Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập lớn tư tưởng hồ chí minh đạt 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.52 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP LỚN
Đề tài: CHỨNG MINH TÍNH TẤT YẾU VÀ CỐT LÕI TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH LÀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI

GV hướng dẫn: TS.Lê Thị Hoa
SV thực hiện: Trần Thị Ước
Lớp: TTHCM_13
Khóa: 62
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2021

1


LỜI MỞ ĐẦU

Trong phần mở đầu, em sẽ giới thiệu về cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và vấn đề chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đầu tiên là cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc. Những
năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị đọa đày dưới ách thống trị của
thực dân Pháp và phong kiến tay sai, bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Dân tộc Việt
Nam lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, “tình hình đen tối tưởng
chừng như khơng có đường ra”. Sứ mệnh lịch sử đặt lên vai mỗi người dân Việt
Nam yêu nước đương thời là phải tìm ra con đường cứu nước đáp ứng đòi hỏi của
lịch sử dân tộc và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.


Trước đòi hỏi bức thiết của lịch sử dân tộc, nhiều phong trào yêu nước và cách
mạng mang màu sắc, khuynh hướng tư sản và phong kiến do các sĩ phu yêu nước
tiến hành, nhưng đều đi đến bế tắc, thất bại, do thiếu một cương lĩnh rõ ràng và
nhất quán; thiếu nguyên tắc tổ chức chặt chẽ, khoa học của một chính đảng cách
mạng; khơng huy động được lực lượng hùng hậu của nhân dân, không có cơ sở xã
hội vững chắc. Vì thế, dù rất khâm phục họ, nhưng Nguyễn Tất Thành khơng hồn
tồn tán thành cách làm của một ai, không đi theo bất kỳ con đường nào trong số
đó.
Với nhận thức sâu sắc về thực tại xã hội và rất đau xót trước nỗi thống khổ của
đồng bào, mang trong mình tinh thần yêu nước nồng nàn, Nguyễn Tất Thành có sự
đột phá táo bạo và đúng đắn khi xuất dương tìm đường cứu nước. Về sau, Người
cho biết: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ơng cụ thân sinh ra tơi, lúc này thường
tự hỏi nhau ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này
nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ.
Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tơi” (Trích “Hồ Chí
Minh – Biên niên tiểu sử”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t1, tr 41).
2


Tiếp theo là làm thế nào mà Hồ Chủ tịch lại tiếp cận được với vấn đề độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội? Ngày 5-6-1911, từ bến cảng Nhà Rồng,
trên một tàu buôn của Pháp, Người bắt đầu hành trình ra nước ngồi tìm con đường
cứu nước, cứu dân. Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã đi đến nước
Pháp, nước Mỹ, nước Anh và rất nhiều thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở châu
Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì
nhận thấy “đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất
theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái”
(Trích “Những mẩu chuyện về đời sống hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1975, tr 46). Thấy rõ tâm địa thực dân, trước tình cảnh thảm thương của
các dân tộc thuộc địa, đã thôi thúc Người tiếp tục suy tìm những hình thức và con

đường mới để đạt được mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, thủ tiêu tình trạng
bất bình đẳng, ách áp bức dân tộc và giai cấp. Người tập trung nghiên cứu một số
tác phẩm của C. Mác, V.I. Lê-nin. Tháng 7-1920, được tiếp cận bản “Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin
đăng trên báo “Nhân đạo” (L’Humanité), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy bản Sơ thảo
luận cương đã giải đáp được về con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
đồng bào; điều này khiến cho Người rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng.
Kết quả tất yếu của sự chuyển biến về tư duy, nhận thức đó đã đưa Người đến một
quyết định đúng đắn là bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp (tháng 12-1920). Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, “từ một người yêu nước tiến
bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa” (Trích “Hồ Chí Minh: Tồn tập”, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 740). Từ đó, từng bước một,
trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa công tác thực tế,
Nguyễn Ái Quốc “hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nơ lệ” (Trích “Hồ Chí Minh: Toàn tập”, tập 10, tr. 128)
Như vậy, sau gần 10 năm trên chặng đường đầu tiên của hành trình khát vọng
giải phóng dân tộc, đi khắp các châu lục, thấu hiểu “tâm địa thực dân”; khảo sát
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới; nghiên cứu con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy ánh
sáng chân lý thời đại, tìm được con đường đi cho cách mạng Việt Nam - con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người hồn tồn và triệt để
nhất. Tìm ra con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam - độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội - đó là cống hiến vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
3


đối với phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra bước ngoặt trong tiến trình giải
phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.


NỘI DUNG

* Tính tất yếu và cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Tính “tất yếu” thể hiện ở việc dân tộc ta là dân tộc thuộc
địa, có áp bức thì ắt sẽ có đấu tranh; cịn tính “cốt lõi” ở chỗ con đường giải phóng
dân tộc: độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là kim chỉ
nam dẫn đường trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và phát triển của đất
nước ta.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng
nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược, phong trao
yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp
mọi miền tổ quốc thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc phu sĩ, kể cả
một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế,
các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu
tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và kết quả là thất bại. Trong
bối cảnh đó, chưa bao giờ như bây giờ, độc lập dân tộc căng trở nên là yêu cầu cơ
bản, khách quan của xã hội Việt Nam – xã hội thuộc địa, nưả phong kiến. Cơng
cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như khơng có
đường ra’. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng ganh vác sứ mệnh
trong đại đó.
Và sự ra đời của Chủ nghĩa Mác đã vạch ra ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi
màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhất
định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn – chế độ cộng sản chủ nghĩa khơng
có người bóc lột người và người đào huyệt chơn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp
4


công nhân – sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là tiếng sét
tỏng lịng chủ nghĩa tư bản ở thời kì thịnh trị, sau khi nó chiếng thắng các chế độ

chuyên chế phong kiến và đã banh trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát
triển khi ấy đang trở thành “trung tâm vũ trụ”, chi phối và làm mưa làm gió mọi
mặt đời sống xã hội lồi người. Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng
như đang cực thịnh ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá ấy mở đầu
cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Rõ ràng, tới những năm 20 của
thế kỷ XX với những biến động to lớn và sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng
Mười Nga “rung chuyển thế giới”, đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp
trung tâm của thời đại thay đổi, vai trị lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy
con đường giải quyết mâu thuẫn xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách
mạng cũng thay đổi.
Toàn bộ tinh hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu
vào mảnh đất Việt Nam hình chữ S – nơi mà chinh “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư
bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm việc đã giao hạt của
cơng cuộc giải phóng nữa thơi” (Trích “Hồ Chí Minh Tồn tập”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr.28). Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc là người gieo
hạt, nảy mầm cho cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa Mác – Lê- nin, nói như Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng – một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước – đã đúc nên tư tưởng
Hồ Chí Minh. Với kỳ cơng của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác kết hợp với
phong trào yêu nước và phong trào cơng nhân Việt Nam chuyển hóa, biến hóa
thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam – Chính đảng duy nhất đủ tâm đủ tầm lãnh đạo cách mạng Việt Nam ra đời.
Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc
gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa
ra đời, Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ
thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng
bác bỏ bất cứ một chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác ngai con
đường chủ nghĩa xã hội. Một cách tự nhiên là ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng,
chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thúc đẩy lịch sử dân tộc

Việt Nam chuyển minh, là con đường dân tôc Việt Nam đã và đang đi dọc theo
chiều dài lịch sử thế kỷ XX và tiếp tục cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ
5


nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng
tộc và là nguồn gốc có một xã hội tốt lanh gắn liền với tự do, binh đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa binh,
hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn ,ục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của Đảng và dân ta là hoàn toàn phù hợp, đúng đắn. Xét về logic
là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của
cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu là hoàn toàn
xuất phát từ điều kiện cụ thể của một dân tộc thuộc địa nửa phong kiến và nguyện
vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị
cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hơm nay và mai sau.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và
là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
qua các kì Đại hội.
* Quan niệm của Người về độc lập dân tộc.
Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn với đầy đủ
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chinh trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc
phịng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiên liêng, bất khả xâm phạm
Hai là giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do
và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng.
Ba là độc lập dân tộc trong hịa bình chân chính.
Bốn là kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.

*Quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội.
Một là CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sang tạo của nhân
dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hai là CNXH có nên kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người
với người là bà bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
6


bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để
phát triển hết mọi khă năng sẵn có của minh.
Bố là CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, khơng làm khơng có hưởng, các dân tộc binh đẳng, miền núi tiến kịp
miền xuôi.
Năm là, CNXH là một cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng
lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan niệm của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện
chứng với nhau, gắn liền nhau, phản ánh quan điểm cách mạng khơng ngừng, một
q trình vận động liên tục của lịch sử cách mạng Việt Nam, gồm hai giai cấp
đoạn, mỗi giai đoạn ứng với mỗi nhiệm vụ nhất định của tiến trình phát triển. Điều
này đã được Người khẳng định trong “Cương lĩnh chính trị” đầu tiên của Đảng:
Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản” nhằm “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” “làm cho
nước Nam hoàn toàn độc lập”, “dựng ra chính phủ cơng nơng binh” để đi lên
CNXH.
*Tại sao độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội? Mối quan hệ biện
chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng của Người.

Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong du sản tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mcuj tiêu của con đường cách mạng mà
Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát
vọng của quần chúng nhân dân gianh lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải
phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực
dân, đế quốc bà bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tư do,
nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự
nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới, xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội, điều này khác với các bậc tiền
bối yêu nước trước đó – họ mới chỉ đề cập đến việc gianh độc lập dân tộc mà chưa
gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội, với chủ nghĩa xã hội.

7


Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản, là một
trong những “cải cách” của cách mạng vơ sản. Gắn cách mạng giải phóng dân tộc
của Việt Nam với cách mạng thế giới, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đây là một phát hiện,
một sang tạo lớn về con đường phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa nửa
phong kiến.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phù hợp với nguyện vọng của dân tộc Việt
Nam và xu thế phát của thời đại quá độ lên CNXH được mở đầu từ cách mạng
Tháng Mười Nga (1917).
Tư tưởng đó được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn cho
đến ngày nay.
Giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề đi lên CNXH.

Về vấn đề giải phóng dân tộc và giai cấp, Người đã vận dụng sang tạo quan
niệm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và điều kiện thuộc địa. Hò Chí Minh nhấn mạnh
phải giải phóng dân tộc, gianh độc lập cho dân tộc trước, coi việc giành độc lập
cho dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cịn giải phóng giai cấp từng bước thực hiện.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược là chống thực
dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ
chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dan tộc đặt lên trên hết, nhiệm vụ
dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Vấn
đề này nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc
đẩy cách mạng tiến lên khơng ngừng, cịn giải quyết khơng đúng sẽ gây ra tác hại
to lớn cho phong trào cách mạng nước nhà. Với kinh nghiệm thu được qua thực
tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã tự mình vượt lên và có nhận thức mới rất
đúng đắn: “Trong lúc này...nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng thì chẳng
những tồn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được” tại Hội nghị TW 8 khóa I vào
tháng 5/1941 – đây là một hội nghị lịch sử quyết định chuyển hướng chiến lược,
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, là nhiệm vụ trước tiên, tạm gác
nhiệm vụ cách mạng ruộng đất lại.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân
chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ
8


nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện một
cách triệt để. Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn tồn khơng lệ thuộc vào
bất cứ lực lượng nào cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam một
địi hỏi có ý nghĩa sống cịn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
một, Bắc – Trung – Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, một dải đất
nước rực rỡ ngấm hoa, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang
tính ngun tắc của Hồ Chí Minh. Khơng duy trì và phát triển được khối thống
nhất thì khơng thể có độc lập dân tộc, càng khơng thể nói đến cơ sở tiền đề đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng CNXH là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo logic của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ
chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được
mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát
triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo
cơ sở tền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất
để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới – thành quả của độc lập dân tộc.
Theo quan niệm của Người, giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt
Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà
thôi. Bởi theo Người: “Chúng ta tranh được độc lập, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Đó là một chế độ xã hội tốt đẹp mà trong
đó “Xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”.
Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần
chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc
dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói
nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do
những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã
giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập
và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để:
độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị

9


nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để
hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nơ lệ; chỉ
có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân
chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi
áp bức, bóc lột; cơng bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng
làm khơng hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền
sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có
kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh
em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hịa bình hữu nghị, làm bạn
với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát
triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Với các
thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động
liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi
quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt
các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ
nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hồ bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến
tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân
tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín
muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất
nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phịng thủ.
Khơng có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng

chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể
hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người
chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã
hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề
thuộc bản chất của nhà nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các
lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong
10


quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và
quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ
và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân
tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc,
sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành
độc lập đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh so
sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó khăn
hơn. Người nhấn mạnh: “Đánh đổ giai cấp dịch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ
nghĩa xã hội cịn gian khổ, khó khăn hơn nhiều”. Từ những khó khăn gian khổ ấy,
Hồ Chí Minh ln đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
*Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong sự
nghiệp đổi mới.
Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước

làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra
đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do
Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân
tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
vẫn đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(4). Trong bất kỳ tình huống nào
cũng phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, địi hỏi phải có nhận thức sâu
sắc các yếu tố tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
11


Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hồ bình, hợp tác phát triển là xu thế
chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt.
Nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định
nhiều khu vực. Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật,
nhân danh chống khủng bố, để thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” can thiệp
vào công việc nội bộ các nước, buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang
phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá
giữa các dân tộc tăng lên. Trong khi giao lưu văn hố phát triển mạnh mẽ, thì các
nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm lăng văn hố” từ phía các nước đế
quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia

đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Khơng
thể có và khơng thể chấp nhận quan niệm nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia.
Việc rêu rao nhân quyền của các nước tư bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một
hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác.
Khơng thể có độc lập tự do về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ
vững độc lập tự chủ nếu lối sống, đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị
coi rẻ hoặc bị biến dạng. Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần
chú ý một số nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
- Xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộc trước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, khơng lệ thuộc vào bên ngồi,
nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực
phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng
Hồ Chí Minh để thực hiện thành cơng hai nhiệm vụ chiến lược.
- Trên cơ sở nhận thức tồn cầu hố, khu vực hố và kinh tế là một tất yếu
khách quan, từ đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng
lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và làm giàu bản sắc
dân tộc.
- Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện
trong suốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới.
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và
nhân dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
12


chính trị, văn hố, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất
kỳ tình huống nào, cũng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề
phòng và chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm
chung về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra,
đòi lại phải nhận diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa
trong những chi tiết, đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước
đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc
và xu thế thời đại.
- Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ
nghĩa xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.
- Xác định rõ bản chất đặc trưng và mơ hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
- Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con
người với nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện
động lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho chủ
nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều thời cơ, vận hội.
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, lại có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của gần
30 năm đổi mới, cho phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.

LIÊN HỆ
13



Lời dạy của Bác có ý nghĩa to lớn, chỉ rõ cho nhân dân ta nói chung, sinh viên
Việt Nam nói riêng nhận thức đúng đắn, đầy đủ bản chất của CNXH - con đường
mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã lựa chọn; khơi dậy tinh thần của toàn dân tộc,
trong đó có sinh viên, phải nêu cao ý thức và có tinh thần XHCN, phấn đấu hết
mình cho sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc; đồng thời, kiên quyết đấu tranh bài trừ
chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội. Chủ nghĩa cá nhân là một trong những
cản trở lớn trên con đường đi lên CNXH ở nước ta. Thực hiện lời dạy của Bác, lớp
lớp sinh viên Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ, ra sức học tập, rèn luyện; chăm chỉ
lao động, vượt mọi khó khăn, kiên quyết đấu tranh khơng khoan nhượng với chủ
nghĩa cá nhân để trở thành chủ nhân tương lai của nước nhà, phấn đấu hết mình
cho sự nghiệp cách mạng.
Bản thân em thấy rõ ràng khơng có gì có thể thay thế được vai trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam đặc biệt là con đường xây dựng đất nước gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Từ khi đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì đã đặt
được vơ số thành tựu lớn. Về chính trị:
- Hồn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản và Lãnh tụ Hồ Chí
Minh lãnh đạo đã xóa bỏ chế độ thuộc địa, chấm dứt chế độ phong kiến, mở ra thời
đại mới của dân tộc Việt Nam - Thời đại độc lập dân tộc.
- Đảng đã nhận thức sâu sắc hơn nội hàm của từng đặc trưng và mối quan hệ
thống nhất biện chứng giữa các đặc trưng, nổi bật là nhận thức về dân chủ xã hội
chủ nghĩa, vai trị và quyền làm chủ của nhân dân.
- Cứu lồi người ra khỏi thảm hoạ phát xít, là chỗ dựa cho phong trào hồ bình
và cách mạng thế giới.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Thành công đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của
các tổ chức chính trị xã hội.

Về Kinh tế:

14


- Nền kinh tế thốt khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
- Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế từng bước được đẩy mạnh; phát huy
lợi thế ngành và lãnh thổ.
- Chuyển nền kinh tế từ thế bị bao vây, cấm vận, khép kín sang nền kinh tế mở
và hội nhập quốc tế.
- Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế.
- Chính sách xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện, không
ngừng nâng cao.
Nhưng bên cạnh những thành tựu to lớn, bản thân em nhận thấy rằng cũng còn rất
nhiều những hạn chế, yếu kém mà nếu muốn hoàn thành mục tiêu đi lên CNXH thì
cần phải nghiêm túc chấn chỉnh và thay đổi.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10 năm gần đây.
- Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ mơi
trường, cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề
bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được
nhận thức và giải quyết có hiệu quả.
- Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa
đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính
sách.
- Việc xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có
nhiều tiến bộ song cũng cịn nhiều hạn chế. Ngun tắc kiểm sốt quyền lực nhà
nước còn nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật

chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp
luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước cịn nhiều hạn chế, cải cách hành
chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng.
- Chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liệu, tiêu cực xã hội còn diễn ra nghiêm trọng.

15


Xã hội ta, đất nước ta hiện nay đã không cịn những khói lửa, bom đạn của
chiến tranh, mà thay vào đó là bầu trời xanh của hịa bình, của độc lập, tự do. Thời
thời kì yên bình này, thì trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam, và nhất là của
mỗi con người trẻ tuổi đã khơng cịn chỉ là bảo vệ đất nước, mà là bảo vệ và xây
dựng nước nhà giàu, đẹp và mạnh. Để làm được điều đó, mỗi một con người, mỗi
một thanh niên, mỗi một tuổi trẻ phải luôn rèn luyện về tri thức, tôi luyện về nhân
phẩm, phải luôn quan tâm, chú ý đến những sự kiện, sự việc trong nước nhà và
quan trọng hơn hết, phải biết yêu thương người thân, bạn bè, quê hướng, đất nước,
… Thanh niên là lực lượng đơng đảo, là lớp trẻ, có sức khỏe, ham hiểu biết cái
mới, giàu sức sáng tạo, hăng hái, có chí tiến thủ, xung kích, sáng tạo trong việc
quán triệt và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, là nguồn nhân lực chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.
“Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã hội chủ nghĩa, muốn có
tinh thần xã hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đó là lời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với sinh viên đại học, ngày 26-6-1959. Đây là
thời điểm miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), bước
đầu đạt những thành tựu quan trọng; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược. Trong tình hình hiện nay, Việt Nam vẫn đã và đang kiên định
với con đường đi lên CNXH, để thực hiện mục tiêu đó, khơng ai khác trách nhiệm

trên vai thế hệ trẻ là rất lớn. Bản thân em hiểu rõ, muốn đất nước vững vàng đi lên
CNXH thì bản thân mình phải có ý thức về CNXH và đầy đủ hành trang bước vào
kỷ nguyên mới. Về tư tưởng và nhận thức, khi bước chân vào giảng đường đại học,
em luôn xác định bản thân phải có trách nhiệm với những gì mà mình làm, có tư
tưởng đúng đắn về cách mạng hiện nay cũng như Nhà nước CNXH, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ln ln phải giữ cho mình một lịng nồng
nàn u nước cũng như cảnh giác, phản bác lại những tư tưởng đả kích, bơi nhọ,
làm sai lệch tư tưởng của Đảng về con đường tiến lên CNXH. Mạnh dạn nêu lên
những hiện tượng, những cá nhân đang có những biểu hiện sai lệch trong tư tưởng,
phát huy tinh thần phê bình và tự phê bình để giúp mình, giúp những đồng nghiệp,
bạn bè, ... của mình trở nên tốt hơn, thẳng thắn góp ý, thẳng thắn chỉ ra sai lầm trên
tinh thần khách quan với thái độ giúp đỡ chứ không lợi dụng phê bình để bơi bác,
làm xấu mặt, thậm chí là đay nghiến. Về hành động, em ln trang bị cho mình
những kiến thức cơ bản nhất, cốt lõi nhất về Đảng, về con đường tiến lên CNXH;
trang bị cho mình những kiến thức thực tiễn về nền kinh tế - xã hội hiện nay, đáp
ứng nhu cầu của xã hội, vận dụng sáng tạo những gì đã có và phát huy tinh thần
16


của tuổi trẻ nhiệt huyết, năng động. Góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp, đất
nước phát triển văn minh, sớm đạt được mục đích cuối cùng là nước Việt Nam ta
sẽ đang trong đà phát triển của một quốc gia phát triển, có thu nhập trung bình cao
và sớm đi lên CNXH như Bác Hồ từng mong ước.

17



×