Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

tieu luan triet hoc phat giao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.41 KB, 39 trang )

PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài.
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - Tôn giáo lớn trên
thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng
phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào
nước ta từ khoảng thế kỷ II sau công nguyên, do các nhà sư từ Ấn Độ truyền
bá và từ Trung Quốc truyền sang từ thế kỷ VI sau cơng ngun, đã nhanh
chóng trở thành một tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần
của con người Việt Nam. Tuỳ từng giai đoạn lịch sử, dân tộc ta đều có một
học thuyết tư tưởng hoặc một tơn giáo nắm vai trị chủ đạo, có tác động
mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở
thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin
từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên, những học thuyết
này khơng được ở vị trí độc tơn, mà song song tồn tại với nó vẫn có các học
thuyết, tôn giáo khác tác động vào các khu vực khác nhau của đời sống xã
hội, đồng thời cũng tác động trở lại các học thuyết chủ đạo.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta, nhưng
bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống
dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng, tình cảm
của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xố bỏ hồn tồn ảnh hưởng
của nó là khơng thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách
hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ q độ cũng như sau này.
Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của đạo Phật đối với
thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu
nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của
Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một
phương cách để hướng cho họ một nhân cách đúng đắn. Theo đạo để làm
điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không
1



trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin
của quần chúng nhân dân.
Hơn nữa, quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền
với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy
khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập
đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của
người Việt Nam hiện nay nhằm tìm kiếm các giải pháp phù hợp để phát huy
tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của Phật giáo trong quá trình
xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa là việc làm cần thiết trong giai đoạn
hiện nay
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
1. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài hệ thống hóa thế giới quan và nhân sinh quan của Phật giáo,
phân tích ảnh hưởng của thế giới quan và nhân sinh quan đó đối với đời sống
xã hội và con người Việt Nam. Từ đó đưa ra những định hướng nhằm phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo trong việc xây dựng lối
sống mới của người Việt Nam hiện nay.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề
tài có nhiệm vụ:
- Khái quát những nội dung cơ bản của thế giới quan và nhân sinh quan
Phật giáo.
- Khái quát được quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam.
- Phân tích được những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống xã hội và
con người Việt Nam trên các phương diện tư tưởng triết học, tư tưởng chính
trị cũng như văn hóa, lối sống của con người Việt Nam
- Đề xuất quan điểm nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống
mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

2


III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới quan
và nhân sinh quan của Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã
hội và con người Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài những ảnh hưởng
của thế giới quan và nhân sinh qua của Phật giáo đến đời sống xã hội và con
người Việt Nam xưa và nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài sử dụng một số phương pháp như:
phân tích - tổng hợp; thống kê - so sánh; phương pháp logic - lịch sử.

3


PHẦN B: NỘI DUNG
I. Khái quát về Phật giáo
1 Sự ra đời và phát triển của Phật giáo.
1.1. Sự ra đời của Phật giáo.
Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ VI tr.CN do Hoàng tử Tất Đạt Đa Siddhartha Gautama (563 - 483TCN), con trai của Trịnh Phạn Vương
(Suddhodana), vua nước Trịnh Phạn (Capilavatu), (nay là vùng Nam NêPan
và một phần các bang Utta, Pradeso và Biha của Ấn Độ) sáng lập,
Tương truyền rằng: “ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của
Suđhodana, Vua của người Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng
Anavatapta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa cho bà ở trong hồ

thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đố hoa sen ở vòi bước tới và
chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái được mời tới để giải mơ
của Hồng hậu. Các nhà thơng thái cho rằng giấc mơ là điềm Hồng hậu
đang có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ
trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày, đến
tháng, Hoàng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng
vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia khơng
xa, Hồng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon
đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay
ta không phải luân hồi một kiếp nào nữa!”.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử
được đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hồng tử khơng nghĩ tới việc tu hành,
đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống
vương giả. Hồng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua
tài ba anh minh trị vì một đất nước Ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần
thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương
giả khơng cám dỗ được Hồng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc mà hoàng tử chứng
kiến được đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hồng tử Siddhartha. Đó là một lần
4


khi đang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu
rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu như thế. Ít lâu
sau Hồng tử lại được chứng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh
trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con
người khỏi những trầm luôn đau khổ của kiếp luân hồi: Sinh, lão, bệnh, tử
chính sự việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó,
Hồng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự
tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất Hồng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra
đi trở thành nhà hành khất như thế.

Được tin, đức vua Satdodana tìm mọi cách ngăn cản Hồng tử. Thế
nhưng Hồng tử khơng thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng
kiến khiến lịng dạ của Hồng tử khơng lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin
mừng công chúa Yashodhara sinh cho chàng một Hồng nam cũng khơng
làm cho Hồng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời, khi mọi
người ngủ say, Hồng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối đánh thức
người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi
cung. Khi đã rời khỏi đơ thành Hồng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên
người bộ quần áo thường dân. Hồng tử dùng kiếm cắt bộ tóc dài của mình
và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao lại cho đức vua. Cịn
con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ơng chủ của nó nên đã lăn ra
chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở
thành nhà tu hành. Khi đó, ơng mới 29 tuổi.
Thoạt đầu, Hồng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh.
Sau đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các
phép thiền định và những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực hành
giải thoát cá nhân của Upanishad khơng hấp dẫn Hồng tử. Chàng đi tiếp và
nhập vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hồng
tử gần như chỉ cịn bộ xương khơ mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải
thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình
thường.
5


Khi Hồng tử Sidhartha 35 tuổi, một hơm ngài đến ngồi dưới gốc cây
bồ đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước
Magadha. Cho đến một hơm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân
trong vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống
sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ
khơng đứng dậy nếu khơng tìm ra sự giải thốt về điều bí ẩn của sự đau khổ.

Và Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Và cuối cùng,
Siddhartha đã ngộ đạo – nhận thức được căn nguyên sinh thành, biến hóa của
vạn vật trong vũ trụ, tìm ra được nguồn gốc của nỗi khổ, và từ đó chỉ ra
phương pháp diệt khổ cho con người. Rồi từ đó trở đi, người ta gọi ông là
Buddha, nghĩa là giác ngộ, Phật. Về sau, các đệ tử tơn ơng là Thích Ca Mâu
Ni, nghĩa là là bậc hiền triết của dịng tộc Thích ca.
Trong quãng đời còn lại, Phật đã truyền bá học thuyết của mình khắp
Ấn Độ. Sau khi qua đời ở tuổi 80, tư tưởng của ơng đã được học trị phát
triển thành một hệ thống tơn giáo triết học lớn, có ảnh hưởng khơng chỉ ở Ấn
Độ, mà cịn nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam. Phật giáo được coi là
một tôn giáo lớn của thế giới. Triết học Phật giáo cũng là một trong các nền
triết học lớn của thế giới.
1.2. Sự phát triển của Phật giáo.
Đạo Phật được Siddthartha Gautama truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ
vào thế kỷ 6 Tr.CN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Đức
Phật còn tại thế ra nhiều nơi, đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của
đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương
pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ
chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào tính chất khai
sáng và sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật được nhiều người tin theo
và có thể thích nghi với nhiều hồn cảnh xã hội, nhiều tầng lớp người, nhiều
tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn
tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên tồn thế giới ngay cả trong các nước
có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
6


Trước khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lưu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực
thành phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các đệ tử của ngài đã đem

Đạo Phật mở rộng đến hạ lưu sơng Hằng về phía Đơng, phía Nam đến bờ
sơng Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro.
Ở thời kỳ thống trị của vua Asoca thuộc vương triều Mauryan, Đạo phật bắt
đầu phát triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama, Nam tới
Sri Lanka, Tây tới Syria, Aicập .... Nhanh chóng trở thành tơn giáo mang tính
thế giới. Sau khi vương triều Casan (kushan) hưng khởi lại truyền tới Iran,
các nơi ở trung tâm Châu á, rồi qua con đường tơ lụa truyền vào Trung Quốc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nước như: Italya, Thuỵ sỹ,
thuỵ Điển, Tiệp Khắc.... việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sơi nổi, đã xây
dựng nên khơng ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật
học. Ví dụ sở nghiên cứu Trung Đơng, Viễn Đơng Italia, dưới sự chủ trì của
Đỗ Kỳ đã biên tập và xuất bản “ Tư sách La mã với Đông Phương” ( Đến
năm 1977 đã xuất bản được 51 loại ) trong đó bao gồm rất nhiều tác phẩm
Phật giáo. Ngay cả trong số người nổi tiếng trên thế giới ngày nay cũng chọn
Phật giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu thủ bóng đá Rơbettơ Bagiơ,
Erie Cantơna, siêu sao màn bạc Richard Gere.
2. Kinh điển của triết học Phật giáo.
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh
điển rất lớn khoảng 5000 cuốn, gồm 40 tập, được tổ chức thành ba bộ kinh
lớn gọi là “Tam Tạng” gồm:
- Tạng Luật: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho
cả năm bộ phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của thượng tọa bộ, Maha tăng
kỷ luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn
thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng Kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm
nhiều tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
7


- Tạng Luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của

Phật giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm
về giáo pháp của Phật giáo.
3. Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về thế giới quan và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
3.1. Về thế giới quan:
Quan điểm về vật chất và sự vận động của vật chất: Thế giới là thế
giới vật chất, sự vật và hiện tượng trong vũ trụ là vô thuỷ, vô chung (vô
cùng, vô tận), vì vạn vật là vơ thường (biến đổi khơng ngừng) . Ngay từ đầu
Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách
biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các
“đấng tối cao” của “Thượng đế” (vô thần) và cho rằng bản thể của thế giới
tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả.
Quan điểm của Phật giáo là tự nhiên khơng bị chia cắt, nó có tính toàn
vẹn, vận động liên tục, được quy định bởi mối quan hệ nhân - quả. Đất,
nước, lửa, khơng thí và thinh khơng là những thực thể vĩnh hằng, ngồi ra
cịn có thinh khơng trống rỗng vĩnh cửu. Linh hồn là thực thể khơng vĩnh
hằng. Ngun tử là vật chất có hình thức rất mỏng manh, khơng ngắn cũng
khơng dài, khơng vng cũng khơng trịn, khơng cong cũng khơng thẳng,
khơng cao cũng khơng thấp. Nó khơng thể bị chia, khơng nhìn thấy được,
khơng chạm tới được và khơng có mùi vị. Cơ thể với tư cách là những khách
thể cho cảm giác, lại chính là tổng hịa các ngun tử.
Phật giáo đưa ra tư tưởng “ Vô ngã”, “Vô thường”. Theo học thuyết
này, mọi sự vật quanh ta cũng như ta đều khơng có thực, mọi thứ đều là ảo,
giả, do vô minh mang lại. Thế giới, nhất là thế giới hữu tính – con người
được cấu tạo do sự nhóm họp của các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh
thần(Danh). Danh và sắc được chia thành 5 yếu tố (ngũ uẩn) gồm: Sắc (vật
chất); Thụ (cảm thụ ); Tưởng (ấn tượng); Hành (tư duy); Thức (ý thức).
8



Danh và Sắc chỉ hội tụ với nhau theo một nhân duyên nào đó rồi lại
chuyển sang trạng thái khác, do vậy “khơng có cái tơi” (vơ ngã). Bản chất
của sự tồn tại thế giới là một dòng biến chuyển liên tục (vơ thường), khơng
thể tìm ra ngun nhân đầu tiên và cũng khơng có kết quả cuối cùng. Do đó,
khơng có ai tạo ra thế giới và cũng khơng có cái gì là vĩnh hằng.
Vũ trụ là một hệ thống các quan hệ. Thế giới là thế giới vật chất, sự
vật và hiện tượng trong vũ trụ là vô thuỷ, vơ chung (vơ cùng, vơ tận). Do đó,
vận vật trong vũ trụ chỉ là những biến hóa liên tục, không ngừng theo luật
nhân – quả. Đối với vạn vật ln biến chuyển theo chu trình: Sinh – Trụ - Dị
- Diệt; Đối với con người là: Sinh – Lão – Bệnh – Tử . Phật giáo quan niệm
rằng, thế giới khơng có đầu và có cuối, nó là vơ hạn. Linh hồn không tồn tại
bền vững, không phải là sự vật bất biến, nó khơng bất tử. Thân thể chết thì
nó cũng bị mất. Con người ln bị ràng buộc bởi các quy luật tự nhiên.
Nguyên nhân tối thượng khơng bao giờ có. Sự vận động của thế giới do
những nguyên nhân bên trong gây ra, chứ không phải do sự tác động từ bên
ngồi.
Phật giáo trong q trình giải thích sự biến hố vơ thường của vạn vật,
đã xây dựng nên thuyết “ nhân duyên”. Trong thuyết “nhân duyên” có ba
khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được
gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Dun
khơng phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện
để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Theo quan niệm của Phật giáo, vạn vật trong vũ trụ là do Nhân Duyên – Quả tạo ra. Trong đó, cái Nhân nhờ có cái Duyên mới sinh ra được
thành Quả. Quả lại nhờ có Duyên mà thành Nhân khác, Nhân này lại nhờ
Duyên mà thành Quả mới.... Cứ như thế nối tiếp nhau vô cùng vô tận mà thế
giới, vạn vật, mn lồi, cứ sinh sinh, hố hố mãi.

9


Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của
cây lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bơng lại phải nhờ có điều kiện
và những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, khơng khí, ánh sáng. Những
yếu tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về ngun nhân biến hố vơ
thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lai. Phật giáo đã
trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên)
được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu
của sự liên kết nghiệp quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên
sáng tỏ).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức, ấy là hành làm quả cho
vơ minh và là nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm
quả cho hành và làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: ( Là tên và hành, ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và
tên của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm
nhân cho Lục xứ).
+ Lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri
thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục
nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân
cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên
cmở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ, ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và
làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngồi tác động vào

mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ Ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ, ấy là ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
10


+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho mình. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà
Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của
Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người,
làm súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho
Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải
chết. Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vịng vơ minh. Cho nên lại mang cái
nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn,
không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập
nhau lại mà sinh mãi mãi gọi là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà
làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi
12 nhân Dun mà vạn vật cứ sinh hố vơ thường.
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên tồn bộ thế giới
khơng tính đến cái lớn nhỏ, khơng tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một
hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả
vũ trụ hồ hợp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la.
Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Do Nhân - Duyên mà vạn vật sinh
hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Dun tan thì diệt.

Vạn vât sinh hố vơ cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dịng biến hố vơ tận
vơ thường, vơ thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vơ
thường của vạn vật, vạn sự theo nhân dun là thường cịn khơng thay đổi.
Do vậy tồn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ
cũng chỉ là dịng biến hố hư ảo vơ cùng, khơng có gì là thường định, là
11


thực, là khơng thực, có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có
khơng gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân
thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi
hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Quan điểm về không gian - thời gian: thời gian là vô cùng, không gian
là vô tận. Triết học Phật giáo vẫn đưa ra khái niệm đo lường cụ thể: Về
không gian thì có “Tam thiên”: Đại thiên, Trung thiên và Tiểu thiên, trong
mỗi Tiểu thiên thế giới thì có hàng chục ngàn thế giới khác; về thời gian thì
có “Tam kiếp”: Đại kiếp, Trung kiếp và Tiểu kiếp, mỗi Tiểu kiếp thì có hàng
chục triệu năm.
3.2. Về nhân sinh quan:
Phật giáo quan niệm bản thân con người không do thần thánh sinh ra,
mà là một bộ phận của giới tự nhiên, một phần đặc biệt của giới tự nhiên.
Con người gồm hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
- Sinh lý tức là thể xác: xương, thịt, da, tóc, phủ tạng…, hình chất với
yếu tố “sắc”, do 4 yếu tố vật chất tạo thành: địa, thủy, hỏa, phong. Trong đó,
địa tạo thành phần cứng; thủy tạo thành chất lỏng; hỏa tạo thành nhiệt; phong
tạo thành hơi thở.
- Tâm lý (tinh thần – ý thức): 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà khơng có
hình chất gọi là “ Danh”: thụ, tưởng, hành, thức.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con

người là:
+ Thụ: những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng.
+ Tưởng: suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Biểu hiện bằng 7 yếu tố tình cảm (thất tình): Ái, Ố, Nộ, Hỷ, Lạc, Ai,
Dục. Phần tâm lý dựa vào phần sinh lý và gắn liền với phần sinh lý.
Phật giáo quan niệm bản thân con người được tạo thành do sự nhóm
hợp của ngũ uẩn theo luật nhân – duyên – quả. Ngoài ra sự xuất hiện con
12


người còn phụ thuộc vào nghiệp của kiếp trước, do có ngiệp thiện mà được
trở lại làm người, tức một trong sáu con đường tái sinh – luân hồi ( Lục đạo:
Cõi phật, người, atula, quỷ, súc sinh, địa ngục). Được trở lại làm người là do
kiếp trước chưa tu thân triệt để, vì vậy cuộc đời vẫn chưa thốt khỏi bể khổ.
Kiếp người do đó là kiếp trầm luân.
Tư tưởng xuyên suốt của triết học Phật giáo là tư tưởng về sự giải
thoát. Giải thoát chúng sinh khỏi kiếp luân hồi. Sau khi lý giải được nỗi khổ
ở cuộc đời con người là do “thập nhị nhân duyên” làm cho con người rơi vào
bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Để giải thốt,
Phật giáo đưa ra thuyết “Tứ diệu đế” (4 chân lý vĩ đại).
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
3.2.1. Khổ đế: Đời là bể khổ - Là chân lý nói về sự khổ của người đời.
Và Phật giáo đã khái quát trong thuyết Bát khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử , thụ
biệt ly, sở cầu bất đắc, oán tăng hội, ngủ thủ uẩn. Con người và vạn vật sinh
ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ; Sở cầu bất đắc khổ:
điều con người cầu mong, mong muốn nhưng không được thỏa mãn là khổ,
Thụ biệt ly khổ: phải xa người mà mình yêu thương là khổ, n tăng hội

khổ: phải sống với người mình khơng ưa là khổ, Ngũ thủ uẩn khổ: khổ vì sự
hội tụ của ngũ uẩn. Cuộc đời của con người ngoài cái khổ ra thì khơng cịn
hiện diện gì cả. Dù ở đâu, làm gì cũng khổ..
3.2.2. Nhân đế (Tập đế): Mọi cái khổ đều phải có nguyên nhân - là
chân lý nói về nguyên nhân tạo ra sự khổ. Và Phật giáo quan niệm có thập
nhị nhân duyên gây ra khổ. Đó là vơ minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử. Khái quát là bởi tam độc: Tham, sân, si.
Đó là do con người có lịng tham, sân (giận dữ), si (si mê, cuồng mê, mê
muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con
người không nắm được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối tồn
vũ trụ. Chúng sinh khơng biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không.
13


Cái tơi tưởng là có nhưng thực là khơng. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền
miên, từ đời này qua đời khác.
3.2.3. Diệt đế: Mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được - là chân lý nói về
khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống chúng sinh để đạt tới
niết bàn. Phật gáo khẳng định, muốn diệt khổ phải diệt tham, sân, si, diệt
thập nhị nhân duyên, đưa ý thức con người về trạng thái tĩnh, hư không.
Nghĩa là mọi phát sinh đều tùy thuộc vào nguên nhân và điều kiện. Khi
nguyên nhân bị loại bỏ thì quả khơng cịn tồn tại. Vì mọi vật có điều kiện và
tương đối nên chúng đều nhất thời, và đã là nhất thời thì phải biến mất. Cái
đã được sinh ra thì phải chết. Sự sinh bao hàm cả sự diệt vong.
3.2.4. Đạo đế: Là chân lý nói về con đường tu tập phải theo. Phật giáo
chỉ ra con đường giải thoát diệt khổ, túc là diệt tham sân, si. Phật giáo chủ
trương vừa lấy trí tuệ, diệt trừ vơ minh, phá vịng ln hồi, lại thường xuyên
tu tập diệt trừ thăng dục để chuyển nghiệp đạt đến sự giải thoát. Thực hiện
Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ giới luật, thực hành thiền định
và khai thơng trí tuệ. Phật giáo đã trình bày con đường diệt vơ minh bằng

Bát chính Đạo, buộc ta phải tn thủ. Đó là:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để
cho những cái sai che lấp sự sáng suốt.
- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, khơng gian dối, khơng vu oan cho người
khác.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính mệnh: Sống trung thực, khơng tham lam, vụ lợi, gian tà,
khơng được bỏ điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên
để đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải ln ln hướng về đạo lý chân chính, khơng nghĩ
đến những điều bạo ngược gian ác.
14


- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính,
khơng bị thối chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ.
Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào 3 điều học tập, rèn luyện là
Tam học: Giới – Định – Tuệ.
+ Giới: (giữ giới luật): điều răn, cấm, quy định giúp người tu hành
không phạm phải lỗi lầm do tam nghiệp gây ra.
+ Định (thực hành thiền định): phương pháp giúp người tu hành không
tán loạn, phân tâm, nhờ đó loại trừ được ý nghĩ xấu.
+ Tuệ: (khai thơng trí tuệ) sự bừng sáng của tư duy.
Muốn thực hiện được “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để
thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và
những người làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người.
Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều
răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).

- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ
khác, khơng nói dối.
+ Bất tửu: Khơng được uống rượu.
- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đem cơng sức, tài trí, của cải để giúp người một cách
thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm
chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính khơng
để cho cái xấu che lấp.
15


+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế
gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện
“Bát hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thốt
mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo khơng chủ trương giải phóng bằng cách
mạng xã hội, mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người,
chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamơn giáo. Đó là một trong những
nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể
khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải
tạo thế giới hiện thực.
Tinh thần nhân văn nhân đạo: hướng con người tới sự giải thốt,

khơng phải là đặc ân riêng cho giai cấp nào, nhưng triết học Phật giáo không
gắn liền với thực tiễn. Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần,
phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vơ
thường, lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện
tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô
minh của con người tạo ra.
II. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống xã hội và con người
Việt Nam:
1. Quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt nam
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn chưa thống nhất
được với nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Có ý kiến cho
rằng, từ những thế kỷ trước công nguyên, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập
bến nước ta. Các thương nhân Ấn Độ khi đó đã đem theo văn hóa Ấn Độ
cùng Phật giáo đến Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Phật
giáo được du nhập vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ II sau công ngun.
Chúng tơi đồng tình với ý kiến của đa số các nhà nghiên cứu cho rằng Phật
giáo được truyền vào nước ta từ thế kỷ II sau công nguyên. Theo nhiều nhà
nghiên cứu, Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo chủ yếu từ Ấn Độ và Trung Hoa .

16


Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V đã có nhiều nhà sư Ấn Độ và Trung
Quốc cùng vào Việt Nam để truyền đạo như Mahakyvưc, Khưudala (AD),
Mâu Bác Cư sĩ (TQ). Ở thế kỷ thứ III có Khương Tăng Hội, Chi Lương
Cương người Ấn Độ, thế kỷ thứ IV có Du Pháp Lan, Du Đạo Tối người
Trung Quốc, thế kỷ thứ V có Đàm Hoằng. Ở thời kỳ này cũng có một số nhà
sư Việt Nam có danh tiếng như Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền. Q trình
truyền đạo này đã hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu (một trong 3
trung tâm Phật giáo lớn: Lạc Dương, Bành Thành, Luy Lâu).

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến đầu thế kỷ X vẫn
được xem là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên, giai đoạn này, ảnh hưởng của
các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền giáo Trung
Quốc tăng lên. Đáng chú ý hơn cả là việc truyền nhập các phái thiền Trung
Quốc vào Việt Nam, đặc biệt là hai phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi và phái thiền
Vô Ngôn Thông. Phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi truyền thừa đến 19 đời và Phái
Vô Ngôn Thơng truyền được 15 đời.
Tóm lại, chín thế kỷ đầu truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn
cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng Phật giáo đã tạo ra được ảnh
hưởng trong nhân dân và có những chuẩn bị cho sự phát triển mới trong giai
đoạn đất nước độc lập, tự chủ.
Đến thế kỷ thứ X, Việt Nam giành được quyền tự chủ. Chính trong
thế kỷ này Phật giáo mới bắt đầu hưng thịnh và có những đóng góp tích cực
cho đất nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng định ra phẩm trật tăng già và
ban chức cho tăng sĩ. Bắt đầu từ đây cho đến thế kỷ XIV, các thiền sư được
trọng dụng, được mời tham gia vào chính sự, góp phần to lớn vào công cuộc
hưng thịnh của quốc gia.
Vua Đại Hành sau khi hoà với nhà Tống đã sai sứ sang triều cống
Trung Hoa và xin thỉnh kinh Phật đem về truyền bá. Nhiều thiền sư đã được
vua Lê Đại Hành mời tham gia đóng góp trí tuệ cho đất nước như Thiền sư
Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh.
17


Có thể nói, trong 2 triều đại Đinh và tiền Lê, Phật giáo đã trở thành tôn
giáo chiếm địa vị ưu trội. Tất cả việc chăm lo phát triển văn hố, chính trị
trong nước, một phần lớn đều thuộc về hàng tăng sĩ, cho nên Phật giáo được
phổ biến dễ dàng trong quần chúng. Mặc dù Nho giáo và Lão giáo đã truyền
vào từ lâu, nhưng khơng có uy thế được như Phật giáo.
Sở dĩ Phật giáo đời Đinh và tiền Lê được ưu đãi và giữ địa vị độc tơn

vì các vị tăng sĩ phần nhiều là những người thơng hiểu Nho học. Chữ Nho
mặc dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng do chưa có khoa thi cử,
nên ít người theo học. Chỉ có các vị thiền sư vì cần nghiên cứu Phật giáo qua
kinh điển bằng chữ Hán, nên phải học Nho. Các vị thiền sư lúc bấy giờ thực
sự là những trí thức của dân tộc. Họ là người am hiểu nhiều về Nho, hiểu đạo
lý lại vừa là người có đức hạnh. Vì vậy, họ được triều đình trọng vọng, được
dân chúng kính nể là lẽ đương nhiên. Phật giáo được thịnh hành trong giai
đoạn này cũng là tất yếu.
Triều Lý, triều đại được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên và cũng là
triều đại thuần từ trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Lý Thái Tổ (Lý
Công Uẩn), vị vua đầu tiên sáng lập nên triều đại nhà lý là người xuất xuất
thân từ cửa Phật, được nuôi dưỡng và trưởng thành ở chốn thiền môn. Việc
lên ngôi của ông cũng do sự sắp sếp tài tình của thiền sư Vạn Hạnh. Điều đó
đủ nói lên sức ảnh hưởng của Phật giáo trong triều đại này. Mọi công việc
lớn nhỏ của nhà nước thế tục trong giai đoạn này như chuyện chính trị, qn
sự, ngoại giao, chuyện dời đơ đến chuyện dạy đạo đức cho dân... đều có sự
đóng góp ý tưởng của các vị thiền sư
Triều đình phong kiến lúc này đã cử sứ thần sang Trung quốc thỉnh
kinh và khuyến khích việc xuất gia tu hành. Phật giáo được trọng dụng nên
phát triển rất nhanh. Chùa Phật được xây dựng ở hầu khắp các làng xã và trở
thành trung tâm tôn giáo lớn nhất ở nông thôn miền Bắc Đại Việt lúc đương
thời. Nhiều thiền sư nổi tiếng về việc tu hành và có nhiều đóng góp to lớn
cho đất nước, như sư Vạn Hạnh, sư Viên Chiếu, sư Mãn Giác, sư Khơng Lộ,
sư Viên Thơng…Có thể nói, hơn 200 năm dưới triều đại nhà Lý, Phật giáo đã
18


chiếm được địa vị độc tơn và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi phương diện
của đời sống xã hội Đại Việt.
Sang đời Trần, bộ máy hành chính nhà nước đã dần được xây dựng và

hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Nho giáo dần chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống tinh thần cũng như trong tổ chức xã hội. Nhưng Phật
giáo thời Trần đến giữa thế kỷ XIV vẫn giữ được sự thịnh vượng của nó. Các
vua nhà Trần ý thức được rõ ràng vai trò của cả Nho giáo và Phật giáo đối
với xã hội. Trần Thái Tơng đã viết: “Cái phương tiện để mở lịng mê muội,
con đường tắt để rõ lẽ sinh tử, ấy là đại giáo của Đức Phật. Làm cán cân cho
hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai ấy là trọng trách của tiên thánh...”.
Trải qua một quá trình du nhập và phát triển đến đời Trần, Phật giáo ở Việt
Nam đã có sự góp mặt của 3 thiền phái từ Ấn Độ và Trung Quốc là Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Đến đầu thế kỷ thứ XIII, ba thiền
phái nói trên đã dần dần nhập lại làm một để hình thành nên phái thiền mang
đậm tính chất dân tộc là phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Các tăng sĩ đời Trần khơng trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị
như các Thiền sư đời Lý, nhưng Phật giáo vẫn là một yếu tố quan trọng để
liên kết nhân tâm, cố kết cộng đồng. Tinh thần Phật giáo đã giúp cho các nhà
chính trị đương thời có những kế sách thân dân trong việc củng cố, xây dựng
và bảo vệ đất nước. Không thể phủ nhận được rằng, Phật giáo đã có những
đóng góp tích cực góp phần làm nên hào khí Đơng A lừng lẫy một thời của
dân tộc Đại Việt qua những chiến thắng bình Ngun, dẹp Mơng. Ở thời
Trần, rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây
dựng. Phật giáo thời Trần đã có có sự phát triển đến cực thịnh.
Từ giữa thế kỷ XIV, cùng với sự suy vi của triều đại nhà Trần, Phật
giáo cũng dần mất đi tính nhập thế tích cực và ngày càng suy vong.
Bảy năm dưới triều đại nhà Hồ, Phật giáo suy vi một cách nhanh
chóng. Quân Minh mượn cớ khôi phục nhà Trần kéo quân sang xâm lược
nước ta và đặt chế độ cai trị hà khắc. Với âm mưu Hán hóa văn hóa Đại Việt,
19


quân Minh đã tịch thu và đốt hết sách vở trong đó có cả kinh sách nhà Phật;

chùa chiền bị đốt phá, sư tăng bị giết hại.
Đến thời hậu Lê, ở Việt Nam xuất hiện thêm hai phái thiền là Thiền
Tào Động ở Đàng Ngoài và Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong.
Thời Minh Mạng và Thiệu Trị bắt đầu có sắc trùng tu những ngơi chùa
và Tổ đình quan trọng, nhưng trong dân gian thì ảnh hưởng của Phật giáo
khơng còn sâu đậm như trước. Thời vua Tự Đức, nước ta rơi vào vịng đơ hộ
của Pháp, Phật giáo Việt Nam vốn đã suy vi, nay lại càng suy vi hơn.
Dưới sự cai trị của nhà Nguyễn (cả trước và sau khi Pháp xâm lược),
Phật giáo tiếp tục suy tàn.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số nhà tu hành và một số nhân
sĩ, trí thức Phật giáo đã đứng ra vận động phong trào “Chấn hưng Phật giáo”.
Kể từ đó, Phật giáo có sự khởi sắc. Một bộ phận Phật giáo đi vào hoạt động
có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lượt ra đời như An Nam Phật
học hội, Hội Phật học Bắc kỳ, Hội tăng già Trung Việt, hôi Phật học Việt
Nam, tổng hội Phật giáo Việt Nam…
Thời kỳ Mỹ - Diệm, Phật giáo ở hai miền có sự khác biệt nhất định. Ở
miền Bắc, Phật giáo được quy tụ trong một tổ chức duy nhất là “Hội Phật
giáo thống nhất Việt Nam” sinh hoạt tín ngưỡng gắn với các động yêu nước,
gắn bó với dân tộc. Ở miền Nam, do tình hình chính trị phức tạp, Phật giáo
bị phân rã theo nhiều xu hướng chính trị khác nhau và hình thành nên 14 hệ
phái.
Sau đại thắng mùa xuân năm1975, đất nước hồ bình, Bắc Nam thu về
một mối đã tạo điều kiện cho các hệ phái Phật giáo thống nhất. Tháng
11/1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại Hà Nội.
Đại hội đã lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là tổ chức Phật giáo duy nhất
đại diện cho Phật giáo tại Việt Nam, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, thông qua Hiến chương, Chương trình hành động và bầu ra cơ quan
lãnh đạo. Đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trải qua sáu kỳ Đại hội và
20



không ngừng trưởng thành, phát triển. Hiện nay đệ tam Pháp chủ của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam là Trưởng lão Hịa thượng Thích Phổ Tuệ.
Đánh giá một cách khái quát quá trình du nhập, phát triển của Phật
giáo ở Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Thứ nhất, Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường dân giã và mang
tính tự phát thơng qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung
Quốc.
- Thứ hai, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường hịa bình,
ít gây ra xung đột với văn hố bản địa.
- Thứ ba, trong q trình du nhập, phát triển, Phật giáo ln gắn bó,
đồng hành với dân tộc và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo
vệ nền độc lập của Tổ quốc, góp phần hình thành bản sắc văn hố Việt Nam.
2. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống xã hội và con người
Việt Nam:
2.1 Những ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học và tâm
hồn của người Việt
. Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam được tiếp nhận dễ dàng, tự nhiên
vì tư tưởng có nhiều điểm tương đồng với phong tục, tập quán, truyền thống
của dân tộc. Phật giáo từ ngoại lai trở thành bản địa, từ xa lạ trở thành thân
thuộc với mọi người. Có thể nói, chính truyền thống sẵn có của dân tộc đã dễ
dàng hòa quyện với giáo lý Phật giáo, tạo nên một chủ nghĩa tích cực mang
màu sắc Việt Nam, một nhân tố bền vững trong nhân sinh quan của dân tộc.
Tư tưởng của Phật giáo rất đồ sộ, nó có ảnh hưởng vơ cùng lớn đến
đời sống tinh thần cũng như tư tưởng của người Việt.
Tư tưởng căn bản của Phật giáo là tư tưởng Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế
và Bát chánh Đạo. Ba tư tưởng này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật
giáo đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt và được thể hiện ở những đặc
điểm sau:
+ Tư tưởng Phật giáo hướng đến đạo đức, từ bi, khoan dung


21


Phật giáo chủ trương đem tình yêu thương đến với mọi người. Từ bi là
phạm trù thuộc tứ vô lượng tâm, bao gồm: từ, bi, hỷ, xả. Tâm từ là tình
thương bao la, khơng giới hạn; đem lại hạnh phúc cho mọi người, mọi loài,
cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh mà quên đi những lợi ích của bản thân.
Tâm bi là thương xót vơ lượng, vơ biên nhưng khơng bi lụy, vì thế trở thành
động lực cho việc cứu khổ, cứu nạn. Đây cũng là đức tính giúp cho con
người sống cao thượng hơn, gần gũi hơn. Tâm hỷ là sống vui vẻ, bất kể thất
bại, nghịch cảnh, vui với thành công của người khác là vô lượng vô biên.
Tâm xả là đem hết sức mình để cứu người, giúp người không mong bù đắp,
là tinh thần hy sinh vì tha nhân. Tâm từ và tâm bi là tiền đề, khởi đầu cho
tâm hỷ, tâm xả. Sự rung động, lòng trắc ẩn, cao thượng hướng về nỗi đau của
người khác sẽ định hướng cho con người trong lý trí, hành động, sẵn sàng
quên mình vì mọi người. Xây dựng tứ vô lượng tâm, Phật giáo muốn nhấn
mạnh vào cái tâm của con người, đó là đạo đức, lịng người, trí tuệ. Cái tâm
của con người nằm trong mối quan hệ biện chứng với xã hội. Do đó, khi nói
đến đạo đức của Phật giáo, người ta thường nói đến từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị
tha, cho nên tứ vơ lượng tâm vừa là cái thiện hồn chỉnh, vừa là lòng khoan
dung rộng lớn của Phật giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo đã hịa đồng với tập qn, tín ngưỡng truyền
thống của người Việt Nam. Đạo đức xã hội coi trọng chữ tâm, coi đây là gốc
để tạo nên sức mạnh, động lực cho sự phát triển xã hội. Tư tưởng Phật giáo
đã góp phần củng cố đạo đức xã hội, tơn vinh những giá trị văn hóa dân tộc,
khơi dậy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, góp
phần tạo nên nhân cách con người. Tư tưởng Phật giáo phù hợp với truyền
thống nhân đạo, “thương người như thể thương thân” của đạo lý người Việt.
Tinh thần này còn được biểu hiện cao độ ở trong đối xử với tù nhân ở các

cuộc chiến tranh nhân dân, khi đã quy hàng thì ln nhận được sự đối xử
khoan hồng của nhân dân ta; những kẻ lầm đường, lạc lối khi đã hối lỗi cũng
luôn nhận được sự tha thứ của dân tộc.
+ Xây dựng triết lý lấy vị tha làm lẽ sống cao cả, lý tưởng của mình
22


Phật giáo nói đạo lý vơ ngã là muốn con người hiểu rằng cái tôi thực ra
chỉ là giả tướng do 4 đại: đất, nước, lửa, gió tạm thời hợp nhau tạo thành,
theo quy luật có ngày nó sẽ bị tan rã, suy yếu, già rồi chết. Do vậy, con người
không nên mê muội theo đuổi danh lợi, không cần thiết phải tranh giành mà
cần phải độ lượng, khoan dung với mọi người. Đó cũng chính là cách con
người hồn thiện bản thân để tiến tới giải thoát. Với thuyết vô thường, vô
ngã, Phật giáo đem lại cho con người một triết lý sống vị tha, nhân bản. Khi
đã thấu suốt được chân lý này, con người sẽ vươn lên khỏi cuộc sống vị kỷ
mà sống theo tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha. Như vậy, Phật giáo là
một tơn giáo giàu tình thương, u chuộng hịa bình. Với lý tưởng nhân văn,
bác ái, Phật giáo dễ gắn bó với quần chúng, gần gũi với quan niệm nhân đạo
cộng sản chủ nghĩa.
Yêu nước là giá trị cao nhất của người Việt Nam. Một dân tộc phải trải
qua nhiều cuộc chiến tranh, nhưng trong đời sống luôn tha thiết hịa bình,
quan văn trọng hơn quan võ. Ngay từ khi được du nhập vào nước ta, Phật
giáo đã thẩm thấu vào truyền thống yêu nước trong suốt chiều dài lịch sử
truyền thống dân tộc, thâm nhập vào đạo đức dân tộc theo truyền thống vì
nghĩa, vì nước. Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã có nhiều vị cao tăng
là quốc sư, giúp vua về chính trị, quân sự, nội trị bang giao được lưu truyền
trong sử sách. Các thiền sư giúp vua nhưng không tham quyền, tham lợi nên
luôn được vua tin tưởng. Các thiền sư ở Việt Nam tu hành không phải theo
lối bi quan, yếm thế mà luôn đồng hành cùng dân tộc, nhất là trong những
thời điểm lịch sử khi đất nước có giặc ngoại xâm. Điều này có thể coi là sự

hóa thân của Phật giáo vào truyền thống đạo đức của dân tộc.
Không phải chỉ khi Phật giáo là quốc giáo mà ngay cả khi đã nhường
chỗ cho Nho giáo vào đầu TK XV thì ảnh hưởng của nó đến đời sống đạo
đức của nhân dân ta vẫn rất đậm nét. Chẳng hạn tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ
bạo” . Bằng cách: “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân để thay
cường bạo”
23


Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh,
chúng ta không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực
để họ về nước. “Thần vũ chẳng giết hại,Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh”
cũng rất gần gũi, tương đồng với đạo đức Phật giáo.
Nếp sống của con người Việt Nam hướng nội, rất nhạy cảm trước mọi
niềm vui, nỗi buồn của người khác, sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng khổ với
những người xung quanh. Cái nghĩa ấy, ngoài yếu tố truyền thống, cũng có
ảnh hưởng từ giáo lý nhân sinh Phật giáo. Bởi vậy, trong giải quyết các mối
quan hệ, người Việt đề cao việc lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm.
Trong gia đình, việc thờ cúng tổ tiên là một truyền thống, đạo lý của người
Việt Nam, được cộng hưởng bởi đạo đức Phật giáo.
+ Đạo đức Phật giáo hướng thiện, chống cái ác, cảm hóa con người
Trong giáo lý Phật giáo, dù ở bất kỳ tập kinh, luận hay luật nào, dù ít hay
nhiều cũng ngầm chứa những tư tưởng về cái thiện, mà tiêu chí đầu tiên là
bất sát. Giá trị cao đẹp của đạo đức Phật giáo là từ bi, cứu khổ, cứu nạn. Nó
vượt qua thời gian, khơng gian vì nó nhằm bảo vệ, phát huy, duy trì nhân
bản, làm điều lành, hướng về điều lành hoặc ít nhất là đừng làm cái ác, đừng
hướng về cái ác. Thuyết nghiệp báo, nhân quả, luân hồi với mục đích thiết
thực của Phật giáo mong muốn ai cũng làm điều thiện, tránh điều ác. Nó có
giá trị trong việc giáo dục, thực hành đạo đức, con người gieo nhân nào thì sẽ

được quả ấy. Chính vì vậy, đã góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá
nhân, có tác dụng điều chỉnh khơng chỉ ý thức đạo đức mà cả hành vi đạo
đức của con người. Phạm vi ảnh hưởng của nó khơng chỉ với Phật tử mà còn
cả xã hội. Trách nhiệm của cá nhân theo luật nhân quả là trách nhiệm cao
nhất đối với đạo đức của chính mình, cố gắng làm điều thiện, tu nhân tích
đức, tránh điều ác… để sẽ được nhân lành.
Mặt khác, thuyết nhân quả, nghiệp báo, luân hồi cịn cho thấy rằng con
người khơng chỉ phải chịu trách nhiệm về hành động của mình lúc cịn sống,
mà cịn cả sau khi chết, vì chết chưa phải là hết. Sự kết thúc một cuộc đời
này sẽ là sự kế tiếp của cuộc đời khác. Như vậy, nó giúp cho con người hạn
24


chế được dục vọng, thói ích kỷ, đề cao cái tôi dẫn đến tham lam, tàn bạo, bất
chấp lẽ phải, đạo lý, nhờ đó con người nói riêng, xã hội nói chung sẽ có cuộc
sống tốt đẹp hơn. Phật giáo nêu cao thiện tâm, bình đẳng cho mọi người như
là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội.
Để đạt tới mục đích tuyệt đối, chân lý cuối cùng để đi đến giác ngộ, giải
thoát, Phật giáo cho rằng điều đầu tiên phải giữ giới. Trong giới luật của Phật
giáo thì ngũ giới có thể coi như là những chuẩn mực cơ bản của đạo đức, bên
cạnh đó cịn có thập thiện, giới luật của tỳ kheo, tỳ kheo ni... Ngũ giới có vị
trí hết sức quan trọng, nó được coi như là nấc thang ban đầu cho những ai
tìm hiểu Phật giáo, bao gồm: khơng sát sinh, khơng trộm cắp, khơng tà dâm,
khơng nói dối, khơng uống rượu. Theo Phật giáo, đạo đức được thể hiện rõ
nhất trong việc giữ giới. Xét về bản chất, đây là những lời răn dạy cơ bản về
đạo đức con người dù người đó có phải là phật tử hay khơng. Việc giữ gìn
giới luật trước hết nhằm phát huy bản tính thiện, diệt trừ tham, sân, si, là
phương tiện giúp cho con người vượt qua u mê, bể khổ, luân hồi đem lại cho
bản thân con người sự trong sạch, giải thốt. Thực hiện ngũ giới thực sự có ý
nghĩa đối với mỗi con người, toàn xã hội. Đối với con người, ngũ giới giúp

hoàn thiện trong tư tưởng, hành vi, nhân cách theo nhân sinh quan Phật giáo.
Những giá trị mà ngũ giới đặt ra, một mặt ngăn ngừa mầm mống nguy hại
đến tư cách đạo đức con người, mặt khác có tác dụng khích lệ những hành
động tốt đẹp, tránh xa cái ác, hướng đến chân, thiện, mỹ. Đối với xã hội, ngũ
giới có ý nghĩa thiết thực trong việc xác lập trật tự an ninh, bảo đảm nếp
sống tiến bộ, lành mạnh, văn minh.
Những quan niệm ở hiền gặp lành, gieo gió phải gặt bão, nhân nào quả
đấy, cha mẹ hiền lành để đức cho con, bản chất từ bi hỷ xả... đã thấm sâu
trong đời sống tinh thần dân tộc, hướng mọi tầng lớp nhân dân vào con
đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức vì dân, vì nước. Triết lý nhân quả của
Phật giáo cịn góp phần quan trọng trong phịng ngừa ý định, hành vi vi
phạm pháp luật của con người khi còn chưa bộc lộ.
+ Xây dựng đạo lý hiếu hạnh, ân nghĩa
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×