ ràng là sự thật
nằm ở đâu, là ngày 15/4/1865. Tuy nhiên nếu xét cho kỹ thì giả thuyết
1867 là hồn tồn khơng thích đáng, cịn ngày 1/4/1865 thì cũng khơng
hợp lý vì ít có khả năng ngày ký giấy phép lại cũng là ngày phát hành tờ
báo, không thể in báo trước rồi mới xin phép; do đó, ngày phát hành số 1
của Gia Định Báo hợp lý nhất là ngày 15-4-1865. Tuy nhiên, thông tin về
ngày xuất bản số báo đầu tiên vẫn còn nhiều tranh cãi. Chi tiết này cũng
gây hoang mang cho giới nghiên cứu trong một thời gian dài. Vào thập
niên 1940, học giả Đào Trinh Nhất trong bài “Thử tìm long mạch của tờ
báo ta” đăng trên tờ Trung Bắc chủ nhật (1942) cho rằng số Gia Định Báo
đầu tiên phát hành năm 1867. Mộ số tác giả khác cho là ngày 1.4.1865,
nhưng không ai viện dẫn được một chứng cứ cụ thể nào về thời điểm có
liên quan. Điều này cũng dễ hiểu, vì từ ngay thập niên 1960, tại Thư viện
quốc gia Sài Gòn (nay là Thư viện Tổng hợp TPHCM) chỉ còn lưu trữ các
số báo từ thập niên 1880 trở đi, căn cứ vào dòng chữ in “năm thứ 16” trên
trang đầu một số báo phát hành năm 1880 nhiều người trừ lùi thời gian để
có con số 1865. Đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận sự ra đời
số Gia Định Báo đầu tiên là vào ngày 15/4/1865, căn cứ vào chứng liệu

duy nhất tìm thấy là một văn thư đề ngày 9/5/1865 do Thống đốc Nam
Kỳ G.Roze gửi cho Bộ trưởng Bộ Hải quân và thuộc địa Pháp, trong đó


4

có nhắc đến việc tờ Gia Định Báo “phát hành vào ngày 15 tháng 4 vừa
qua…”(theo Huỳnh Văn Tòng – Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến
1945, Nhà xuất bản TPHCM, trang 59, 60). Tác giả Huỳnh Văn Tòng
cũng tìm thấy tờ Gia Định Báo số 4 phát hành vào 15/7/1865 tại trường
Sinh ngữ Đông phương, Paris (Pháp); điều này phủ nhận thời điểm do
học giả Đào Trinh Nhất đưa ra (1867) vào năm 1942. Từ những cứ liệu
trên, các nhà nghiên cứu đã thống nhất Gia Định Báo ra đời ngày 15
tháng 4 năm 1865.
1.4 Gia Định Báo tồn tại trong bao lâu?
Trong các tài liệu nghiên cứu phổ biến trước năm 1974, chi tiết này
hoặc được đưa vào sự dự đốn của các học giả, hoặc khơng được nhắc
đến. Căn cứ vào những số báo còn lưu trữ trong thư viện và năm mất của
học giả Trương Vĩnh Ký, một vài tác giả trong đó có nhà báo Nguyễn
Ngu Í (Nguyễn Hữu Như) trên tạp chí Bách Khoa xuất bản vào tháng
1/1966, suy đốn tờ báo đình bản vào năm 1897. Tập “Mục lục báo chí
Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965)” của Lê Ngọc Trụ cũng ghi thời
gian tồn tại của Gia Định Báo là 1865-1897. Đến thập niên 1970, các số
Gia Định Báo phát hành vào năm 1909 do Huỳnh Văn Tịng tìm được tại
Pháp đã phủ nhận chi tiết sai lạc trên. Tháng 10 năm 1974 trên giai phẩm
Bách Khoa số 416 (trang 73-74) đã cơng bố một chi tiết tìm thấy trong
một vài kiện in trên Tập san hành chánh Nam Kỳ năm 1909, trang 3464.
Đó là nghị định ngày 21/9/1909 của Thống đốc Nam Kỳ Guorbeil ấn định
ngày chính thức đình bản của Gia Định Báo là 1/1/1910. Theo nhà nghiên
cứu Lê Nguyễn nhắc lại một cứ liệu xác định Gia Định Báo tồn tại đến

ngày 31 tháng 12 năm 1909 (44 năm), và chính thức đình bản vào 1 tháng
1 năm 1910.


5

Như vậy có thể xác định thời gian tồn tại của Gia Định Báo là 44 năm
từ 15.4.1865 đến 31.12.1909.
2. Tiến trình phát triển của Gia Định Báo
“Trong tháng này sẽ ra số thứ nhất một tờ báo in bằng tiếng An nam
thơng thường. Dưới hình thức thu hẹp ấn bản sẽ gồm các tin tức ở thuộc
địa, giá cả nhiều loại hàng và một vài ý niệm hữu ích cho người bản xứ.
Tờ báo sẽ ra hằng tháng và sẽ phát không trong các trường học để học
sinh khá trong các làng mạc có thể đọc được…”
Lời rao xuất bản của Gia Định Báo được đăng ngày 5/4/1865 trong số
7 tờ Courrier de Saigon đã đánh dấu sự ra đời của nền báo chí Việt Nam.
Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng một kỳ, 4 trang, khổ 32x25(cm). Trên
đầu trang nhất, tên Gia Định Báo được in bằng chữ Hán, bên dưới có ghi
“Tờ báo này mỗi tháng Tây cứ ngày rằm in ra một lần ai muốn mua cả
năm ‘phải trả 6 góc tư’ ” Sau đó, báo ra mỗi tháng 2 kỳ và cuối cùng là
phát hành hàng tuần vào thứ 3. Giá báo mỗi năm 20 quan, 6 tháng 10
quan, 3 tháng 5 quan, “ai muốn mua thì cứ đến dinh quan Thượng lại” .
Đến ngày 2/6/1900 thì chữ Gia Định Báo bằng tiếng Hán khơng còn nữa
và được thay bằng chữ Pháp “République Francaise, Liberté – Egalité –
Fraternité”. Tiền mua báo được sửa lại bằng đồng bạc thay cho đồng quan
Pháp: 1 năm 8 đồng.
Gia Định Báo xuất bản liên tục trong 32 năm (1865-1897) trong những
năm cuối thì xuất bản rời rạc, gom thành một khối lượng thông tin cực kỳ
phong phú. Gia Định Báo dàn trải khắp thời kỳ Pháp xâm chiếm nước ta:
miền Đông Nam Kỳ, miền Tây Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung kỳ. Có thể đọc

trongGia Định Báo tất cả những quyết định, luật lệ, thay đổi về chính trị,
hành chính, tư pháp, giáo dục, văn hóa, kinh tế… cho mọi tầng lớp sĩ
nông công thương ở nước ta, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc.


6

Từ tháng 4/1865 đến tháng 9/1869, dưới quyền điều hành của Ecnet
Pốttơ, Gia Định Báo nặng về tính chất cơng báo, đăng cơng văn, nghị
định, những văn kiện chính thức của nhà cầm quyền Pháp và những bài
nhằm phổ biến, giải thích các văn kiện chính thức của Phủ Tổng đốc Nam
Kỳ. Báo được lưu hành tận các xã thôn vì các làng buộc phải xuất cơng
quỹ ra mua báo.
Khuynh hướng của Gia Định Báo trong giai đoạn này phụ thuộc vào
nhà cầm quyền chủ trương ra báo và người điều hành trực tiếp là người
Pháp. Năm 1869, Trương Vĩnh Ký đảm nhiệm Giám đốc Gia Định Báo
thay cho E.Pốt-tô theo nghị định của Đô đốc Ohier, chủ bút là Huỳnh
Tịnh Của. Từ khi Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc, nội dung của Gia Định
Báo phong phú, sinh động hẳn lên. Ông đã chuyển Gia Định Báo từ một
tờ báo theo thể thức công báo thành một tờ báo thông thường và chủ
trương “viết như nói thường”, chống viết theo lối cổ. Ngồi việc báo phải
đăng những cơng văn, nghị định của nhà cầm quyền, báo còn đăng những
bài nghiên cứu về lịch sử, thơ, truyện cổ…Đồng thời báo cổ động cho lối
học mới, phát triển chữ quốc ngữ, khuyến khích trí thức buổi giao thời
viết báo, viết văn bằng chữ quốc ngữ.
Để cho nội dung báo phong phú và sinh động, Gia Định Báo tổ chức
mạng lưới cộng tác viên, thông tin viên ở các tỉnh để thu nhận tin tức
mới, những chuyện lạ để đăng báo. Trong số báo ngày 8/4/1870, Chánh
Tổng tài Trương Vĩnh Ký có viết bài gửi thông tin viên ở các tỉnh như
sau:

“ Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập…đặng hay:
Nay việc làm Gia Định Báo tại Sài Gòn, ở một chỗ nên khơng có lẽ mà
biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi, nên xin
các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại
chỗ, tại xứ mình ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm


7

Bệnh hoạn, tai nạn
Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt.
Cháy chợ, cháy nhà: mùa màng thế nào.
Tại sở nghề nào thạnh hơn…
Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ đem vơ nhựt trình cho người ta
biết. Viết rồi thì phải để mà gửi cho Gia Định Báo Chánh Tổng tài ở Chợ
Qn.
Viết cho Gia Định Báo ngồi hai ơng Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh
Của là những người cộng tác cho báo ngay từ đầu, cịn có các ơng Trương
Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Pô-luýt Lương, Pô-luýt Tôi…, người Pháp thì
có Ec-nét Pốt-tơ, Cút-tơ Pan-da (Cutte panjas), Xê-ghin (Séguin). Hầu hết
những người viết cho Gia Định Báo đều là cơng chức trong bộ máy chính
quyền của thực dân Pháp, độc giả thời kỳ đầu cũng chủ yếu là công chức,
vì lúc bấy giờ ít người biết chữ quốc ngữ.
Năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ký quyết định cho ông Trương Vĩnh
Ký thôi giữ chức Giám đốc Gia Định Báo, cử J.Bonet thay. Ít lâu sau,
E.Pốt-tơ trở lại thay Bonet. Từ đó phương hướng biên tập của báo thay
đổi, trở lại tính chất cơng báo như ban đầu. Sau đó đến Trương Minh Ký,
Nguyễn Văn Giàu, Diệp Văn Cương đảm nhiệm cương vị quản lý Gia
Định Báo. Sang đầu thế kỷ 20, năm 1909, Gia Định Báo khơng cịn tác

dụng gì mấy trong việc thực hiện chính sách của thực dân Pháp nên báo
đình bản sau 44 năm tồn tại.
Phần II: Cơ cấu tổ chức của Gia Định Báo
1. Bộ máy quản lý của Gia Định Báo
Có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những quan điểm về người quản
lý Gia Định Báo:


8

Tác giả Đoàn Thị Đỗ trong “Le Journal au Vietnam et les périodiques
Vietnamiens de 1865 à 1944” (Paris - 1958) xác định người kế nhiệm
Trương Vĩnh Ký chính là Huỳnh Tịnh Của (Báo chí Việt Nam từ khởi
thủy đến 1945, trang 60). Tác giả Nguyễn Q. Thắng trong “ Tiến trình
văn nghệ miền Nam” (Nxb Văn Học -1988) cũng khẳng định “…đến khi
Trương Vĩnh Ký mất, Huỳnh Tịnh Của được cử làm chủ bút” (trang 264).
Theo tác giả Huỳnh Ái Tông, từ năm 1872, một người Pháp tên là
J.Bonet được cử làm Chánh tổng tài Gia Định Báo. Chi tiết này phù hợp
với hai trong những tư liệu do tác giả Phạm Long Điền sưu tập được liên
quan đến hành trạng của học giả Trương Vĩnh Ký. Đó là “Thư của
Trương Vĩnh Ký đề ngày 25.11.1873 gửi giám đốc Nha Nội để xin cử
nhiệm một chức duy nhất” và “Quyết định của thống soái Nam Kỳ đề
ngày 29.11.1873 cử Trương Vĩnh Ký là giáo sư ngôn ngữ Đông phương
với số lương hàng năm là 9.000 quan Pháp”
Trong “Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930” tác giả Bằng Giang
cho rằng Trương Minh Ký làm chủ bút Gia Định Báo từ năm 1881 đến
1897.
Điều khó khăn là khơng như báo chí hiện nay, các số Gia Định Báo còn
lưu trữ đều không ghi tên ban biên tập. Trong nội dung số báo phát hành
vào đầu thập niên 1880, người ta nhận thấy rằng ở phần Cơng vụ và

Ngồi cơng vụ, các văn kiện hành chính bằng chữ Pháp dịch ra chữ Quốc
ngữ đều khơng có tên người dịch; chỉ riêng phần Thứ vụ ở cuối tờ báo ,
các bài viết của Trương Minh Ký và Emest Potteaux hay J. Bonet là có đề
tên tác giả. Mặt khác, các văn kiện bổ nhiệm Trương Vĩnh Ký và Huỳnh
Tịnh Của vào thời kỳ này chỉ ghi chức danh "Thầy dạy tiếng phương
Đông" (TVK) hay "Phủ hạng nhứt" (HTC) chứ không ghi chức danh nào
ở Gia Định Báo như đã làm với Trương Vĩnh Ký vào năm 1869 (Nghị
định số 210 ngày 27.9.1869 bổ nhiệm ơng làm nghị viên Hội đồng thành
phố Sài Gịn ghi rõ ông là Giám đốc tờ Gia Định Báo) Những dữ liệu này


9

cho phép tạm gạt bỏ giả thuyết Huỳnh Tịnh Của là người kế nhiệm
Trương Vĩnh Ký trong chức danh Chánh tổng tài Gia Định Báo, đồng
thời có thể xác định là từ sau năm 1873, hai ơng vẫn cịn đảm trách phần
dịch các văn kiện hành chánh trên tờ báo này, nhưng không với tư cách là
Chánh tổng tài. Giả thuyết Trương Minh Ký làm Chánh tổng tài từ năm
1881 đến 1897 của học giả Bằng Giang là tương đối hợp lý hơn, vì trong
thời gian này, người ta thấy ông xuất hiện hầu như trên mỗi số Gia Định
Báo, bài viết của ông phong phú và vào những năm 1890, chính ơng đã
diễn âm và đăng trên Gia Định Báo nhiều tác phẩm văn hoc dân gian ít
người được biết đến.
Điều đáng ngạc nhiên là về bộ máy quản lý của tờ Gia Định Báo không
thấy tài liệu nào đề cập đến hai nhân vật có tên Nguyễn Văn Giàu và
Diệp Văn Cương cả. Những đây chính là hai người phụ trách cuối cùng
của tờ báo này. Cũng trên giai phẩm Bách Khoa số 416 kể trên, có trình
bày một phần nghị định ngay 20/9/1908 của Thống đốc Nam Kỳ Outrey
đăng trên Tập san hành chánh Nam Kỳ, trang 2864, với nội dung tạm
dịch như sau: “…ông Diệp Văn Cương, thông ngôn hạng nhất ngạch

châu Âu được giao trách nhiệm biên tập tờ Gia Định Báo kể từ ngày
21/5/1908, thay thế ông Nguyễn Văn Giàu được giao nhiệm vụ khác. Với
cương vị này, đương sự sẽ được lãnh phụ cấp 250 đồng (piastre) dự liệu
định ngày 27.12.1901”
Ông Diệp Văn Cương thì hầu như ai cũng biết tiếng, là người chủ
trương tờ Phan Yên Báo những năm 1898-1899, là một thơng ngơn giỏi
trong chính quyền thuộc địa, đồng thời là chồng người cô ruột của vua
Thành Thái. Riêng ông Nguyễn Văn Giàu thì gần như xa lạ với giới
nghiên cứu.
Với những dữ liệu kể trên thì những người quản lý tờ Gia Định
Báo là:
+ Ernest Potteaux từ 4.1865 đến 9.1869


10

+ Trương Vĩnh Ký từ 9.1869 đến 1872
+ J.Bonet từ 1872 đến 1881
+ Trương Minh Ký từ 1881 đến 1897
+ Nguyễn Văn Giàu từ 1897 đến 1908
+ Diệp Văn Cương từ 1908 đến 1909
2. Chủ bút và cộng tác của Gia Định Báo
Những cá nhân viết cho Gia Định Báo chủ yếu là những người quản lý
tờ báo này như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Nguyễn Văn Giàu,
Diệp Văn Cương, J.Bonet, E. Potteaux. Ngồi ra cịn có các nhân vật
khác như Vũ Thành Đức, Lê Văn Thể, Trần Đại Học, Nguyễn Đình
Chiểu, Tơn Thọ Tường, Pơ-lt Lương, Pơ-lt Tơi, Cutte Panjas,
Séguin…
2.1 Sơ lược tiểu sử một số cá nhân tiêu biểu của Gia Định Báo
2.1.1 Trương Vĩnh Ký

Trương Vĩnh Ký (sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 – mất ngày 1 tháng 9
năm 1898) khi mới sinh có tên là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo
Công giáo nên có tên thánh: Jean - Baptiste Pétrus, nên cịn gọi tắt là
Pétrus Ký. Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà bác học Việt
Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển
Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại
hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.
Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ và được coi là
người đặt nền móng cho báo chí Quốc ngữ Việt Nam. Ơng sáng lập, là
tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo), cũng là cây
bút chủ chốt của rất nhiều báo khác. Tên ông từng được đặt tên cho
trường Trung học Pétrus Ký nay là Trường Trung học Phổ thông chuyên
Lê Hồng Phong (Thành phố Hồ Chí Minh).
Tiểu sử


11

Trương Vĩnh Ký sinh tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý,
huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ
Lách, tỉnh Bến Tre).
Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị
Châu. Năm ông 3 tuổi, thân phụ ông được triều đình cử đi sứ sang Cao
Miên rồi mất ở bên ấy.
Nhờ mẹ tần tảo, lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán tại
Cái Mơn. Năm 9 tuổi, ông được Linh mục Tám đem về nuôi, vì nhớ ơn
ơng Thi (cha của Pétrus Ký) đã hết lịng che giấu ơng lúc nhà Nguyễn
cấm đạo Cơng giáo gắt gao. Ông Tám mất, hai nhà truyền giáo người
Pháp (thường gọi là Cố Hòa, Cố Long) thấy Pétrus Ký vừa thơng minh
vừa chăm học, nên đem về trường dịng ở Cái Nhum dạy chữ Latinh.

Năm 1848, Cố Long đưa Pétrus Ký sang học tại Chủng viện Pinhalu ở
Phnom Penh (Cao Miên).
Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có Pétrus
Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Giáo Hoàng ở Penang
thuộc (Malaysia). Đây là một trường chuyên đào tạo các tu sĩ cho vùng
Viễn Đông...
Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký đang học đến nửa năm thứ 6 (chỉ
còn một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức Linh mục) thì phải vội về
nước vì mẹ ơng qua đời. Lúc Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn, cũng
là lúc thực dân Pháp đem quân sang xâm chiếm Việt Nam (Đà Nẵng bị
tấn cơng ngày 1 tháng 9 năm 1858). Vì thế, việc cấm đạo công giáo cũng
diễn ra gay gắt hơn.

Cộng tác với Pháp
Không du học nữa, và cũng không thể ở quê nhà, Trương Vĩnh Ký
chạy lên Sài Gòn vào tá túc nhà vị Giám mục người Pháp Lefèbre, và


12

được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20
tháng 12 năm 1860. Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị
Thọ (con gái ông Vương Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang (Chợ
Quán) do Linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai và dời về cư ngụ
ở Chợ Quán, Sài Gòn.
Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (Collège
des Interprètes), ông được nhận vào dạy.
Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm
đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Phan Thanh Giản
xin Trương Vĩnh Ký đi theo làm thông ngôn. Sang Pháp, Pétrus Ký cùng

phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Hoàng đế Napoléon III, gặp nhiều
nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngồi ra, ơng cịn được
sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến Giáo hồng tại
Rơma. Về nước, năm 1865, Trương Vĩnh Ký viết cho tờ Gia Định báo (tờ
báo bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên) do ông Ernest Potteaux làm quản
nhiệm.
Năm 1866, ông thay thế Linh mục Croc làm Hiệu trưởng Trường
Thông ngôn. Ngày 15 tháng 9 năm 1869, ông được Thủy sư đô đốc Pháp
là Ohier bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo và tờ An Nam chính trị và
xã hội. Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư phạm (École normale) được
thành lập, Pétrus Ký được cử làm Hiệu trưởng.
Ngày 1 tháng 4 năm 1871, Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất
huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn. Năm
1873, Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu
Bổ (Collège des administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng
bắt đầu viết sách.
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ơng ra Bắc Kỳ tìm hiểu
tình hình miền Bắc. Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên
người Nam, được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn.


13

Năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier
d'Académie).
Năm 1886, Paul Bert (nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật
học) được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn
là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. Đến
Huế, Pétrus Ký được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện
Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. Ngày 11 tháng 11 năm đó,

Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân khơng
cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình
Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài
Gịn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thơng ngơn và viết sách...
Cuối đời
Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Trương Vĩnh Ký
vẫn bị người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào
ngạch giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Rồi năm 1888, trường
Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp.
Và khi trước, lúc còn được ưu ái, những sách của Trương Vĩnh Ký đều
được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho học sinh.
Nhưng từ khi bị hất hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền riêng
ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ.
Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa
Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí
tư nhân Thơng Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888-1889).
Sống trong hoàn cảnh buồn bã, túng quẩn, bệnh hoạn luôn, Pétrus Ký qua
đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898.
Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện
nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc Quận 5,
thành phố Hồ Chí Minh.
Chức vụ, huân huy chương


14

Không những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn
học chữ quốc ngữ mà ơng cịn là một học giả rất nổi tiếng. Trong quá
trình hoạt động, ông đã được nhận các chức việc và huân huy chương:
- Nhận huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng

10 năm 1863.
- Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng
Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu.
- Năm 1874, được phong giáo sư ngơn ngữ Á Đơng, vì Pétrus Ký đã
thơng hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới.
- Trong cuộc bầu chọn “ Toàn Cầu Bác Học Danh Gia” vào năm 1874,
Pétrus Ký đã được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 “ Thế giới Thập
Bát Văn Hào”.[4].
- Nhận huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27
tháng 6 năm 1886.
- Trở thành hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15
tháng 2 năm 1876.
- Trở thành hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm
1878.
- Nhận huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng
5 năm 1883.
- Nhận Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều
ngày 17 tháng 5 năm 1886.
- Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm
1886.
- Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887
- Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt.
- Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.
- Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
- Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.


15

- Trước đây, tên của ông được Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng hịa đặt

cho một ngơi trường trung học lớn ở Sài Gòn. Sau năm 1975, trường này
được đổi tên là trường trung học Lê Hồng Phong.
Một số tác phẩm
Ơng có rất nhiều tác phẩm (118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm), lược kê
một số như:
-Truyện đời xưa
-Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
-Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
-Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine
- Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
- Voyage au Tonkin en 1876 (Đông Kinh du ký)
- Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
- Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
- Lục súc tranh công
....

2.1.2 Huỳnh Tịnh Của
Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) hay còn gọi là Paulus Của ("Paulus" ở
đây đọc là "Phao-lô"), hiệu Tịnh Trai, quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất
Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), là một
nhà văn hóa học và ngơn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên
cứu, phát triển và truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu, đặc biệt là
ở Nam bộ.
Tiểu sử
Thời trẻ, Huỳnh Tịnh Của đi du học tại một trường công giáo ở
Penang, Malaysia. Sớm tiếp thu tư duy nghiên cứu khoa học phương Tây,
ông tinh thông cả tiếng Hán và tiếng Pháp. Năm 1861, Huỳnh Tịnh Của


16


được bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Sối
phủ Sài Gịn. Ngồi cơng việc của một viên chức chính phủ, ơng cịn lưu
tâm giành nhiều thời gian nghiên cứu chữ quốc ngữ. Năm 1865, ông thay
Trương Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo quốc ngữ Gia Ðịnh báo trong
một thời gian ngắn.
Mặc dù tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn, tuyệt đại đa số các tác
phẩm của ông được viết bằng chữ quốc ngữ, vào thời bấy giờ vẫn chưa
được coi trọng và bị đánh giá thấp hơn so với chữ Hán hay chữ Pháp.
Huỳnh Tịnh Của từng đề nghị dùng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán và
gửi một bản điều trần cho vua Tự Đức, yêu cầu cho xuất bản báo chí quốc
ngữ để giáo dục quần chúng, nhưng khơng được chấp nhận.
Tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa phương Tây, Huỳnh Tịnh Của cùng chia
sẻ một quan niệm với Trương Vĩnh Ký, theo đó, xã hội Việt Nam có khả
năng và cần vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật phương
Tây về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân,
nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hóa phương Đơng cổ truyền
để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập.
Ơng là một trong số ít người "Tây học" đầu tiên trước tác bằng chữ
quốc ngữ để truyền bá học thuật phương Tây, nhưng vẫn không quên phổ
biến văn hóa phương Đơng cổ truyền. Sau và cùng với Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của là người có cơng xây đắp rất nhiều cho nền văn chương
quốc ngữ trong những bước đầu, nhất là ở Nam Kỳ.
Ông mất năm Đinh Mùi (1907), thọ 73 tuổi, an táng tại Bà Rịa.
Tác phẩm
Huỳnh Tịnh Của sáng tác cả thảy khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp
chúng thành hai loại: loại biên khảo và loại phiên âm.
Loại biên khảo có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác
các tác phẩm đời trước, bao gồm:
1. Chuyện giải buồn, 2 tập, 112 truyện (in năm 1880 và 1885);



17

2. Maximes et proverbes (1882);
3. Gia lễ (1886);
4. Bác học sơ giai (1887);
5. Quan chế (1888);
6. Ðại Nam quấc âm tự vị, 2 cuốn (1895 và 1896);
7. Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngơn (1897);
8. Câu hát góp (1904);
9. Ca trù thể cách (1907).
Loại phiên âm, chuyển sang quốc ngữ những chuyện nôm xưa của các
tác gia đời trước, bao gồm:
1. Quan âm diễn ca (in năm 1903);
2. Trần Sanh diễn ca (1905);
3. Chiêu Quân cống Hồ truyện (1906);
4. Bạch Viên Tôn Các truyện (1906);
5. Văn Doanh diễn ca (1906);
6. Thoại Khanh, Châu Tuấn truyện (1906);
7. Thơ mẹ dạy con (1907);
8. Tống Tử Vưu truyện (1907).
Đa số các sách trên đều đã thất truyền, chỉ cịn tìm lại được ba cuốn là
Ðại Nam quốc âm tự vị, Chuyện giải buồn và Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.

2.1.3. Trương Minh Ký
Trương Minh Ký (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1855, mất 11 tháng 8
năm 1900),biệt hiệu Thế Tải là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ơng thơng
Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác
với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định báo, Thơng Loại Khóa Trình cũng

như viết sách dạy Pháp văn.
Sự nghiệp


18

Ơng hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huỳnh
Tịnh Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều
hơn văn xi.
Ơng có được trao tặng:
- Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier d'académie) - Kim
Khánh bội tinh của Nam triều và Hồng gia Campuchia.
Ơng mất vào ngày 11-08-1900, mộ ơng được chơn cất trong nghĩa
trang gia đình, nơi Trương Gia Từ nằm trên đường Lý Thường Kiệt, Gò
Vấp, Gia Định ( Gần Tổng Y Viện Cơng Hịa).
Tác phẩm
- Phong thần bá áp khảo
- Ấu học khải phong
- Trị gia cách ngôn
- Cổ văn chơn bửu
- Pháp học tân lương (Cours gradué de Langue-Francaise) 1895
- Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature Annamite, relié
1891
2.1.4. Diệp Văn Cương
Diệp Văn Cương (? - 1929), hiệu Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, Cuồng Sĩ;
là nhà báo, nhà giáo ở đầu thế kỷ 20. Ông được Vương Hồng Sển xem là
nhân vật đại diện nhóm trí thức.
Thân thế và sự nghiệp
Diệp Văn Cương sinh tại Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng
Tháp). Năm sinh của ông không rõ. Nhiều nhà nghiên cứu ghi năm sinh

ông khác nhau như R. B. Smith ghi 1876, Ngun Thăng ghi 1862, Lê
Nguyễn thì ước đốn khoảng thập niên 1860.
Thuở nhỏ, nhà nghèo nhưng hiếu học, ông được chính quyền thực dân
Pháp ở Nam Kỳ cho đi học tại trường Giám mục d'Adran. Nhờ vậy, sau


19

khi tốt nghiệp trung học, ơng được chính quyền thực dân cấp học bổng du
học ở Alger vào đầu thập niên 1880 và đỗ tú tài ở Pháp cùng với Nguyễn
Trọng Quản (1865–1911).
Làm thầy vua
Thành tài về nước, Diệp Văn Cương được chính quyền thuộc địa cho
theo quốc tịch Pháp và đi dạy tại Trường Chasseloup Laubat (tục danh là
"Trường Bổn quốc"). Trong thời gian này, ông về cư ngụ tại gia trang
riêng ở làng An Nhơn, quận Gò Vấp, hạt Gia Định (nay thuộc Thành phố
Hồ Chí Minh).
Tháng 4 năm 1886, Paul Bert được cử sang làm Tổng công sứ Trung Bắc Kỳ. Ông được mời ra Huế làm thơng ngơn cho tịa Khâm sứ Huế.
Cuối năm đó, ơng được cử làm thầy dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh
thay cho Trương Vĩnh Ký. Khoảng tháng 5 năm 1887, triều đình Huế mở
trường dạy tiếng Pháp, gọi là Sở Hành Nhơn, ông được cử làm Chưởng
giáo (Hiệu trưởng), hàm Kiểm thảo. Ơng lập gia đình với Cơng nữ Thiện
Niệm, con của Thoại Thái vương Hồng Y, em vua Dục Đức và là cơ ruột
của Hồng tử Nguyễn Phúc Bửu Lân.
Giúp Bửu Lân lên ngôi
Vua Ðồng Khánh mất, Cơ mật viện khơng dám chọn vua mới nên phải
sang Tịa khâm sứ để hỏi ý kiến. Diệp Văn Cương đang làm việc tại đây
(chức vụ Bí thư kiêm thơng dịch viên cho Tịa Khâm) lãnh trách nhiệm
thơng dịch. Tương truyền, ơng đã giúp cháu ruột của vợ là Hoàng tử Bửu
Lân nối ngôi vua.

Sách Nguyễn Phước Tộc Thế Phả (trang 39) chép:
Cơ mật viện hỏi: "Hiện nay vua Ðồng Khánh đã thăng hà, theo ý của
q Khâm sứ thì nên chọn ai kế vị?". Diệp Văn Cương dịch câu trên
thành: "Nay vua Ðồng Khánh đã thăng hà, lưỡng tôn cung và Cơ mật
viện đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân lên nối ngơi, khơng biết ý kiến của
q Khâm sứ như thế nào?"


20

Nghe vậy quan Khâm sứ đáp: "Nếu lưỡng cung và Cơ mật viện đã
đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân thì tơi xin tán thành". Câu này Diệp Văn
Cương lại dịch là: "Theo ý tơi thì các quan Cơ mật nên chọn hoàng tử
Bửu Lân là hơn cả".
Vào ngày 2 tháng 2 năm 1889, Bửu Lân lên ngôi đặt niên hiệu là
Thành Thái. Khi đó, vị hồng tử này mới 10 tuổi.
Làm Chủ nhiệm Phan Yên báo
Sau khi Thành Thái lên ngơi, ơng trở lại Sài Gịn, làm Đầu Phịng
phiên dịch cho Sối phủ Nam Kỳ. Vợ ơng là bà Thiện Niệm vẫn ở lại
Huế. Năm 1894, bà sinh một người con trai, đặt tên là Diệp Văn Kỳ.
Khoảng cuối thập niên 1890, ông bước vào nghề báo, cộng tác với Gia
Định báo, Thơng loại khóa trình, Nhựt trình Nam Kỳ, và làm chủ nhiệm
tờ Phan Yên báo. Các tài liệu ghi năm ra đời và năm đình bản của Phan
Yên báo không giống nhau. Theo Từ điển bách khoa tồn thư Việt Nam
thì đây là tờ báo tiếng Việt thứ hai sau Gia Định báo, ra đời 1898, do Diệp
Văn Cương sáng lập và làm chủ nhiệm, xuất bản được 7 - 8 số thì bị nhà
cầm quyền Pháp đình bản vì đăng nhiều bài phê phán chủ nghĩa thực dân,
đặc biệt là loạt bài "Đòn cân Archimede" ký tên Cuồng Sĩ.
Hoạt động chính trị ở Nam Kỳ
Phan Yên báo bị đóng cửa, ơng khơng nản chí trong việc tham gia hoạt

động chính trị. Ơng ra tranh cử và trúng cử chức Ủy viên trong Hội đồng
Quản hạt tỉnh Bến Tre, rồi sau đó là Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (Conseil
Colonial de la Cochinchine).
Theo Lê Nguyễn, ông cùng 5 nghị viên bản xứ trong Hội đồng Quản
hạt Nam Kỳ thường xuyên dùng quyền phủ quyết công khai để bảo vệ
quyền lợi cho dân thuộc địa. Điển hình như kiến nghị phản đối một số
thừa sai dịng tu Cơng giáo chiếm đất và yêu cầu nhà cầm quyền đưa ra
các biện pháp luật lệ bảo vệ đất đai của dân chúng năm 1907.


21

Năm 1908, ông được bổ nhiệm làm biên tập tờ Gia Định báo, thay thế
ông Nguyễn Văn Giàu, theo nghị định ngày 20 tháng 9 năm 1908 của
Thống đốc Nam Kỳ Louis Alphonse Bonhoure.
Năm 1910, ông giúp đỡ một người bạn đồng liêu cũ ở Huế là Nguyễn
Sinh Sắc vào sinh sống ở Nam Kỳ.
Khi gần tuổi hưu, ông đến dạy Sử học và Việt văn trường Chasseloup
Laubat như trước.
Ông mất năm Kỷ Tỵ (1929).
Tác phẩm
Tác phẩm của Diệp Văn Cương có:
- Syllabaire quốc ngữ (sách vần quốc ngữ) (1919)
- Recueil de morale annamite (1917)
- Báo Phong Hóa (dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ).
Ngoài ra theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, ơng cịn có quyển
Việt Nam luân lý tập thành. Cũng theo từ điển này, thì đây là quyển sách
giáo khoa luân lý đầu tiên ở Việt Nam.
+ Như trên đã viết, những bài viết trên Gia Định Báo rất ít khi đề tên
tác giả, do đó khơng thể thống kê chính xác được số lượng người đã viết,

biên tập cho tờ báo này. Ngoài ra, nhiều tác giả chỉ biết tên mà tiểu sử
không được biết đến nên không thể đề cập trong mục này.

Phần III: Nội dung, hình thức và đặc điểm ngơn ngữ của Gia Định
Báo
1. Nội dung của Gia Định Báo
Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: Công vụ và
Tạp vụ. Phần Công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, cơng


22

quyền, đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền
thực dân; cịn phần Tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực:
kinh tế, tơn giáo, văn hóa - xã hội... Sau khi Trương Vĩnh Ký làm giám
đốc, Gia Định báo được thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài
dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích...
Ơng đề ra ba mục đích cho tờ báo: Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân
học và khuyến học trong dân. Từ đó, báo khơng chỉ làm một tờ cơng báo
đơn thuần nữa.
Nhìn chung, cấu trúc của Gia Định Báo chia làm 4 phần chính:
Đó là các phần: Cơng vụ; Ngồi cơng vụ; Thứ vụ; Quảng cáo
+ Cơng vụ - Tin dây thép
Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, cơng quyền,
đăng các cơng văn, nghị định, thơng tư, đạo dụ của chính quyền thực dân.
Ví dụ:
“Quan Khâm mạng kinh cho các quan làm đầu về việc cai trị cùng các
quan làm đầu phẩn sở hay giấy hòa ước cùng nhà nước Annam, quan Bộ
Langsa là Patenôtre ký tồn tại Huế rối là ngày mồng 6 Juin. Thế cho
quan Khâm mạng công xuất Le Géneral Bouet” (Gia Định Báo số 2 năm

22, ngày thứ bảy, 23 janvier 1886)
- Trường thông ngôn: Bài vở học trong trường thông ngôn định ra như
sau này:
- Người Tây – Tiếng Annam
Năm đầu: Cắt nghĩa chuyện đời xưa, văn Lục Vân Tiên
Năm thứ hai: Cắt nghĩa Kim Vân Kiều, tuồng tập ca ngâm, thème, làm
bài tiếng Annam...
Ngồi ra cịn có các mục như:
- Chương trình giáo dục phổ thơng: học sử Việt Nam, địa lý Việt Nam,
kho học, thi cử


23

- Tổ chức hành chính cơng vụ
- Gọi thầu: Điện nước, ống cống, làm cầu, làm chợ, xe điện, tàu hỏa,
tàu thủy
- Làm mới địa bạ (sổ đỏ)
- Luật mở hàng quán (Com-non Com)
- Quy hoạch, phát triển thành phố
- Hiệp ước quốc tế nhân danh Việt Nam
+ Phần ngoài công vụ
Bao gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
tơn giáo, văn hóa xã hội...ngồi ra cịn đăng tải các tin tức chiến sự.
Ví dụ: “Các đạo binh Lang-sa đã vào mà lấy đặng Sơn Tây rồi...ngày
16 dé embre, sau khi thơ tôi đã gởi đi lần sau hết ấy
Ngày 14, các tàu neo tại trông một chỗ ngã sông, xa thành chừng 1000
thước, mà khởi sự bắn trái phá lên thành...”(Gia Định Báo ngày 12-111884)
+ Phần thứ vụ
Đây là một chuyên mục mang những thơng tin mềm, phụ vục giải trí

và giáo dục (giới thiệu chi tiết trong phần phụ lục, mục: Thứ vụ - một
chuyên mục giá trị của Gia Định Báo)
+Phần rao vặt và quảng cáo
Phần này phục vụ người dân, chính quyền khi có nhu cầu.
Ví dụ:
+ “Đến ngày mồng 1 janvier 1884, tiệm cầm đồ tại Chợ lớn sẽ dời qua
đường Paris, số 12, 14, 16, 20. Tiệm cũ thì đóng cửa, cơng việc cũng y
như trước.


24

Về việc người ta nói những đồ cầm trong tiệm cũ, đến mồng 1 janvier
tới sẽ phát mãi, thì là khơng thiệt bởi vì tiệm mới sẽ lấy hết” (Gia Định
Báo ngày 5-1-1884)
Số báo ngày 20-9-1885 có đăng Lời đa tạ của Đức Giám Mục Sài
Gòn như sau:
“Tại hạt Chợ lớn có một người bá hộ tên là Hà Minh Châu đã giao
trong tay Đức giám mục Samôsát hai ngàn đồng bạc, có ý làm phước
giúp mất người bổn đạo Bình Định mắc phải tồi tàn khốn nạn.
Có một điều này đáng cho ai nấy làm lạ, càng đáng tặng khen, là vì kẻ
đã làm ơn rộng hậu thế ấy chẳng phải là người giữ đạo Thiên Chúa,
song là người ngoại giáo, mà đã lấy lòng đại độ, giữ câu ai nhơn như kỷ,
thấy kẻ lầm than cơ khát, thì chạnh lòng ra tay thương giúp.
Hẳn thật là những bổn đạo Bình Định ngày nay chả dám quên ơn rất
trọng làm vậy, song sẽ nhớ cầu khẩn cùng đấng chí tơn xuống ơn chan
chưa giúp kẻ đã tư trợ mình trong cơn eo hẹp
Isidore Ev. De Samosate”
2. Hình thức trình bày của Gia Định Báo
Thời gian đầu, tờ Gia Định Báo chỉ in có 4 trang, khổ giấy 32x25. Trên

đầu trang nhất là chữ Gia Định Báo bằng chữ Hán. Bên dưới ghi: “Tờ báo
này mỗi tháng tây cứ ngày rằm in ra một lần, ai muốn mua phải trả 6 góc
tư”
Thời gian khơng lâu, Gia Định Báo xuất bản mỗi tháng 2 lần. Thời
gian tiếp sau đó phát hành mỗi tuần một lần vào thứ 3.
Về cách trình bày, ta thấy các bài báo in xen kẽ nhau, bằng những cột
dài, khơng có ngắt đoạn cũng như sang trang hay cột, điều này có thể do
kỹ thuật layout thời bấy giờ cịn thơ sơ, lạc hậu. Thời gian 15 năm đầu,
ngồi các phần Cơng vụ, các bài cịn lại đăng ở phần Thứ vụ, thời gian
sau tờ báo có 4 phần rõ ràng: Cơng vụ, Ngồi cơng vụ, Thứ vụ và Quảng


25

cáo. Năm 1893, cách chia trên khơng cịn tồn tại nữa, Gia Định Báo lúc
này có 3 phần Cơng vụ, Tạp vụ và Quảng cáo.
Năm 1898, Gia Định Báo có hai phần Công vụ và Thứ vụ. Nhưng
trong phần mục lục báo năm 1909 lại ghi 4 phần: Công vụ, Cấp bằng,
Thuyên bổ, Thứ vụ và Lời rao.
Như vậy, đến khoảng năm 1880, các phần Ngồi cơng vụ và Quảng
cáo lại tách khỏi Thứ vụ và phần Thứ vụ trở thành một chuyên mục riêng
biệt.
Gia Định Báo được coi là tờ báo tiếng Việt đầu tiên của nước ta, mặc
dù việc trình bày các nội dung trên báo chưa được khoa học, do những
nguyên nhân khách quan, nhưng điều này cũng không thể làm giảm
những giá trị mà tờ báo này đã mang lại.


×