Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.93 KB, 99 trang )

Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế kỉ XX, sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế
thế giới nói chung cũng như từng khu vực nói riêng biến đổi mạnh mẽ. Nhiều mô
hình kinh tế khác nhau đã được thử nghiệm và đưa lại những thành công đáng ghi
nhận. Thực tế ở các nước trên thế giới cho thấy đống góp to lớn trong những thành
công đó chính là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V).
Ở Việt Nam trước đây, loại hình doanh nghiệp này chưa được quan
tâm đầu tư đúng mức, nhưng trước nhu cầu phát triển của đất nước cũng như
quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì vai trò của
DNN&V đã phát huy tác dụng. Việc phát triển các DNN&V khơi dậy ý chí
kinh doanh, giải phóng các lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất
và trí tuệ, tinh thần của nhân dân, huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, công nghệ, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp sản phẩm
dịch vụ cho thị trường và tạo phần lớn việc làm cho xã hội, đặc biệt là ở
vùng nông thôn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta
đã chủ trương tạo điều kiện cho DNN&V phát triển. Trong bài phát biểu tại
hội nghị với các doanh nghiệp ngày 9/2/2006 ở Hà nội, Thủ tướng Phan Văn
Khải đã nhấn mạnh: “Cần coi trọng và có chính sách ưu đãi hơn nữa đề
phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các làng nghề ở vùng nông
thôn, đây là vấn đề rất quan trọng vì nước ta đất ít, lao động nông thôn
thừa, đưa doanh nghiệp nhỏ và vừa vào nông thôn sẽ góp phần giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển đô thị nhỏ, giảm bớt sự chênh
lệch về đời sống giữa nông thôn và thành thị. Đây cũng là giải pháp chủ
yếu tạo thu nhập và việc làm cho nông dân không còn đất trong quá
1
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
trình đô thị hoá, hạn chế tình trạng dân nông thôn đổ về thành thị, làm


phát sinh nhiều vấn đề phức tạp”.
Đến cuối năm 2007, nước ta đã có trên 250.000 doanh nghiệp tư nhân,
trong đó hầu hết là DNN&V. Theo tài liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến
tháng 10 năm 2007, Việt Nam có khoảng 280.000 doanh nghiệp được cấp
giấy phép hoạt động, trong đó có 8.500 dự án FDI, trên 2.000 doanh nghiệp
nhà nước, còn lại là khu vực kinh tế tư nhân. Chính phủ dự kiến đến năm
2010 sẽ phát triển thêm 220.000 doanh nghiệp chủ yếu ở khu vực kinh tế tư
nhân. Tính đến đầu quý 2/2007, các DNN&V trong cả nước đã thu hút, tạo
công ăn việc làm ổn định cho gần 3 triệu lao động, đóng góp gần 40% GDP
hàng năm của cả nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và cam kết của chính phủ
trong việc phát triển DNN&V, mặt khác đây cũng là một thị trường đầu tư
tiềm năng, hấp dẫn đối với các NHTM nên trong chiến lược phát triển của
NHNN&PTNTViệt Nam nói chung và chiến lược của Sở giao dịch nói
riêng, DNN&N được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên đến nay, việc thực hiện
các điều kiện tín dụng của ngân hàng đối với một số lớn DNN&V là rất khó
khăn, vượt quá năng lực của doanh nghiệp. Vì thế việc tìm ra giải pháp tín
dụng đối với DNN&V đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất
phát từ quan điểm đó và thực trang hoạt động của các doanh nghiệp hiện
nay, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu tại Sở giao dịch
NHNN&PTNTViệt Nam, em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng tín dụng
đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam” làm đề tài cho luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
2
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xem xét một cách tổng quát và
có hệ thống thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNN&V tại
Việt Nam và việc đầu tư tín dụng của Sở giao dịch NHNN&PTNT Việt Nam

cho các doanh nghiệp này. Đồng thời, luận văn cũng đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm phát triển tín dụng cho DNN&V tại Sở giao dịch.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các DNN&V và hoạt động tín
dụng cho các DNN&V của Sở giao dịch.
Phạm vi nghiên cứu là số liêu thu thập từ Sở giao dịch trong 3 năm:
2005, 2006 và 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và giải thích thực tiễn như phương
pháp biện chứng duy vật, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân
tích hoạt đông kinh tế.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài lời mở đầu và phần kết luận; phần nội dung gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với sự
phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNN&V tại Sở
giao dịch NHNN&PTNTViệt Nam.
Chương III: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNN&V tại Sở giao
dịch NHNN&PTNTViệt Nam.
CHƯƠNG 1
3
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh

trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu
hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một
trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ riêng với NHTM mà
còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
1.1.2 Vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng ngân hàng.
NHTM có vai trò thu hút tiền nhàn rỗi, và thông qua tín dụng, đáp
ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Hàng triệu hộ cá nhân, hộ gia đình và các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân
hàng đóng vai trò người thủ quỹ của toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là
nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho
vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối
với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng
thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự
trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp, người
tiêu dung phải thanh toán các khoản mua hàng hoá dịch vụ, họ thường sử
dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần
4
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng
để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ
(thông qua chứng khoán của Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để
đầu tư phát triển.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền
tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ

nhằm ổn định kinh tế.
Về mặt cấu trúc, thị trường tài chính có hai kênh dẫn vốn là kênh trực
tiếp và kênh gián tiếp. Ở kênh trực tiếp, những người đi vay trực tiếp vay
vốn từ người cho vay bằng cách bán ra chứng khoán (hay còn gọi là các
công cụ tài chính. Khi kinh tế càng phát triển, việc tham gia vào tài chính
trực tiếp càng đòi hỏi nhiều tiêu chí hơn. Một người thợ mộc không thể bán
trái khoán trong một thị trường mở cho các công ty hoặc các cá nhân khác,
bởi không ai biết anh ta là ai.Vì thế những doanh nghiệp nhỏ, hay có nhu
cầu vốn ít sẽ tìm đến tài chính gián tiếp, tức là thông qua một trung gian làm
kênh dẫn vốn. Và ngược lại, những người có món tiết kiệm nhỏ cũng lo ngại
khi mua các chứng khoán bởi vì phải tốn kém thời gian và chi phí để tập hợp
thông tin cho việc chọn chứng khoán tốt nhất, mà chưa kể đến rủi ro rất lớn
của thị trường này, vì thế ngân hàng cũng là giải pháp tốt. Với vai trò là
trung gian tài chính, ngân hàng nhận tiền gửi nhàn rỗi của dân cư, các công
ty và các tổ chức kinh tế xã hội để đưa đến những nơi cần vốn – các doanh
nghiệp, dân cư và các tổ chức khác.
5
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
Biểu đồ 1: Giản đồ thị trường tài chính.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng
1.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn của ngân hàng gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Vốn
chủ sở hữu đóng vai trò lá chắn phá sản và thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng nguồn vốn, trong khi nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn và là cơ
sở cho ngân hàng thực hiện các hoạt động tạo ra doanh thu.
Nguồn vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và
ngoại tệ), bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận chính: Vốn huy động từ
tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá; ngoài ra
nguồn vốn của NHTM còn từ vốn vay của các tổ chức tín dụng khác và ngân

hàng trung ương, và nguồn vốn khác. Trong đó tiền gửi của khách hàng là
nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu
hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và
6
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
thanh toán hộ cho khách hàng, bằng các đó ngân hàng huy động tình của các
doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng,
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi
trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày
càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động
khác nhau.
Nhờ hoạt động huy động vốn ngân hàng tạo ra được luồng tiền để cho
vay, thực hiện các nghiệp vụ sử dụng vốn, tạo ra thu nhập cho ngân hàng. Vì
vậy huy động vốn là một trong hai hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng.
1.1.3.2 Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động chính của NHTM là tìm kiếm các khoản vốn (huy động
vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo
nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó tín dụng ngân hàng là
hoạt động quan trọng nhất.
Các hoạt động tín dụng rất phong phú, bao gồm các hoạt động: tín
dụng cho vay, bảo lãnh, tín dụng thuê mua, …
Trong đó, cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của
NHTM. Đặc biệt đối với các NHTM Việt Nam, doanh thu từ cho vay đóng
góp từ 40-50% vào tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này
cũng đem lại nhiều rủi ro cho NHTM, vì vậy các ngân hàng luôn tìm mọi
cách nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo mục tiêu sinh lợi và cân bằng
rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa
dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng

khác nhau). Việc áp dụng từng loại cho vay thuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế
của đối tượng sử dụng vốn tín dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù
7
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín
dụng.
1.1.3.3 Nghiệp vụ trung gian khác của NHTM
NHTM hiện đại không chỉ tập trung vào cho vay mà còn cung cấp
nhiều loại dịch vụ đa dạng, có thể điểm ra một số loại hình dịch vụ sau:
- Thanh toán qua ngân hàng: gồm thanh toán quốc tế và thanh toán
qua biên giới.
- Mua bán ngoại tệ: khi giao thương ngày càng phát triển, các doanh
nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ để giao dịch
- Dịch vụ thẻ
- Dịch vụ tài khoản thanh toán
- Trả lương qua tài khoản
- SMS banking, Phone banking, Internet banking…
1.2 Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Khái niệm DNN&V đã được đề cập đến trong nhiều nghiên cứu nhưng
việc xác định các tiêu thức phân loại vẫn chưa được thống nhất. Để phân
biệt DNN&V với doanh nghiệp lớn, người ta thường căn cứ vào các tiêu thức
như: Tổng vốn đầu tư, giá trị tài sản cố định, số lượng lao động thường
xuyên, giá trị bằng tiền của hàng hoá hay dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân
cho một lao động. Tuỳ vào tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia mà các tiêu thức
để phân biệt được lựa chọn, tuy nhiên phổ biến là:
- Số lao động thường xuyên được sử dụng
- Tổng số vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam cũng dựa chủ yếu trên hai tiêu

thức là vốn và lao động. Trước đây, theo văn bản số 681/CP-KTN ngày
8
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
20/6/1998 của Chính phủ, DNN&V là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh
dưới 5 tỷ đồng và số lao động thường xuyên không quá 200 người. Cùng với
sự phát triển của đất nước và ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, số lượng các
doanh nghiệp ngày một tăng, có không ít doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5
tỷ đồng nhưng chưa đủ mạnh để được coi là doanh nghiệp lớn. Nghị định số
90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/201 của Chính phủ về trợ giúp phát triển
DNN&V quy định: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương,
trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh
hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai
chỉ tiêu nói trên”.
Như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân đăng kí hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp; Các hợp tác xã đăng kí hoạt động theo Luật hợp tác xã; Các
hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị điịnhsố 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/200
của Chính Phủ về đăng kí kinh doanh thoả mãn ít nhất một trong hai tiêu
thức: vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng, lao động trung bình năm không quá
300 người thì đều được coi là DNN&V.
1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những
đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp thì nó còn có những đặc điêm riêng
nổi bật, đó là: quy mô nhỏ, vốn đầu tư không lớn, công nghệ ít hiện đại, lao
động ít, trình độ quản lý thấp, năng lực cạnh tranh yếu… Những đặc điểm đó
là hạn chế song cũng là một lợi thế của DNN&V.

9
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
1.2.2.1 Quy mô sản xuất nhỏ nên có tính năng động, linh hoạt, song cơ sở
vật chất, kĩ thuật, thiết bị công nghệ thường yếu kém lạc hậu.
* Qui mô nhỏ và vừa có tính năng động, linh hoạt và tự do sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh.
So với doanh nghiệp lớn, DNN&V năng động trước những thay đổi
liên tục của thị trường. Với quy mô và cơ sở vất chất hạ tầng đồ sộ, các
doanh nghiệp lớn thường khó thay đổi kịp thời theo sự chuyển biến nhu cầu
của thị trường. Ngược lại, DNN&V với cơ chế năng động có khả năng
chuyển hướng kinh doanh, thay đổi công nghệ và chuyển đổi mặt hàng nhanh
hơn.
Một lợi thế đáng kể nữa là DNN&V khi chuyển địa điểm sản xuất không
gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Vì vậy DNN&V thường được xây
dựng gần các vùng nguyên liệu, tiếp cận được thị trường, có thể đáp ứng được cả
những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương,… giúp DNN&V tiết kiệm
được tối đa những chi phí trong quá trình vận chuyển, bảo quản.
Quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm đa dạng, phong phú nên số lượng một
loại sản phẩm sản xuất ra thường không lớn, mặt khác, phần lớn các sản
phầm của DNN&V là những mặt hàng cần thiết, phục vụ đời sống, sinh hoạt
của xã hội nên có khi khủng hoảng kinh tế thì DNN&V bị tác động ít hơn so
với doanh nghiệp lớn và thường không gây thua thiệt quá lớn cho doanh
nghiệp.
*Tuy nhiên, do quy mô sản xuất nhỏ nên DNN&V khó có khả năng tiếp
cận với công nghệ hiện đại. Vì vậy cơ sở vật chất, kỹ thuật, thiết bị công nghệ
thường yếu kém, lạc hậu.
Do khả năng tài chính và trình độ hạn chế, thông thường các DNN&V
chỉ sử dụng các công nghệ trung bình, đơn giản nên năng suất lao động thấp,
10

Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Rất ít DNN&V được trang
bị công nghệ hiện đại, trừ một số doanh nghiệp liện doanh với nước ngoài.
So với doanh nghiệp lớn, DNN&V rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ,
máy móc và thiết bị quốc tế. Do thiếu thông tin về thị trường này, các
DNN&V cũng khó tiếp cận những dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong việc xác định
công nghệ thích hợp và hiệu quả giúp học cải tiến và nâng cao sức cạnh
tranh.
Hiện nay, các DNN&V đã có sự đổi mới công nghệ như dùng điện vào
sản xuất và gắn liền với đó là thực hiện nửa cơ khí, cơ khí hoá từng phần
hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các
doanh nghiệp hiện vẫn còn lạc hậu và ở trình độ thấp, hiệu quả chưa cao,
đang gặp nhiều khó khăn trong nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
1.2.2.2 DNN&V có vốn đầu tư không lớn, thu hồi vốn nhanh song thường
gặp khó khăn trong việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
DNN&V khi mới thành lập, ngoài số vốn hiện có của chủ doanh
nghiệp, có thể huy động từ anh em, họ hàng… Ngoài ra trong quá trình hoạt
động, DNN&V luôn kêu gọi vốn đầu tư; và với tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán
đi sâu vào các ngõ ngách, bản làng nên DNN&V có thể thu hút được vốn
trong dân cư.
Tuy nhiên, trong khi các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận
được các nguồn tài chính khác nhau để mở rộng sản xuất kinh doanh thì các
DNN&V lại gặp khó khăn trong việc huy động vốn, do đó các DNN&V khó có
điều kiện cải tiến công nghệ sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ở Việt Nam hiện nay, sự thiếu vốn của các DNN&V đã và đang diễn
ra trên bình diện khá rộng. Bởi hầu hết vốn tự có của các DNN&V đều rất
nhỏ, hạn hẹp, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có
chất lượng và hiệu quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng,
11

Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
phát triển quy mô và đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ. Mặt
khác thị trường vốn dài hạn nước ta chưa phát triển, thị trường chứng khoán
tuy mới nổi nhưng hoạt động chưa ổn định; thêm vào đó, điều kiện hút vốn từ
thị trường chứng khoán đối với DNN&V là rất khó khăn và hiếm hoi. Trong
đó khả năng và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn tín dụng khác đối với các
DNN&V cũng bị hạn chế do chưa có uy tín và chưa tạo lập được khả năng
trả nợ, thêm vào đó các doanh nghiệp thường không đáp ứng được yêu cầu
về tài sản thế chấp, về báo cáo tài chính cũng như kế hoạch sản xuất, kinh
doanh… nên các NHTM cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại
khi đưa ra quyết định cho vay đối với khách hàng này.
1.2.2.3 DNN&V có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp, nhưng thường là
lao động phổ thông, trình độ tay nghề thấp.
Do hầu hết các DNN&V sử dụng thiết bị công nghệ đơn giản nên máy
móc chưa thay thế được con người và không đòi hỏi người lao động phải có
tay nghề cao. Mặt khác, ở một số ngành sản xuất kinh doanh như ngành thủ
công mỹ nghệ đòi hỏi phải có bàn tay trực tiếp của con người mà máy móc
không thay thế được. Vì vậy, các DNN&V góp phần không nhỏ giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt tại khu vực nông thôn và khu
vực đô thị hoá, vùng sâu, vùng xa, kinh tế chậm phát triển.
Tuy nhiên, lao động trong DNN&V chủ yếu là lao động phổ thông,
trình độ tay nghề, kỹ thuật thấp, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Số lao động có
tính chất phổ thông, chưa qua đào tạo bình quân chiếm khoảng 60-70%. Ở
một số vùng nông thôn, số được đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng
10%. Đó cũng là một trong những khó khăn khi DNN&V đưa dây truyền công
nghệ tiên tiến vào mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.2.2.4. Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhẹ linh hoạt song trình
độ chưa cao.
12

Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNN&V gọn nhẹ, linh hoạt:
công tác điều hành mang tính trực tiếp. Song trình độ, năng lực quản lý ở các
DNN&V còn bị hạn chế và mang tính chất gia đình nên ảnh hưởng rất lớn
đến công tác điều hành doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức của các DNN&V thường đơn giản, gọn nhẹ. Các quyết
định được thực hiện nhanh chóng, công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành
chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian vì vậy tiết kiệm được nhiều
chi phí quản lý doanh nghiệp.
Quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các
DNN&V khá chặt chẽ, gắn bó, tạo môi trường làm việc tốt. Các lao động dễ
dàng trao đổi với nhau và với lãnh đạo, đề xuất những ý tưởng mới lạ đóng
góp cho sự phát triển của doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp mà số lao
đọng không lớn lắm, người lãnh đạo doanh nghiệp có thể nắm được khẳ
năng làm việc cũng như đời sống tinh thần của từng thành viên, nhờ vậy điều
chỉnh vị trí công việc của người lao động để tận dụng được hết khả năng của
họ.
Tuy nhiên do trình độ, năng lực quản lý ở các DNN&V chưa cao, còn
mang nặng tính gia đình chủ nghĩa nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác điều
hành doanh nghiệp. Nhiều chủ DNN&V không có kiến thức quản lý, không có
trình độ chuyên môn, thậm trí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây
dựng phương án phát triển kinh doanh, lập dự án đầu tư hay làm thủ tục xin
vay vốn ngân hàng theo quy đinh. Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị yếu
nên không nắm bắt kịp tình hình biến đổi bên ngoài doanh nghiệp như: tình
hình nguyên liệu, mặt hàng, trình độ công nghệ, các đố thủ cạnh tranh…
Nhìn lại đội ngũ các chủ DNN&V ở nước ta hiện nay cho thấy, họ có
nhiều bất cập với đòi hỏi kinh doanh trong thương trường hiện đại. Về trình
13
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C

Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
độ văn hoá: chủ doanh nghiệp có trình độ văn hoá trung học cơ sở khoảng
45-50%; trình độ cấp tiểu học 10-15%, thâm chí cá biệt có người chưa đọc
thông viết thạo; Số có trình độ văn hoá phổ thông trung học, cao đẳng và đại
học chiếm khoảng 30-35%. Về trình độ quản lý, chỉ có 2-3% chủ DNN&V
được đào tạo kiến thức quản lý doanh nghiệp chính quy, 20-30% được tập
huấn, đào tạo ngắn hạn (dưới 6tháng), còn đại bộ phận quản lý doanh
nghiệp của mình bằng kinh nghiệm.
Đây là điểm yếu cơ bản mà bản thân các chủ DNN&V rất khó khắc
phục nên rất cần sự giúp đỡ, hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các hiệp hội
doanh nghiêp và các tổ chức phi chính phủ.
1.2.2.5. Khả năng cạnh tranh yếu
Khả năng cạnh tranh của các DNN&V yếu do hạn chế về vốn, quy mô,
trình độ lao động, công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thông
tin và khả năng tiếp cận thị trường.
Vốn ít, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, công nhân lành nghề ít, trình
độ quản lý thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm… làm yếu năng lực cạnh tranh của DNN&V
Mặt khác, do còn mang nặng tư tưởng làm ăn tiểu nông, cá thể nên các
DNN&V chưa thấy hết được sự cần thiết của việc liên doanh, liên kết các
doanh nghiệp trong sản xuất, trong tìm kiếm thị trường, phân phối hàng
hoá… tạo ra sức mạnh tập thể trong cạnh tranh.
Với thực trạng này, các DNN&V đang và sẽ chịu nhiều thua thiệt trong
quá trình hội nhập. Thực tế thời gian qua cho thấy: DNN&V chưa xây dựng
được thương hiệu cho sản phẩm của mình, mẫu mã hàng hoá xuất khẩu
không đa dạng, chất lượng thấp, không đồng đều, khả năng tiếp thị kém, rất
ít doanh nghiệp giao dịch được qua mạng Internet, giới thiệu chào hàng trực
14
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân

tuyến, tham gia hội trợ triển lãm,… nên chưa tạo được uy tín trên thị trường.
Do thiếu thông tin thị trường và liên kết lỏng lẻo, nên các DNN&V thường bị
ép giá khi kí hợp đồng xuất khẩu, hoặc phải xuất khẩu qua đối tác trung gian
nên không bán được giá cao. Thực trạng thiếu am hiểu về luật pháp quốc tế
và tập quán thương mại quốc tế gây cho doanh nghiệp Việt Nam nói chung và
DNN&V Việt nam nhiều thua thiệt trong quá trình tiếp cận thị trường nước
ngoài. Điều này xảy ra không chỉ với DNN&V mà còn xảy ra cả với những
thương hiệu hàng hoá nổi tiếng trong nước như: việc mất thương thiệu Cà
phê Trung Nguyên ở Mỹ , nước mắm Phú Quốc ở Thái Lan…. ; hay bị cạnh
tranh thiếu lành mạnh từ những nhà sản xuất hàng hoá tại nước nhập khẩu
như trường hợp chúng ta bị kiện về bán phá giá cá Tra, cá Ba Sa, và gần đây
là đồ gỗ xuất khẩu, giày dép da…
Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với các DNN&V là phải tìm mọi giải pháp
vừa nâng cao sức cạnh tranh trong nước vừa cạnh tranh với hàng hoá và
dịch vụ nước ngoài, đã và đang nhập khẩu vào nước ta ngày càng nhiều.
Thị trường của DNN&V thường nhỏ bé và không ổn định, lại phải chia
sẻ với nhiều doanh nghiệp khác.
Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNN&V Việt Nam hiện
nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cùng với sự độc quyền của một số
doanh nghiệp lớn, số lượng DNN&V lại quá nhiều đẩy DNN&V tới tình trạng
bị chia sẻ thị trường tiêu thụ.
1.2.3 Vai trò của DNN&V
Theo số liệu thống kê của viện nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương,
đến hết năm 2007, khối kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó chủ yếu là
DNN&V đã đóng góp 47% vào tổng thu nhập toàn bộ nền kinh tế, DNNN
chíem 38%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 15%. Hàng
15
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
năm, DNN&V chiếm tới 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển

hàng hoá, sản xuất ra 100% sản lượng của một số loại sản phẩm công nghiệp
Thứ nhất: DNN&V chiếm số lượng đông đảo và ngày càng gia tăng mạnh.
Ở hầu hết các nước, số lượng DNN&V chiếm khoảng trên dưới 90%
tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNN&V cũng nhanh
hơn số lượng các doanh nghiệp lớn.
Ở nước ta hiện nay, theo số liệu thống kê, doanh nghiệp quy mô lớn
không nhiều, chỉ có 0,6% số doanh nghiệp có từ 1000 lao động trở lên và
ngần 0,4% số doanh nghiệp có vốn từ 500tỷ đồng trở lên, những doanh
nghiệp này thường là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong khi đó doanh nghiệp có dưới 300 lao động chiếm 87,8%;
doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 95,6 %.
DNNN (phần lớn là doanh nghiệp lớn) tuy vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng sản phẩm trong nước song qua nhiều năm sắp xếp lại đã giảm về số
lượng doanh nghiệp. Trong đó kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đến cuối năm
2007 đã có trên 250.000 doanh nghiệp (hầu hết là DNN&V) gấp 5 lần năm
2000 và hơn 5 lần tổng số doanh nghiệp tư nhân được thành lập từ 1991 đến
1999 cộng lại.
Thứ hai: Sản phẩm hàng hoá của DNN&V phong phú, đa dạng đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của mọi tầng lớp dân cư.
DNN&V hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, trong mọi thành phần
kinh tế, sức lan toả của DNN&V vào các lĩnh vực của đời sống xã hội là rất
lớn. Do có quy mô nhỏ, DNN&V có thể hoạt động kinh doanh ở trong cả các
lĩnh vực mà các doanh nghiệp lớn không muốn tham gia hoạc không thể vươn
tới nên nó có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu về sản phầm dịch vụ dù là nhỏ
nhất của mọi tầng lớp xã hội. Theo số liệu thống kê thì các DNN&V sản xuất
16
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực, cung cấp 80% sản phẩm cho nền kinh
tế, sản xuất ra 100% sản lượng của một số loại sản phẩm thủ công nghiệp.

Thứ ba: DNN&V có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế,
tăng thu ngân sách Nhà nước.
DNN&V đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân
của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở
mỗi nước. Ở Việt Nam, theo những số liệu hiện có, các DNN&V đã huy động
được 57.327 tỷ đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và tạo được gần 10
triệu chỗ làm việc cho người lao động. Doanh thu của các DNN&V đạt
khoảng 149 tỷ đồng và nộp 6,3 tỷ đồng tiền thuế. Các DNN&V đã đóng góp
khoảng 26% GDP, 47% tổng thu nhập toàn bộ nền kinh tế đóng góp khoảng
75% kim ngạch xuất khẩu, thu hút khoảng 26% lực lượng lao động trong cả
nước.
Thứ tư: Tác động kinh tế - xã hội lớn nhất của DNN&V là góp phần giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển đô thị nhỏ, góp phần xoá đói giảm
nghèo.
Do đặc điểm của các DNN&V là việc áp dụng các máy móc, thiết bị,
dây truyền công nghệ ở mức thấp, chưa mang tính tự động cao nên máy móc
hiện đại chưa thay thế được con người, mặc khác, có một số ngành sản xuất
kinh doanh của DNN&V đòi hỏi phải có bàn tay trực tiếp của con người (như
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ….) do đó các DNN&V cần một lượng lao
động rất lớn và thường xuyên tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động. Vì
vậy DNN&V có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm
cho xã hội và tăng thu nhập, đảm bảo đời sống cho người lao động.
Ở hầu hết các nước, DNN&V tạo công ăn việc làm cho khoảng 50-
80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, trong nhiều
thời kỳ, các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực DNN&V lại thu
17
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao đọng mới cao hơn doanh
nghiệp lớn.

Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
Ương, thì số lao động của các DNN&V trong các lĩnh vực phi nông nghiệp
hiện có khoảng 7,8 triệu người, chiếm tới 79,2% tổng số lao động phi nông
nghiệp và chiếm khoảng 26% lực lượng lao động của cả nước. Đặc biệt trong
quá trình đô thị hoá hiện nay thì DNN&V thực sự là một giải pháp hữu hiệu,
chủ yếu tạo thu nhập và việc làm cho số lao động nông thôn không còn đất
sản xuất, hạn chế tình trạng dân nông thôn đổ về thành thị, làm phát sinh các
vấn đề xã hội phức tạp. Mặt khác đây cũng chính là khu vực thu hút lao động
là sinh viên mới ra trường và điều này đã góp phần giải quyết một trong
những bức xúc của chúng ta hiện nay.
Thứ năm : DNN&V góp phần làm nền kinh tế năng động và hoạt động hiệu
quả hơn.
Do yêu cầu vốn ít, quy mô nhỏ, DNN&V có khả năng thay đổi mặt
hàng, chuyển hướng sản xuất cho phù hợp với sự thay đổi của thị trường.
Đồng thời với sự gia tăng các DNN&V là sự gia tăng số lượng và chủng loại
hàng hoá, dịch vụ, làm cho nền kinh tế năng động hơn.
Mặt khác, trong nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp lớn không thể
vươn tay đến mọi khâu trong quá trình sản xuất. Sự phát triển của chuyên
môn hoá và hợp tác hoá đã không cho phép doanh nghiệp lớn khép kín chu kì
sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả. Do đó với vai trò vệ tinh của mình,
các DNN&V cũng sẽ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp lớn từ cung ứng đầu vào, gia công chế biến đến tổ chức tiêu
thụ hàng hoá thông qua các cửa hàng bán buôn, bán lẻ. Với lợi thế sẵn có,
DNN&V đã thực hiện vai trò trung gian trong lưu thông hàng hoá rất tốt,
viìhệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ nhỏ và vừa đặt ở khắp
18
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
các đường phố, các khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư có thể đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng. Số liệu thống kê cho thấy

hàng năm DNN&V chiếm tới 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận
chuyển hàng hoá. Sự hợp tác giữa DNN&V và các doanh nghiệp lớn không
những mang lại lợi ích cho các DNN&V mà còn giúp cho các doanh nghiệp
lớn tiết kiệm thời gian và chi phí để tập trung sản xuất, tận dụng lợi thế về
quy mô và công nghệ của mình để phát triển trong cơ chế thị trường. Từ đó
làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn.
Thứ sáu: DNN&V có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, khai
thác thế mạnh, tiềm năng của từng vùng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tại
địa phương.
Xuất phát từ lợi thế quy mô nhỏ và vừa thuận lợi cho việc thành lập
doanh nghiệp ở mọi nơi nên tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng mà các
DNN&V ra đời, lựa chọn các mặt hàng sản xuất, kinh doanh sao cho có thể
khai thác thế mạnh, tiềm năng của từng vùng một cách tốt nhất để phục vụ
người tiêu dùng và tìm kiếm lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, trong quá trình sản xuất, kinh doanh các DNN&V luôn kêu
gọi vốn đầu tư vớ tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán và đi sâu vào các ngõ, ngách,
bản làng nên DNN&V có thể thu hút được vốn trong dân cư, tạo cơ hội cho
dân cư địa phương đầu tư sinh lời từ lượng tiền nhàn rỗi nhỏ bé của mình.
Bên cạnh đó, DNN&V đã thu hút được các nguồn lực khác như: sức
lao động, tài nguyên đất, rừng, khoán sản và khai thác nguyên liệu sản xuất
sẵn có tại địa phương… đưa vào sản xuất, phát triển kinh tế vùng, phát huy
và tận dụng thế mạnh của từng địa phương.
Trong những năm qua, DNN&V đã khơi dậy và làm sống lại các ngành
nghề truyền thống của từng địa phương, làm sống lại nhiều làng nghề đã
từng bị mai một theo thời gian, đặc biết là đối với nghề thủ công mỹ nghệ
19
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
như: trạm khắc gỗ, mây tre đan, giốm sứ mỹ nghệ, dệt may, cói xuất khẩu…
Mặt khác, đối với một nước nông nghiệp chưa có nhiều vùng chuyên canh

như nước ta thì việc phát triển ngành Công nghiệp chế biên sản phẩm nông,
lâm, thuỷ hải sản là hết sức cần thiết và mô hình DNN&V là lựa chọn đúng
đắn, có hiệu quả.
Thứ bảy: DNN&V có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thức hiện đô thị hoá phi tâm trung và phương châm “ly nông bất ly
hương”.
DNN&V đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
nông thôn, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các
ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNN&V ở
thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ làm
thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các
DNN&V còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hoá
cơ cấu công nghiệp.
Sự phát triển của các DNN&V ở nông thôn sẽ thu hút những người lao
đọng thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động
thời vụ trong kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Rút dần lực
lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ
nhưng vẫn sống ngay tại quê hương bản quán, không phải di chuyển đi xa,
thực hiện được phương châm “ly nông bất ly hương”. Đồng hành với nó là
xu hướng hình thành những khu vực khá tập trung các cơ sở công nghiệp và
dịch vụ nhỏ ngay ở nông thôn, tiến dần lên hình thành những khu thị tứ, thị
trấn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê.
20
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
1.3 Tín dụng NHTM với DNN&V
1.3.1 Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
1.3.1.1 Khái niệm
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến giao dịch về tài sản
giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản

cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi
vay có trách niệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng trong đó bên cho vay là các tổ
chức tín dụng và bên đi vay là các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch
về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai
hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và
động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi
chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có sở để tin
rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay,
hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài
vốn gốc
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở
cam kết hoàn trả vô điều kiện.
1.3.1.2 Phân loại
Các hình thức tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường rất đa
dạng và phong phú. Sự phát triển kinh tế đã tạo điều kiện làm xuất hiện các
21
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
hính thức tín dụng mới, do đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và
pháp luật của mỗi nước mà việc áp dụng các hình thứ tín dụng ở các nước có
khác nhau.
Có nhiều cách phân loại tín dụng, chẳng hạn như: theo thời hạn tín
dung (Tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) theo đối tượng tín dung (Tín
dụng vốn lưu động, vốn cố định) Theo mục đích sử dụng vốn (tín dụng sản

xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng tiêu dùng)
Trên thực tế người ta thường dựa vào tính chất và đặc điểm của
nghiệp vụ cho vay để phân loại tín dụng.
- Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa ngân
hàng và khách hàng, bằng nội tệ hay ngoại tệ với các nội dung được thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Tín dụng chiết khấu: Trong các nước có nền kinh tế thị trường, kỳ
phiếu thương mại được phát hành và lưu thông theo quy định của luật pháp.
Người có kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán, nếu cần tiền có thể bán cho
NHTM. NHTM mua kỳ phiếu thương mại với giá bằng hiệu số giữa mệnh
giá ghi trên kỳ phiếu trừ đi lãi suất, hoa hồng và các khoản chi phí khác.
- Tín dụng cầm đồ: Tín dụng cầm đồ là loại cho vay có thế chấp bằng
bất động sản hoặc bằng động sản. Tài sản cầm đồ có thể phải đem đến ngân
hàng cất giữ, trường hợp đặc biệt có thể để ở kho chuyên dụng hoặc giao
cho người vay giữ. Tài sản cầm dồ được đánh giá không phải bằng đúng giá
trị của nó mà thường được đánh giá thấp hơn để khi rủi ro có thể bán được
ngay đủ bằng số nợ gốc và lãi, và NHTM thường cũng chỉ cho vay một
khoản tương ứng với tỷ lệ phần trăm giá trị của tài sản cầm đồ. Các tài sản
dùng để cầm đồ rất đa dạng, có thể là: chứng khoán ngắn hạn và chứng
khoán dài hạn, hàng hoá, kim loại quý, sổ tiết kiệm, quyền sử dụng đất…
22
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
- Tín dụng trả nhiều lần: Tín dụng trả nhiều lần là loại cho vay mà
điều kiện trả nợ được phân ra nhiều thời hạn, mỗi thời hạn trả một phần.
- Tín dụng bảo lãnh: là loại cho vay phát sinh do ngân hàng nhận
thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua (người được
bảo lãnh) không có khả năng thanh toán số nợ. Ngân hàng thu phí dịch vụ
bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay.
Hình thức bảo lãnh của ngân hàng rất đa dạng: Bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh

cung cấp hàng hoá, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bán chịu hàng hoá, bảo
lãnh thuế…
- Tín dụng thuê mua: Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê mua
rất phát triển. Đây là hình thức tín dụng cho người khác tạm sử dụng tài sản
của người cho thuê trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn, người
đi thuê phải trả lại tài sản đó hoặc có thể mua lại. Có rất nhiều hình thức cho
thuê như: cho thuê tài chính, cho thuê hoạt động… Tiền thuê bao gồm giá
vốn, chi phí, các loại thuế và lãi kinh doanh. Tuỳ từng loại đối tượng khác
nhau mà giá cả thuê mua được tính khác nhau.
Tín dụng thuê mua có nhiều ưu điểm, đặc biệt là tạo điều kiện cho các
nhà sản xuất kinh doanh thiếu vốn mở rộng sản xuất, ứng dụng kỹ thuật
công nghệ mới hoặc thực hiện chiến lược cạnh tranh trên thị trường. Trong
điều kiện mà người đi vay không có tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì
hình thức tín dụng này rất phù hợp. Song trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật, quản
lý của ngân hàng đòi hỏi rất cao. Môi trường pháp luật phải đồng bộ và đầy
đủ.
Tóm lại có thể thấy rằng, các NHTM luôn luôn tìm cách sang tạo ra
các hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng được nhu cầu của quá trình
tái sản xuất, nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay để mở rộng tín dụng,
23
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
thu hút thêm nhiều khách vay, tăng thêm lợi nhuận và phân tán, giảm thấp
rủi ro.
1.3.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.2.1 Ngân hàng hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đầu tư mở rộng sản xuất theo chiều rộng và sâu là yêu cầu khách
quan đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nói
chung và các DNN&V nó riêng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu và sự

tích luỹ trong nội bộ từng doanh nghiệp thì sẽ tốn nhiều thời gian, không thể
đáp ứng được nhu cần sản xuất kinh doanh. Vì vậy các doanh nghiệp đều
phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác.
Trên lý thuyết có 3 phương pháp chủ yếu để tìm nguồn tài trợ cho
doanh nghiệp đó là: tăng nguồn vốn chủ sở hữu, vay có kỳ hạn và thuê (thuê
mua). Sau đây sẽ phân tích kĩ điểm mạnh và điểm yếu của ba phương thức
tài trợ này, từ đó có thể thấy vai trò quan trọng của ngân hàng trong hỗ trợ
vốn cho DNN&V.
Tăng vốn chủ sở hữu là biện pháp an toàn nhất và ít tốn kém chi phí
vốn nhất bởi có thể huy động từ các cổ đông hiện hữu, hoặc huy động trên
thị trường chứng khoán, số vốn này không gây ra chi phí vốn cho doanh
nghiệp (trừ chi phí để huy động ban đầu). Tuy nhiên, biện pháp này thường
không áp dụng được với các DNN&V vì thực tế người chủ doanh nghiệp
hoặc các cổ đông chỉ có lượng tài chính hạn chế, họ không có khả năng bỏ ra
nhiều vốn hơn số vốn họ đã đóng góp vào doanh nghiệp. Tìm kiếm vốn trên
thị trường chứng khoán với các DNN&V lại càng là điều không tưởng bởi
quy mô hạn hẹp, uy tín chưa có và trình độ hạn chế. Vì vậy DNN&V vốn
không có nhiều lựa chọn, thường tìm đến ngân hàng, trung gian tài chính
24
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế quốc dân
này có thể cung cấp vốn nhanh nhất (sau khi doanh nghiệp đã thoả mãn một
điều kiện).
Ở các nước công nghiệp phát triển, thuê mua là một biện pháp đơn
giản và thuận lợi, thay thế cho tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt là cho các
DNN&V thường gặp nhiều khó khăn khi vay vốn trung và dài hạn của ngân
hàng. Nó có tác dụng thay thế các khoản vay có bảo đảm và giảm rủi ro cho
các khoản tài trợ trung hạn đối với các doanh nghiệp nhỏ không có báo cáo
hoạt đông kinh doanh và báo cáo kiểm toán. Song ở Việt Nam hiện nay, đây
là hình thức tài trợ vốn mới mẻ, chưa phát triển. Các DNN&V Việt Nam còn

chưa quen với hình thức này, vì vậy chủ yếu họ vẫn cần đến ngân hàng để
vay vốn trung và dài hạn.
Ngoài ra các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng
thương mại hay còn gọi là tín dụng người cung cấp. Nguồn vốn này hình
thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay
trả góp. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng khi quy mô tài trợ quá lớn thì rủi ro
của quan hệ tín dụng này sẽ rất lớn. Mặt khác tín dụng thương mại còn mang
tín dây chuyền, nên khi một doanh nghiệp không có khả năng thanh toán sẽ
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của hàng loạt các doanh nghiệp khác và
tác động xấu đến kinh tế xã hội. Về lý thuyết có thể thấy, tín dụng thương
mại bị hạn chế bởi phương hướng, quy mô và thời hạn. Về phương hướng,
tín dụng thương mại chỉ có thể thực hiện được khi có sự phù hợp về nhu cầu
hàng hoá. Các doanh nghiệp chỉ có thể cung cấp giới hạn trong phạm vi khả
năng của mình. Và cuối cùng, vốn vay là một bộ phận nằm trong chu kỳ sản
xuất kinh doanh của người cho vay nên không thể kéo dài thời hạn.
Vốn ngân hàng, ngược lại có thể giải quyết những hạn chế trên, nguồn
vốn ngân hàng huy động là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nên có đủ khả
năng tài trợ cả vốn ngắn hạn và vốn trung dài hạn, đảm bảo cho doanh
25
Phạm Thị Thu Hằng – TC 46C

×