Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Trẻ nhiễm HIV dễ mắc bệnh viêm phổi ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.39 KB, 6 trang )



Trẻ nhiễm HIV dễ mắc
bệnh viêm phổi

Viêm phổi là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ phải nhập
viện và gây tử vong ở trẻ nhiễm HIV. Khi bị viêm phổi do
vi khuẩn tái phát chỉ điểm tình trạng miễn dịch bị ức chế
ở giai đoạn lâm sàng 3…
Liên cầu Streptococcus pneumoniae là loại vi khuẩn gây
viêm phổi phổ biến nhất ở cả trẻ nhiễm HIV và trẻ bình
thường (không nhiễm HIV). Ngoài ra còn có các loại khác
như H. influenzae, Klebsiella, Staphlococcus aureus và vi
khuẩn gram âm (E.coli, Enterobacter, Salmonella…) thường
xâm nhập mũi hầu trước khi gây viêm phổi.
Khi bị viêm phổi do vi khuẩn, bệnh thường khởi phát cấp
tính. Trẻ sẽ có những triệu chứng như: sốt, ho, thở nhanh,
bệnh nặng sẽ kèm theo rút lõm lồng ngực, tím tái và li bì, hôn
mê. Nghe phổi thấy có tiếng ran, rì rào phế nang giảm hoặc
tiếng rít phế quản (viêm phổi thùy).
Giảm bão hòa ôxy máu (dưới 90%). Dựa vào các triệu chứng
lâm sàng này có thể chẩn đoán được viêm phổi. Ngoài ra,
một số xét nghiệm có thể giúp phát hiện ra tác nhân gây
bệnh. Ở viêm phổi do vi khuẩn có chỉ số bạch cầu tăng cao,
đặc biệt là bạch cầu trung tính. Khi cấy máu có thể tìm
thấy vi khuẩn gây bệnh, đặc biệt là viêm phổi ở những bệnh
nhân nhiễm HIV.

Yêu sức khỏe - Sức khỏe! Chuyên mục về tin tức sức khỏe, tư
vấn trực tuyến, gia đình, tin tức làm đẹp, đời sống, y tế.
Ảnh minh họa (nguồn Internet)


Trường hợp viêm phổi nhẹ, chỉ cần điều trị ngoại trú. Dùng
amoxycillin trong 7 ngày. Nếu không đáp ứng, hoặc bệnh
nhân bị nghi nhiễm Hib có beta – lactamas, cần chuyển sang
điều trị bằng amoxycillin – acid clavulanic trong 7 ngày.
Nếu trẻ bị dị ứng với penicillin có thể điều trị bằng nhóm
macrolid như erythromycin, azithromycin hoặc
clarithromycin. Nếu trẻ đang điều trị dự phòng bằng co-
trimoxazol, không nên dùng co-trimoxazol để điều trị viêm
phổi trừ khi trẻ bị nghi viêm phổi PCP và trong trường hợp
viêm phổi PCP cần sử dụng co-trimoxazol liều cao. Giảm
đau/hạ sốt bằng paracetamol, mỗi 6-8 giờ/lần. Đối với những
trẻ bị viêm phổi tái phát (hơn 3 lần/năm), cần phải theo dõi
kỹ hơn để loại trừ nhiễm lao, dị vật trong phổi hoặc bệnh
phổi mạn tính.
Đối với những trường hợp viêm phổi nặng, cần điều trị nội
trú, kết hợp điều trị hỗ trợ và điều trị đặc hiệu.
- Điều trị hỗ trợ: Cho thở ôxy nếu có thở nhanh, khó thở, rút
lõm lồng ngực, tím tái và/hoặc giảm ôxy máu. Nếu có thiếu
máu nặng cần truyền hồng cầu khối. Uống đủ nước, đồng
thời theo dõi lượng dịch vào và ra. Nếu suy hô hấp nặng, cho
trẻ ăn bằng ống xông dạ dày để tránh hít vào khi đang ăn.
Trường hợp trẻ bị nôn có thể truyền dịch đường tĩnh mạch
một cách cẩn trọng để tránh tiếp quá nhiều dịch. Dùng
paracetamol để hạ sốt, giảm đau và bổ sung vitamin A nếu trẻ
không được bổ sung vitamin A trong vòng 3 tháng gần đây.
Yêu sức khoẻ! Trang tin tức sức khoẻ tổng hợp, đem lại kiến
thức sức khoẻ, mẹo vặt phòng bệnh chữa bệnh cho gia đình,
những bài thuốc chữa bệnh nhân gian.
- Điều trị đặc hiệu: Điều trị bằng kháng sinh đặc hiệu tùy
thuộc vào tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên khi không thể xác

định được vi khuẩn gây bệnh, liệu pháp nên áp dụng là:
kháng sinh ưu tiên dùng ceftriaxon tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm
bắp cho đến khi ổn định. Nếu không có ceftriaxon có thể thay
thế bằng ampicillin và gentamycin (tiêm bắp).
Đối với trẻ dưới 1 tuổi cần xem xét liệu có phải viêm phổi do
PCP để điều trị phù hợp bằng co-trimoxazol liều cao. Nếu
bệnh viêm phổi có đi kèm với các tổn thương da do tụ cầu
đặc trưng (như mụn mủ), chụp Xquang ngực phát hiện khí
phế thũng và bệnh xảy ra sau khi bệnh nhi bị sởi hoặc nhiễm
virut thì có thể nghĩ đến viêm phổi do tụ cầu. Khi đó, phác đồ
điều trị cần bổ sung thêm cloxacillin tiêm tĩnh mạch hoặc
tiêm bắp hoặc vancomycin.
Khi trẻ có tiền sử nhập viện hoặc viêm phổi tái phát với tổn
thương dạng đông đặc trên cùng một thùy và đáp ứng kém
với kháng sinh bậc 1, đờm nhầy xanh, bị giãn cuống phổi
hoặc bệnh phổi mạn tính có thể nghĩ đến tác nhân gây bệnh là
do vi khuẩn gram âm đường ruột thì cần bổ sung gentamycin
hay ceftazidim vào phác đồ điều trị.

×