Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SUY THOÁI KINH TẾ, CÁC GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH CHỐNG SUY THOÁI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.41 KB, 39 trang )

Đề tài:
SUY THOÁI KINH TẾ, CÁC GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH CHỐNG SUY THOÁI, BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP Ở VIỆT NAM
I. SUY THOÁI KINH TẾ:
1. Khái niệm
 Suy thoái kinh tế là một giai đoạn của chu kỳ kinh tế, còn được gọi là chu kỳ kinh doanh. Đó
là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh
(bùng nổ). Vì pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh cũng có thể chỉ chia thành gồm hai
pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng)
Nguồn: Wikipedia, 2009
Suy thoái kinh tế là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng,
khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
 Suy giảm kinh tế là sự suy thoái kinh tế ở mức độ chưa nghiêm trọng (GDP suy giảm nhưng
vẫn mang giá trị dương). Suy thoái kinh tế kéo dài và trầm trọng được gọi là khủng hoảng kinh tế.
Cuộc KHKT Mỹ, KHKT toàn cầu hiện nay là một cuộc suy thoái trầm trọng nhất từ sau thế chiến
thứ II.
Tóm lại: Suy thoái kinh tế là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai
hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong
hai quý).
1
2. Nguyên nhân
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận sôi nổi giữa các nhà lý
thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra
bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại
sinh). Những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo lý thuyết chu kỳ kinh tế
thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại
sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc
ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm phát
bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực
theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không
hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng


những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các
thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém. Như vậy nguyên nhân dẫn đến suy thoái kinh
tế bao gồm:
 Nguyên nhân bên ngoài : Ảnh hưởng của khủng hỏang kinh tế toàn cầu: các nền kinh tế lớn nhất
thế giới như: Mỹ, Nhật, Tây Âu đang bị khủng hoảng nặng nề chưa từng có sau đại chiến thứ 2 dẫn
đến:
- Sản xuất đình đốn, hàng loạt DN phá sản, thất nghiệp tăng, thu nhập giảm, sức mua trên thị
trừờng thế giới thu hẹp.
- Các nước phải điều chỉnh lại chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá để bảo hộ hàng
trong nước nên gặp nhiều rào cản cho hàng Việt Nam xuất khẩu
 Nguyên nhân bên trong : Cơ cấu nội tại của nền kinh tế có nhiều bất cập. Ta đang đối phó với
cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới trong bối cảnh lạm phát cuối 2007 ở VN vào loại cao nhất trong
khu vực.
3. Tác động của suy thoái kinh tế đến nền kinh tế
Khi suy thoái kinh tế xảy ra, nó sẽ tác động lên toàn bộ các yếu tố của nền kinh tế trong một quốc
gia. Ta có thể dựa vào độ mở của một nền kinh tế để đánh giá mức độ tác động của suy thoái kinh
tế. Tuy nhiên, nhìn chung suy thoái kinh tế có thể gây ra các tác động chung đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam như sau.
2
 Đối với thị trường tài chính: tác động này được thể hiện thông qua việc các khoản nợ ngắn hạn
của các doanh nghiệp gặp khó khăn khi lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng. Đồng USD có
thể giảm giá mạnh dẫn tới nhiều người dân có thể rút USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD để gửi
nội tệ vào, làm cho cấu trúc tài sản ngân hàng gặp khó khăn. Mức độ và khả năng liên kết của các
ngân hàng thương mại địa phương đối với hệ thống tài chính quốc tế càng chặt chẽ thì các ngân
hàng thương mại càng chịu tác động trực tiếp từ suy thoái kinh tế càng mạnh mẽ.
 Đối với thị trường chứng khoán: có thể bị ảnh hưởng tùy thuộc vào mức độ liên kết giữa thị
trường nội địa với thế giới. Ngoài ra việc phát hành và huy động vốn trên thị trường quốc tế có thể
trở nên khó khăn với chi phí tăng cao. Việc huy động vốn gián tiếp vào thị trường chứng khoán
cũng có thể trở nên khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn.
 Đối với hoạt động xuất nhập khẩu: nền kinh tế bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất

khẩu, làm cho hoạt động xuất khẩu có xu hướng giảm sút. Bên cạnh đó, tỷ giá đồng nội tệ so với
ngooại tệ mạnh bị tác động nhiều và cần được điều chỉnh linh hoạt . Khi giá đồng ngoại tệ mạnh
giảm trên thị trường thế giới thì có thể dẫn tới lạm phát trong nước nếu đồng nội tệ không lên giá,
và khi đó người tiêu dùng chịu giá cả tăng do nhập khẩu. Nhưng nếu tỷ giá đồng nội tệ so với
ngooại tệ mạnh giảm (tức là nội tệ lên giá so với ngoại tệ mạnh) ở mức không phù hợp sẽ làm cho
xuất khẩu doanh nghiệp trog nước bị lỗ.
 Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): nếu cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng toàn cầu, có
thể nói hầu hết các doanh nghiệp tại các quốc gia phát triển sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
nên việc thu hút FDI tại các nước đang phát triển đều bị tác động đáng kể. Hơn thế nữa, chi phí huy
động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng dẫn tới khả năng thu hút đầu
tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới việc giải ngân FDI giảm.
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hoặc
âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu tố này. Trong khi lạm phát vẫn là một vấn đề tiềm ẩn ảnh
hưởng tới sự phát triển kinh tế Việt Nam năm 2009. Ngoài ra, tiền gửi ngân hàng nước ngoài và các
ngân hàng trong nước sẽ bị giảm lợi tức do nhiều nước nới lỏng tiền tệ để tránh lâm vào suy thoái
sâu rộng; dòng ngoại hối sẽ suy giảm; nhiều hoạt động kinh tế ở nước ta cũng gặp khó khăn, đặc
biệt các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài có thể bị ngưng trệ và có thể các hợp đồng này
sẽ không còn được ký kết. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng dẫn tới giá nhiều loại nguyên
vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh giảm, đặc biệt là dầu thô. Giá dầu thế giới giảm đã ảnh
hưởng đến nguồn thu ngân sách do xuất khẩu dầu thô bị giảm sút. Ngoài ra, nhiều loại nguyên liệu
3
khác phục vụ cho hoạt động của nền kinh tế như sắt, thép, phân đạm, giấy, xi măng cũng gặp khó
khăn và hiện tại thị trường tiêu thụ của các ngành này đang bị thu hẹp
4. Biểu hiện của suy thoái kinh tế
Thông thường người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang
pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và
mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó
tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa trong các doanh nghiệp tăng lên
ngòai dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị,

nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của ngừơi lao động giảm xuống tiếp
theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên
nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế
suy thóai.
- Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khóan thường giảm theo khi các
nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống trong thời kỳ suy thóai.
- Khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
5. Các dạng suy thoái kinh tế
Các nhà kinh tế học hay miêu tả kiểu suy thoái kinh tế theo hình dáng của đồ thị tăng trưởng
theo quý. Có các kiểu suy thoái sau hay được nhắc đến:
- Suy thoái hình chữ V: Đây là kiểu suy thoái mà pha suy thoái ngắn, tốc độ suy thoái lớn;
đồng thời, pha phục phồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đổi chiều giữa hai phá này rõ
ràng. Đây là kiểu suy thoái thường thấy.
4
- Suy thoái hình chữ U: Đây là kiểu suy thoái mà pha phục hồi xuất hiện rất chậm. Nền kinh tế sau
một thời kỳ suy thoái mạnh tiến sang thời kỳ vất vả để thoát khỏi suy thoái. Trong thời kỳ thoát
khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng trưởng âm xen kẽ nhau.
- Suy thoái hình chữ W: Đây là kiểu suy thoái liên tiếp. Nền kinh tế vừa thoát khỏi suy thoái được
một thời gian ngắn lại tiếp tục rơi ngay vào suy thoái.
5
- Suy thoái hình chữ L: Đây là kiểu suy thoái mà nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi
suốt một thời gian dài không thoát khỏi suy thoái. Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái không
lối thoát này là khủng hoảng kinh tế.
II. CÁC GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH CHỐNG SUY THOÁI:
Mặc dù có sự khác nhau về quan điểm nhìn nhận nguyên nhân của khủng hoảng tài chính toàn cầu
hiện nay, nhưng thực tế khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra và tác động ảnh hưởng của nó đến
nền kinh tế thế giới là rất lớn. Sự lan rộng của khủng hoảng khiến cho Chính phủ nhiều nước phải
bắt tay vào đối phó khủng hoảng nhằm hạn chế tác động xấu của khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên

các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài chính của các Chính phủ trong thời gian vừa qua còn mang
tính cục bộ quốc gia, chưa cho thấy mối quan hệ hợp tác ứng phó đối với khủng hoảng trên phạm vi
khu vực và thế giới. Cụ thể có một số biện pháp ứng phó với khủng hoảng như sau:
STT Các biện pháp ứng phó của Chính phủ các nước
01 Quốc hữu hóa toàn bộ hoặc một phần ngân hàng và quỹ tư nhân
02 Kiểm soát các quỹ đầu tư
03 Mua cổ phần hoặc tài sản từ các tổ chức tài chính
04 Bãi bỏ thuế đối với các khoản đầu tư nước ngoài
05 Hạ lãi suất cơ bản
06 Vay tiền từ tổ chức tài chính quốc tế
07 Bảo lãnh tất cả các khoản tiền gửi, trái phiếu và nợ của một số ngân hàng
lớn trong 02 năm.
08 Khuyến khích sáp nhập ngân hàng yếu kém
09 Cho phép một số ngân hàng tuyên bố phá sản
10 Mua lại các khoản nợ của các ngân hàng đang có vấn đề hoặc bị phá sản
11 Cấp tiền cho ngân hàng để trả các khoản nợ nước ngoài
12 Huy động tiền từ các nhà đầu tư toàn cầu để chống đỡ cơn khủng hoảng
13 Nới lỏng quy định cho phép các công ty mua cổ phiếu của chính họ
6
Nhìn nhận về các biện pháp ứng phó khủng hoảng của các nước cho thấy đằng sau nó là một số vấn
đề then chốt như sau:
- Thứ nhất: Duy trì niềm tin cho các nhà đầu tư, người dân về chính sách hỗ trợ của Chính phủ
đối phó với khủng hoảng. Dù rằng cho đến thời điểm hiện nay, Chính phủ các nước đã đổ rất nhiều
tiền vào các gói giải pháp ứng phó khủng hoảng. Tuy nhiên, niềm tin vào hiệu quả do các chính
sách đó mang lại đối với đầu tư và người dân chưa thật sự cao. Thị trường tài chính thế giới vẫn ảm
đạm: thị trường chứng khoán sụt giảm, thị trường bất động sản không khởi sắc và thiếu tính thanh
khoản, thị trường tiền tệ ngân hàng vẫn còn trong giai đoạn chờ đợi phục hồi.
- Thứ hai: Phòng chống rủi ro đỗ vỡ thanh khoản toàn hệ thống tài chính, đặc biệt là đổ vỡ
khủng hoảng cho vay cầm đố dưới tiêu chuẩn.Việc hỗ trợ của Chính phủ đối phó với khủng hoảng
nợ cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn đã được thực thi thông qua nhiều biện pháp nhằm nâng cao

năng lực tài chính của các tổ chức tài chính và ngân hàng như quốc hữu hóa ngân hàng, khuyến
khích sáp nhập ngân hàng, mua lại các khoản nợ của các ngân hàng có vấn đề hoặc bị phá sản,…
Biện pháp này đã và đang phát huy tác dụng về mặt ngăn ngừa tác động ảnh hưởng đỗ vỡ hệ thống
tài chính. Thế nhưng chi phí cho gói giải pháp này vẫn đang tiếp tục tăng lên và chưa có dấu hiệu
kết thúc, điển hình là danh sách ngân hàng và các tổ chức tài chính cần được hỗ trợ không ngừng
tăng lên và mức độ bơm tiền của Chính phủ vào hệ thống tài chính lại tùy thuộc vào khả năng của
từng Chính phủ khi thi hành biện pháp này.
- Thứ ba: Khủng hoảng tín dụng lan sang khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế.
Một thực tế cho thấy việc ứng phó khủng hoảng trong thời gian qua của Chính phủ đã không lường
hết tính liên thông thị trường của hệ thống tài chính. Khủng hoảng cho vay cầm cố dưới chuẩn làm
năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng và các quỹ đầu tư bất động sản trở nên yếu kém. Các tổ
chức tài chính và ngân hàng liên tiếp tuyên bố lỗ và trông chờ ứng cứu của Chính phủ hoặc phải sáp
nhập trong tình trạng giá trị thị trường của các đơn vị này bị sụt giảm nghiêm trọng. Cuộc khủng
hoảng sau đó đã lan nhanh sang các nước khác và ảnh hưởng của nó không chỉ trong phạm vi quốc
gia mà trên cả thế giới với nhiều mức tác động khác nhau tùy theo tình hình cụ thể của từng quốc
gia.
- Thứ tư: Hiệu ứng của khủng hoảng kinh tế tài chính và vấn đề an sinh xã hội.
Không thể phủ nhận việc ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính đã tác động không nhỏ đến
vấn đề an sinh xã hội như làm cho thất nghiệp gia tăng, thu nhập của dân cư giảm và đầu tư hạn
7
chế. Vấn đề này đã khiến cho Chính phủ các nước ngoài việc thực thi các biện pháp ứng phó khủng
hoảng còn phải chi thêm tiền cho các tác động ảnh hưởng của khủng hoảng, cụ thể:
- Ứng cứu ngân hàng và các tổ chức tài chính còn phải tăng thêm chi phí cho bảo hiểm xã hội, hỗ
trợ những người bị thất nghiệp.
- Hỗ trợ thanh khoản cho các khoản nợ dưới tiêu chuẩn ngoài việc tăng tính thanh khoản và tăng
năng lực tài chính cho ngân hàng, còn là việc giãn nợ cho người dân đang nợ tiền ngân hàng để mua
nhà nhưng không trả được nợ, góp phần hạn chế sự tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính lên
nhóm đối tượng đang gặp khó khăn này.
- Tăng cường chi tiêu cho hoạt động tái dạy nghề cho những người bị thất nghiệp nhằm giúp họ
chuyển hướng nghề nghiệp mới trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thất nghiệp gia tăng.

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA SAU CÁC CUỘC SUY THOÁI:
1. Suy thoái kinh tế 1997 và bài học kinh nghiệm
Suy thoái kinh tế năm 1997 bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Khủng hoảng tài
chính châu Á hay còn gọi là Khủng hoảng tiền tệ Châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan
rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, và sau đó là các trung tâm tiền tệ lớn. Indonesia,
Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng
Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục
Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh
hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài
hạn của chính bản thân mình. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn
từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự suy thoái trên toàn cầu,
với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
1.1. Nguyên nhân dẫn đến suy thoái kinh tế 1997
 Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là “Bộ ba
chính sách không thể đồng thời”. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho
phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh
trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố
định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là
cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) được áp dụng
sau đó để chống lạm phát đã vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
8
 Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên
1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nên cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm
tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu
tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn.
Do đó lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế
đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể

chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng
trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn
và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi
ro đạo đức.)
 Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ
và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc
lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không
còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm
yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn
công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lực xử lý khủng hoảng yếu kém, cùng với
khả năng giám sát yếu của các cơ quan quản lý điều hành pháp lý ngân hàng. Nhiều nhà kinh tế cho
rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình
chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng
làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
1.2. Biến động của các quốc gia trong giai đoạn suy thoái kinh tế
 Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%.
Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan
tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường
chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị
9
tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố
sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7 năm 1997. Khủng hoảng tài
chính chính thức bắt đầu. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống
đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức
1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm
từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị

phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho
Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
 Philippines
Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTƯ) Philippines tăng lãi suất lên 1,75 điểm phần trăm
và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Ngày 3/7/1997, một ngày sau khi cuộc khủng hoảng
bắt đầu diễn ra tại Thái Lan, NHTƯ Philippines bị buộc phải can thiệp sâu vào thị trường nhằm bảo
vệ đồng peso, tăng mức lãi suất vay qua đêm từ 15% lên 24%. Giá trị đồng peso giảm mạnh từ 26
peso ăn một USD lên 38 peso vào năm 2000, và lên 40 peso khi kết thúc cuộc khủng hoảng.
 Hồng Kông
Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trả Hong Kong lại cho Trung Quốc.
Tháng 10/1997, tỉ giá đô-la Hong Kong được cố định so với đô-la Mỹ là 7,8 nhưng chịu sức ép rất
lớn từ hoạt động đầu tư bởi lạm phát của Hong Kong đã cao hơn rất nhiều so với lạm phát của Mĩ
và tình trạng này kéo dài nhiều năm. Cơ quan quản lý tiền tệ Hồng Kông đã chi hơn một tỉ USD để
bảo vệ đồng tiền trong nước. Tuy giữ được tỉ giá đồng tiền, TTCK Hong Kong trở n ên cực kỳ bất
ổn, chỉ số Hang Seng tụt 23% chỉ trong vòng ba ngày từ 20-23/10/1997. Lãi suất tiền vay qua đêm
được nâng lên chóng mặt, đứng trước sức ép từ hoạt động đầu cơ, Chính phủ Hồng Kông khẳng
định tuyên chiến với hoạt động đầu cơ. Chính phủ đã kết thúc cuộc chiến này bằng việc bỏ ra xấp xỉ
120 tỉ đô-la Hồng Kông (khoảng 15 tỉ USD) để mua lại cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp, trở thành
cổ đông lớn trong một số công ty, chẳng hạn tại HSBC, Chính phủ năm 10% cổ phần.
 Hàn Quốc
Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên thế giới. Khi khủng hoảng xảy
ra, với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ những khoản nợ kém hiệu
quả rất lớn, Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3 vào tháng 11/1997 và tiếp
tục hạ xuống B2 vào tháng 12. Sự kiện này góp phần làm thị TTCK Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn,
10
giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF
yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính.
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung
cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho
General Motors. Đồng won Hàn Quốc giảm từ 1000 xuống 1700 won đổi một USD. Dù có nhiều nỗ

lực trong việc cải thiện GDP trên đầu người, sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp
ba lần so với trước đó.
 Malaysia
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc gia nhận được
nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn giao dịch chứng khoán
chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên thế giới (tổng giá
trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều). Ở
thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành
nước phát triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở
mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất
qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán
chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuống dưới mức bình quân
cho các khoản đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng ringgit cũng
mất 50% giá trị, còn 3.8 đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7%
giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
 Nước Mỹ và Nhật Bản
Dịch cúm Châu Á cũng có ảnh hưởng đến nước Mỹ và Nhật Bản. Tại Mỹ nền kinh tế tuy không sụp
đổ nhưng cũng bị tác động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công nghiệp giảm 554 điểm, tương
đương 7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch trong thời gian ngắn. Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh
hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều nước Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng hoảng, đồng yen Nhật giảm còn 147:1 với USD
khi có những đợt bán ra ồ ạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc
khủng hoảng Châu Á cũng làm một số doanh nghiệp ở Nhật phá sản.
1.3. Bài học rút ra từ suy thoái kinh tế 1997
 Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
11
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính,
Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa thị trường vốn. Và trong số
những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất
những tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt nhất Do

thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng quá phụ thuộc vào
nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các
nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân
hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10%
GDP, trong khi tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP. Khi xảy ra khủng
hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, vì không hề có các
công cụ điều tiết.
 Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó không trang bị cho chúng
hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh
khi mở cửa nền kinh tế của các nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây dựng
hệ thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết. Hệ thống ngân hàng với sự
giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị
trường tín dụng ở nhiều nước châu Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan,
kéo theo việc đầu tư dư thừa vào một số ngành kinh tế. Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến
tình trạng lãng phí, với cuộc chạy đua sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví
dụ. Tệ hơn, việc “thừa tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động
sản, từ đó lại quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực
của tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả. Hệ
thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ lệ vốn lưu động không
phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), ở Philippines (17%),
Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
 Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ” vì nguyên nhân của sự
mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của họ.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do sự “tắc trách” của người châu Á gây ra.
12
Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức cân bằng hoặc thặng dư, và không hề có
lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về mô hình của hoạt động

trung gian tài chính quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập niên 90 đã làm gia tăng
sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế giới. Vì thế, các giám đốc tài chính buộc
phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn, thông qua các dự án đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự mở
rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ, việc thâm hụt ngân sách giảm xuống
trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn đến tốc độ lạm phạt giảm và do đó lãi suất giảm.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi suất ở châu Á cao hơn,
còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên Nhật có lợi
hơn là bằng đồng nội tệ. Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn
vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình thâm
hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền, tình hình càng trở nên xấu đi do sự
rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường tài chính châu Á chao đảo.
 Bài học thứ tư : Xây dựng và củng cố niềm tin từ công chúng .
Sự đổ vỡ của ngân hàng nhiều khi bắt nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá của dân chúng. Bài học
này liên quan đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát là bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Tổ chức
BHTG cần phát huy tốt vai trò của mình để tạo được niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài
chính ngân hàng và tham gia ngăn chặn, xử lý những rủi ro nhằm hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây
truyền. Công chúng tin tưởng hơn vào hệ thống tài chính, ngân hàng nếu họ nhận thức được rằng có
một tổ chức tài chính thay mặt Chính phủ giám sát thường xuyên tổ chức tín dụng mà họ gửi tiền
chứ không chỉ thực hiện việc chi trả tiền gửi cho họ khi tổ chức đó bị đổ vỡ. Điều quan trọng hơn,
niềm tin đó góp phần ổn định về chính trị, xã hội thậm chí kể cả trong trường hợp xảy ra khủng
hoảng.
2. Suy thoái kinh t ế thế giới cuối thập niên 2000 và bài học kinh nghiệm
Suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000 là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh
tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Nó có nguồn gốc từ suy thoái kinh tế
Hoa Kỳ cuối thập niên 2000 và khủng hoảng tài chính 2007-2010. Mức độ và quy mô của đợt suy
thoái này lớn đến mức nhiều người gọi nó Đại Suy thoái, thậm chí có người gọi nó là Đại Khủng
hoảng thứ hai sau cuộc Đại Khủng hoảng lần thứ nhất xảy ra vào thập niên 1930.
13

Tốc độ tăng trưởng GDP hàng quý của thế giới (đường màu lam), của khu vực các nước phát triển (đường màu đỏ) và khu vực
các nước đang phát triển (đường màu rêu) thời kỳ 2005-2009.
2.1. Nguyên nhân dẫn đến suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000
Đến nay, kinh tế thế giới còn diễn biến phức tạp, phải mất một khoảng thời gian nữa mới có thể
đánh giá đầy đủ và hệ thống về nguyên nhân của khủng hoảng tài chính, nhưng điều rõ ràng là suy
thoái kinh tế thế giới bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Theo các tài liệu của IMF, WB,
FED và tuyên bố của Chính phủ các nước, thì nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính ở
Mỹ là việc cho vay mua nhà ở dưới chuẩn có rủi ro cao, một cách tràn lan (khoản cho vay này cuối
năm 2004 chiếm 10%, cuối năm 2006 chiếm 20% * dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng), sự gia
tăng gấp bội về giá trị các công cụ phái sinh tài chính có nguồn gốc từ khoản vay bất động sản, dẫn
đến “bong bóng” giá nhà đất, rồi sụt giảm mạnh, người vay bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ,
gây nên khủng hoảng tài chính. Bong bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ dẫn tới khủng hoảng tín dụng
nhà ở thứ cấp rồi phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng đói tín
dụng ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực. Vỡ bong bóng nhà ở cũng dẫn tới suy giảm tiêu dùng cá
nhân ở Hoa Kỳ. Sự bất trắc trong đời sống kinh tế và kinh doanh càng làm cho tiêu dùng và sản
xuất bị hạn chế. Ba nhân tố này trực tiếp gây ra suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ từ năm 2008. Nhiều
nước trên thế giới có các tổ chức tài chính đã tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa
Kỳ. Khi các tổ chức tài chính này bị thua lỗ, tình trạng rối loạn tài chính, thậm chí là khủng hoảng
tài chính đã xảy ra ở nhiều nước khiến cho các nước này rơi vào suy thoái kinh tế hoặc suy giảm tốc
độ tăng trưởng. Do Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu quan trọng của
nhiều nước đang phát triển (nhất là khu vực Đông Á) nên suy thoái và suy giảm tăng trưởng kinh tế
từ thế giới phát triển đã làm giảm xuất khẩu của các nước đang phát triển. Đồng thời, vì các nước
phát triển là nguồn cung cấp các khoản vay ngân hàng, các khoản vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp
cho các nước đang phát triển, nên khi các nước phát triển dừng cho vay, dừng giải ngân hay rút vốn
14
về, nhiều nền kinh tế đang phát triển đã bị tác động tiêu cực nghiêm trọng. Giảm sản xuất trên quy
mô toàn cầu dẫn tới giảm lượng cầu về năng lượng và nguyên liệu, khiến cho các nước xuất khẩu
dầu và nguyên liệu bị giảm đáng kể nguồn thu từ xuất khẩu các yếu tố này. Vì thế, suy thoái và suy
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế lan sang cả các nước xuất khẩu dầu mỏ ở Trung Đông, Nam Mỹ,
Trung Á và Nga vốn được lợi suốt một thời gian khá dài từ giá dầu tăng.

Về nguyên nhân sâu xa gây ra suy thoái là sự tích tụ dần các mâu thuẫn và mất cân đối nội tại của
nền kinh tế Mỹ trong quá trình phát triển, cụ thể:
Nguyên nhân 1 - Chính sách nới lỏng tiền tệ 2001 – 2004. Để cứu nền kinh tế thoát khỏi suy thoái
kinh tế do bong bóng cũng như khủng bố 11-9-2001, FED đã hạ lãi suất cơ sở (federal funds target)
từ 6,5% năm 2001 xuống mức 1% năm 2003. Sau 1 năm duy trì mức lãi suất 1%, FED tăng dần và
trở lại mức 5,25% vào tháng 6 năm 2006. Điều này đã dẫn cung tiền cơ sở tăng ở mức 5% đến 10%
trong suốt giai đoạn 2001-2004 (Murphy, 2008). Tương tự như giai đoạn thập kỷ 1920, việc duy trì
mức lãi suất thấp không dẫn đến tăng CPI. Tuy nhiên, nó lại là nguyên nhân chính dẫn đến đầu tư
sai lệch trong cơ cấu sản xuất. Các nhà đầu tư cũng bắt đầu đổ tiền bạc vào các thị trường tài sản
cũng như chứng khoán và bất động sản, khiến cho các thị trường này tăng trưởng nóng. Người tiêu
dùng cũng tăng vay tín dụng để mua nhà, ô tô và các vật dụng xa xỉ khác. Nền kinh tế bị định
hướng đầu tư sai lệch, tạo ra cấu trúc ngày càng méo mó. Biểu hiện dễ thấy nhất của tình trạng này
là tiền vay để mua bất động sản tại Mỹ đã tăng gần 3 lần trong giai đoạn 2000-2007 (Thornton,
2008).
Nguyên nhân 2 – Sự hình thành các định chế tài chính do nhà nước bảo trợ. Hệ thống tài chính của
Mỹ bao gồm hai định chế tín dụng – thế chấp bất động sản khổng lồ được nhà nước bảo trợ là
Fannie Mae (Federal National Mortgage Association) và Freddie Mac (The Federal Home Loan
Mortgage Corporation). Hai tổ chức này có nhiệm vụ mua lại các khoản thể chấp từ các tổ chức tài
chính khác cũng như trực tiếp tham gia vào hoạt động cho vay thế chấp để duy trì dòng tín dụng lãi
suất thấp, cho phép những gia đình có thu nhập thấp có thể mua nhà. Để thực hiện nhiệm vụ này,
Freddie và Fannie được phép nhận tín dụng trực tiếp từ Cục ngân khố Mỹ, được miễn thuế thu
nhập, và nằm ngoài sự giám sát của Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC). Nhờ những ưu đãi này, Fannie
Mae và Freddie Mac đã mở rộng hoạt động cho vay dưới chuẩn, tạo ra bong bóng bất động
sản. Hơn nữa, với việc hai tổ chức này được phép chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp
đó để bán ra ngoài cho các tổ chức tài chính khác, rủi ro bong bóng bất động sản đã lan tỏa
sang toàn bộ hệ thống tài chính của Mỹ (Shostak, 2008).
15
Nguyên nhân 3 – chính sách đồng nhân dân tệ yếu của Trung Quốc. Bằng chính sách duy trì đồng
nhân dân tệ yếu (chính sách tiền tệ nới lỏng và tỷ giá cố định) (xem Shostak, 2006), Trung Quốc đã
thành công trong việc khuyến khích xuất khẩu cũng như hạn chế nhập khẩu. Kết quả là quĩ dự trữ

ngoại tệ của Trung Quốc lên tới hơn 2 nghìn tỷ USD. Để bảo vệ quĩ dự trữ này, Trung Quốc đã đầu
tư ngược trở lại Mỹ bằng cách mua trái phiếu của chính phủ Mỹ. Đây cũng là một nguyên nhân
gián tiếp khiến cho mức các lãi suất của Mỹ thấp trong giai đoạn 2000-2005.
Trên đây là 3 nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế Mỹ, sự mất cân đối
thương mại toàn cầu, và đỉnh điểm của quá trình này là bong bóng bất động sản bắt đầu vỡ vào cuối
năm 2007. Những dấu hiệu cho một đợt suy thoái để hiệu chỉnh các sai lầm trong quá khứ đã hiện
diện. Tuy nhiên, một loạt các chính sách can thiệp sai lầm sau đó đã khiến cho một cuộc suy thoái
bình thường trong chu kỳ kinh doanh trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế sâu rộng chưa nhìn thấy
điểm dừng.
2.2. Đánh giá các giải pháp được chính phủ Mỹ áp dụng gần đây
Từ cuối năm 2007, chính phủ Mỹ đã thực hiện một loạt các chính sách nhằm ngăn cản suy thoái,
duy trì tính thanh khoản cho nền kinh tế, và cuối cùng là ngăn chặn giảm phát. Theo các
nhà kinh tế trường phái Áo, vì các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã không nhận thức được
rằng suy thoái là một quá trình tất yếu sau giai đoạn tăng trưởng nóng, rằng mất khả năng chi trả
của một bộ phân doanh nghiệp không đồng nghĩa với mất tính thanh khoản của hệ thống tiền tệ, và
rằng sự giảm giá hàng hóa khác với giảm phát, nên họ đã đưa ra một loạt chính sách sai lầm, khiến
cho tình hình kinh tế từ chỗ là một cuộc suy thoái không thể tránh khỏi sau thời kỳ tăng trưởng
nóng trở thành một cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính toàn cầu. Dưới đây là 3 nhóm giải pháp
can thiệp chính của chính phủ Mỹ.
Giải pháp 1 – Các nghiệp vụ hoán đổi tài sản – TAF (Term Auction Facility) và TSLF (Term
Securities Lending Facility): Vào cuối năm 2007 và đầu 2008, cuộc khủng hoảng cho vay bất động
sản dưới chuẩn đã khiến cho nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức đầu tư tài chính lớn
rơi vào tình trạng không còn khả năng chi trả, có thể rơi vào tình trạng phá sản. Vì các tổ chức đầu
tư tài chính không được phép tiếp cận FED thông qua thị trường mở và vì các tổ chức tài chính đã
cạn kiệt trái phiếu chính phủ (T-bonds), nên FED đã đưa ra hai công cụ điều hành tiền tệ hoàn toàn
mới là TAF và TSLF để đối phó với tình trạng này.
Về bản chất, hai công cụ này cho phép các NHTM và một số tổ chức tài chính lớn được phép dùng
các loại trái phiếu thương mại để vay tiền mặt hoặc tráo đổi (swap) lấy trái phiếu chính phủ từ FED.
16
FED hy vọng rằng hai công cụ này có thể giải quyết được vấn đề thanh khoản, đồng thời vẫn duy trì

được các nghiệp vụ truyền thống của mình (như thiết lập các mức lãi suất cơ sở và lãi suất chiết
khấu, và các nghiệp vụ thị trường mở). Nghiệp vụ hoán đổi tài sản này tuy không làm thay đổi tổng
tài sản của FED nhưng đã làm giảm chất lượng tài sản của FED, tức đồng USD
Giải pháp 2 – Gói kích cầu trị giá 168 tỷ USD. Vào tháng 3/2008, chính quyền Bush đưa ra một gói
kích cầu trị giá 168 tỷ USD nhằm giảm thuế cho tất cả những người đóng thuế ở Mỹ cũng như cho
các doanh nghiệp đầu tư mới. Gói kích cầu này, như ta đã thấy, không những không ngăn
chặn được suy thoái do chu kỳ kinh doanh, mà lại còn khiến cho các nhà đầu tư tiếp tục lao vào đầu
cơ các loại nguyên liệu thô vì hy vọng rằng nền kinh tế sẽ hồi phục. Hệ quả là giá các loại nguyên
liệu thô đã bị đấy lên cao chưa từng có, đẩy hệ thống sản xuất toàn cầu vào tình trạng mất cân đối
nghiêm trọng.
Giải pháp 3 – Chính sách giải cứu các tổ chức tài chính sắp phá sản. Chính sách này được chính
phủ Mỹ thực hiện từ tháng 3-20086. Những gói giải cứu này tất nhiên đã giúp cho những tổ chức
được nhận tiền cứu trợ không bị phá sản. Tuy nhiên, hậu quả mà nó gây ra không chỉ đơn thuần là
làm tăng gánh nặng cho những người đóng thuế cũng như ngăn cản những doanh nghiệp tốt còn lại
phát triển. Điều nguy hiểm nhất của những chương trình cứu trợ này là chúng tạo ra sự bất định
chính quyền (regime uncertainty), tương tự như New Deal của chính quyền Roosevelt tạo ra trong
thời kỳ 1933-19387. Với việc FED cho các định chế tài chính như AIG, Citigroup vay trực tiếp
cũng như mua lại các khoản nợ xấu của Fannie Mae, Freddie Mae, và các ngân hàng cho vay cầm
cố khác, FED đã không chỉ dừng ở việc hoán đổi tài sản tốt lấy tài sản xấu mà còn trực tiếp bơm ra
ngoài thị trường hàng ngàn tỷ USD để đối lấy những tài sản ngày càng xấu hơn.
3.3. Bài học rút ra từ suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000
Với độ mở khá lớn, kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh bởi khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, ngoài ảnh hưởng tiêu cực đó thì đây là cơ hội để Việt Nam có thể rút ra
những bài học và tận dụng thời cơ để phát triển kinh tế bền vững.
Một số ý kiến cho rằng khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua là một sự đổ vỡ của kinh tế thị
trường hay bàn tay vô hình nên cổ vũ cho sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước vào các hoạt động
kinh tế. Còn quá sớm để đưa ra một kết luận như vậy. Thay vào đó, Việt Nam có thể rút ra những
bài học từ việc điều hành nền kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng các quy luật của thị trường; đồng
thời phải tập trung giám sát thị trường bằng những công cụ hữu hiệu hơn. Đây cũng là cơ hội để
nhìn lại sự phát triển của kinh tế Việt Nam để từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi đưa kinh tế

17
phát triển một cách bền vững. Hiện tại, những điểm yếu trong tăng trưởng và sự thiếu bền vững
của nền kinh tế đã bộc lộ một cách khá rõ nét và có lẽ sớm hơn mong đợi của những người làm
chính sách. Điều này thể hiện qua 3 yếu tố cơ bản là cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và thể chế.
Trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào dòng vốn đầu tư và dịch chuyển lao
động từ nông nghiệp sang công nghiệp, trong khi tiến bộ công nghệ đóng góp khá nhỏ. Tỷ lệ tiết
kiệm hàng năm chỉ khoảng 28-30% GDP, trong khi đó tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế lên đến hơn
40% GDP. Chênh lệch còn lại được tài trợ từ nguồn vốn vay nước ngoài hoặc vốn đầu tư nước
ngoài. Với cơ cấu này, kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương từ các tác động từ bên ngoài.
Một yếu tố đáng chú ý khác là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã lên tới trên 150%
GDP. Điều này cho thấy kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào kinh tế thế giới. Không
nhưng vậy, thâm hụt thương mại luôn ở mức rất cao. Tính trung bình trong 5 năm gần đây, thâm
hụt thương mại chiếm tới hơn 20% kim ngạch xuất khẩu và hơn 10% GDP. Trong đó, những mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mặt hàng gia công, khoáng sản và nông sản sơ chế.
Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Do vậy, tăng trưởng về xuất
khẩu gần như được khai thác hết giới hạn. Trong khi đó, nền sản xuất phải nhập khẩu hầu hết máy
móc và nguyên liệu phục vụ cho gia công xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Nhu cầu nhập khẩu
cho đầu tư, tiêu thụ lại đang ngày càng gia tăng.
IV. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP Ở VIỆT NAM:
1. Thực trạng và yếu kém của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây
1. 1.Tỷ lệ đầu tư vẫn cao nhưng tăng trưởng kinh tế đã suy giảm:
18
− Tăng trưởng kinh tế giảm mạnh. Theo Tổng cục Thống kê, Tổng giá trị GDP trong quý 1 tính
theo giá thực tế đạt 441.70 nghìn tỷ đồng, theo giá năm 1994 đạt 109.31 nghìn tỷ đồng. Tăng trưởng
kinh tế trong quý 1/2010 đạt 5.43%, trong đó tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng đạt
5.47%, nông nghiệp đạt 2.05 % và dịch vụ đạt 6.28%. Trước đó, trong năm 2010 tăng trưởng GDP
quý 4 đạt 7.34%, quý 3 đã đạt 7.18%, còn quý 1 và quý 2 lần lượt đạt 6.4% và 5.83%. Như vậy, quý
1/2011 là giai đoạn có tăng trưởng GDP thấp nhất kể từ quý 3/2009 đến nay.
− Tăng trưởng kinh tế quý 1 khá thấp ngoài tính chu kỳ còn do tác động của bất ổn vĩ mô. Lãi suất
và lạm phát cao buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu làm

giảm tổng cầu trong nền kinh tế. Mặc dù tăng trưởng kinh tế suy giảm mạnh nhưng sản xuất công
nghiệp trong quý 1 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng 14.4%, cao hơn mức 14% trong năm 2010.
Trong đó, tăng trưởng sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế nhà nước chỉ tăng 3.6%, ngoài nhà
nước tăng 17.4% và khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 16.8%.
19
− Tỷ lệ đầu tư vẫn cao và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện. Cũng theo Tổng cục Thống
kê, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội quý 1/2011 vào khoảng 171.5 nghìn tỷ đồng, tăng 14.7% so cùng
kỳ và bằng 38.8% của GDP. Trong đó, khu vực nhà nước đầu tư 76.4 nghìn tỷ đồng, chiếm 44.5%
và tăng 15.2%; khu vực ngoài nhà nước 45.6 nghìn tỷ đồng và chiếm 26.6%, tăng 28.5%; khu vực
vốn đầu tư nước ngoài 49.5 nhìn tỷ đồng chiếm 28.9% và tăng 3.8% so với cùng kỳ. Số liệu trên
cho thấy đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao trong nền kinh tế. Trong khi đó,
hiệu quả đầu tư vẫn ở mức rất thấp thể hiện qua hệ số ICOR quý 1 đang ở mức 7.15 lần, cao hơn
con số 6.2 lần của cả năm 2010. Chất lượng đầu tư thấp cho thấy tính bền vững trong tăng trưởng
của nền kinh tế đang gặp thách thức nghiêm trọng.
− Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận là nếu tốc độ tăng trưởng giảm để nâng cao chất lượng đầu tư,
ổn định kinh tế vĩ mô thì đây là một tín hiệu tích cực hơn việc tăng trưởng bằng mọi giá. Dự định
cho thấy GDP năm 2011 của Việt Nam chỉ tăng trưởng vào khoảng 6.4%.
1. 2. Lạm phát gia tăng gây áp lực cho bất ổn trong nền kinh tế:
− CPI tháng 3/2011 tăng 2.17% so với tháng 2, và như vậy đã tăng 6.12% so đầu năm và tăng
13.89% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 3 có mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2008 đến nay.
Trước đó, CPI tháng 12/2010 tăng 1.98%, tháng 1/2011 tăng 1.74% và tháng 2 tăng 2.09%.
− Xét theo các mặt hàng cụ thể, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1.98%, lương thực
tăng 2.18%, thực phẩm tăng 1.57% so với tháng trước. Mức tăng cao nhất thuộc về nhóm giao
thông với mức tăng 6.69% do chịu tác động mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu. Tiếp ngay sau
mức tăng mạnh trên thì CPI nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng thêm tới 3.67% do chịu ảnh
hưởng của tăng giá chất đốt, thép xây dựng, xi măng và nhiều loại vật liệu xây dựng khác. Ngoài ra,
CPI của hầu hết các nhóm hàng hóa khác cũng tăng khá mạnh.Thông thường CPI tháng 3 giảm là
do tháng 2 thường trùng với dịp Tết âm lịch, nhu cầu tiêu dùng tăng đẩy giá hàng hóa tăng, nhưng
20
đến tháng 3 tiêu dùng giảm làm cho giá cũng giảm theo.

− Khác với những năm trước, giá hàng hóa tháng 3 năm nay chịu tác động của việc điều chỉnh tỷ
giá, giá xăng và giá điện đã làm cho nhiều mặt hàng bị kìm nén giá trước đó đồng loạt bung ra.
Ngoài ra, cũng không ít mặt hàng tăng giá do ”tát nước theo mưa”. Ngoài các nguyên nhân có tính
ngắn hạn và có phần khách quan kể trên thì nguyên nhân cơ bản làm cho lạm phát tăng mạnh vẫn
do các yếu kém trong nội tại nền kinh tế. Có thể dẫn chứng các yếu tố như hiệu quả đầu tư thấp khi
hệ số ICOR liên tục ở mức 6-8 lần trong mấy năm gần đây, và tăng trưởng tín dụng và cung tiền lại
quá cao.
− Tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt trung bình khoảng 7% nhưng tăng trưởng tín dụng luôn duy
trì quanh mức 30%, tăng trưởng cung tiền cũng ở mức tương ứng. Do vậy, lạm phát do cung tiền
như là một hệ quả tất yếu của việc mất cân đối giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng sản phẩm,
dịch vụ sản xuất ra. Dự báo CPI trong tháng 4 có thể tăng khoảng 1.2-1.5% và năm 2011 có thể
tăng 12-13%.
1. 3.Áp lực tỷ giá vẫn lớn dù Việt Nam dù dòng ngoại tệ vào vẫn dương:
− NHNN buộc phải giảm giá tiền đồng. Kể từ năm 2008 đến nay, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng
của nền kinh tế. Chỉ trong vòng chưa đến 2 năm tiền đồng đã mất giá hơn 20% so với đồng USD.
Còn nếu tính từ ngày 18/8/2010 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải 2 lần điều chỉnh tỷ
giá liên ngân hàng với tổng cộng tăng 11.58%.
21
− Đặc biệt đợt điều chỉnh ngày 11/02/2011, tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 18,932 lên 20,693
VND/USD, tăng 9.3%, đây là mức điều chỉnh 1 lần cao nhất kể từ năm 1994 đến nay. Cùng với
quyết định này, NHNN quyết định giảm biên độ giao động từ +/-3% xuống còn +/-1%, cho nên thực
chất tỷ giá niêm yết chỉ tăng thêm 7.2%. Tuy nhiên, thực tế sau thời gian điều chỉnh tỷ giá, tình
trạng chênh lệch tỷ giá trên thị trường tự do và thị trường chính thức vẫn giãn ra. Mức đỉnh điểm tỷ
giá trên thị trường tự do có thời điểm lên tới 22,500 VND/USD, cao hơn tỷ giá chính thức tới 1,500
đồng so với tỷ giá chính thức, vào giữa cuối tháng 2.
− Trước thực trạng đó, Chính phủ buộc phải thực hiện các biện pháp nhằm giữ ổn định tỷ giá.
Trong đó Chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng và ”siết” lại
các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do. Ngoài ra, NHNN còn nâng lãi suất tái chiết
khấu lên 12% và trong tháng 2 và tháng 3 năm 2010 đã hút ròng gần 80 nghìn tỷ đồng qua thị
trường mở. Những biện pháp này đã phát huy hiệu quả khi tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống

chỉ còn quanh mức 21,300 VND/USD. Một số nguyên nhân sâu xa của việc đồng nội tệ suy giảm.
Tỷ giá trên thị trường phản ánh cung cầu ngoại tệ và sức mua của đồng tiền trong một nền kinh tế.
Do vậy, những yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ như thâm hụt cán cân thanh toán, lòng tin
đồng nội tệ suy giảm, tình trạng đô la hóa tăng mạnh hoặc lạm phát quá cao đều ảnh hưởng đến tỷ
giá.
− Tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn: Bản chất một nền kinh tế nhập siêu khiến cho cán cân tài
khoản vãng lai (current account) của Việt Nam liên tục bị thâm hụt khoảng 10 - 12% GDP trong
những năm gần đây. Khoản thâm hụt này được bù đắp bởi cán cân tài khoản vốn gồm vốn đầu tư
trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI), vốn vay (ODA, vay thương mại của Chính phủ và doanh
nghiệp), các dòng kiều hối. Những con số thống kê chính thức đều cho thấy dòng vốn ròng vào Việt
22
Nam đang thặng dư, tức là dòng ngoại tệ vào vẫn lớn hơn dòng ngoại tệ ra. Tuy nhiên, có một thực
tế thì đồng tiền lại liên tục mất giá, dự trữ ngoại hối của NHNN suy giảm. Cụ thể, theo số liệu của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào cuối năm 2008 là 24.2 tỷ USD.
Cuối tháng 2/ 2011, theo số liệu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì dự trữ ngoại hối của Việt
Nam chỉ còn khoảng 10 tỷ USD. Theo ước tính của IMF, cán cân tổng thể năm 2009 của Việt Nam
thâm hụt 8.2 tỷ USD và năm 2010 là 3 tỷ USD. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là khoản mục Sai số bỏ
sót trong bảng Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam năm 2009 và 2010 đều lên đến 13.5 tỷ
USD. Điều này cho thấy một lượng ngoại tệ rất lớn trong nền kinh tế không thể thống kê được.
− Lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng: Đây là nguyên
nhân giải thích phần nào cho hiện tượng nghịch lý nói trên. Việc tiền đồng liên tục bị mất giá đã
kích hoạt nhu cầu nắm giữ USD của người dân và doanh nghiệp. Việc người dân tăng cường nắm
giữ USD khiến cho tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng và cầu USD tăng, dẫn tới tiền đồng
luôn chịu áp lực bị mất giá. Tình trạng đô la hóa còn được thể hiện qua việc rất nhiều giao dịch
trong nền kinh tế được sử dụng bằng ngoại tệ này. Năm 2010, VND mất giá hơn 10% so với đồng
USD, con số này cũng tương ứng với khoảng cách lạm phát của Việt Nam và Hoa Kỳ khoảng 10%.
1.4. Áp lực về lãi suất:
Đầu năm 2011 tỉ giá và lãi suất cho vay ở các ngân hàng đã bị đẩy lên đến con số 20%/năm, gây sốc
cho thị trường tài chính và các nhà sản xuất kinh doanh. Lãi suất cao như hiện nay có nhiều nguyên
nhân:

− Trước tình hình lạm phát cao, các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất để huy động được
vốn.
− Việc giám sát và xử lý các vi phạm của các ngân hàng thương mại còn nhẹ tay, cho nên các
ngân hàng đua nhau cạnh tranh nâng lãi suất đầu vào, và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ
chức tín dụng.
− Tính tự chủ của Ngân hàng Trung ương còn ở mức thấp, hạn chế trong việc sử dụng nguồn tiền
để can thiệp mạnh trên thị trường tiền tệ.
− Mặt bằng lãi suất cao sẽ gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế, dẫn đến những rủi ro cao.
Doanh nghiệp vay vốn với lãi suất cao khả năng sinh lời sẽ thấp, dễ dẫn đến kinh doanh thua lỗ,
hoặc phá sản, không có khả năng trả nợ. Ngoài ra, lãi suất càng cao rủi ro cho nền kinh tế sẽ càng
lớn, kìm hãm những hoạt động đầu tư sinh lời, các dự án cũng sẽ chậm được triển khai. Bên cạnh
đó, nó còn có thể dẫn đến hiện tượng các nhà sản xuất kinh doanh nản lòng trong đầu tư, và mang
23
tiền gửi lại cho ngân hàng. Vì vậy, nếu để lãi suất tiếp tục tăng thì đó là dấu hiệu bất thường của nền
kinh tế
1.5. Giảm tăng trưởng tín dụng để kiềm chế lạm phát:
− Tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức rất cao. Quý 1/2011, ước tính tăng trưởng tín dụng đạt khoảng
5% so với cuối năm trước, đây là mức cao hơn khá nhiều so với mức 3.34% của quý 1/2011. Với
mức tăng trưởng này, tăng trưởng tín dụng đến tháng 3 vẫn duy trì ở mức 32% (YoY) so với cùng
kỳ năm trước. Năm 2009, tín dụng tăng mạnh cùng với gói hỗ trợ 4% lãi suất và chính sách tiền tệ
nới lỏng của NHNN. Kết thúc năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng tới 37% và đã gây áp lực
mạnh lên lạm phát trong năm 2010. Tín dụng năm 2010 tăng 29.89%, trong đó tín dụng bằng ngoại
tệ tăng 37.7%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 25.3%. Tăng cung tiền M2 lên tới 25.5%, vượt mục tiêu đặt
ra đầu năm. Như vậy, tăng trưởng tín dụng trong quý 1 vẫn khá cao, bất chấp lãi suất trong nền kinh
tế cao. Điều này càng thể hiện tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào vốn đầu
tư.Với mức tăng trưởng tín dụng cao đó thì áp lực lạm phát trong thời tới vẫn còn lớn. Mục tiêu giữ
mức tăng trưởng tín dụng của NHNN trong năm 2011 dưới 20% không phải dễ dàng thực hiện.
Trong trường hợp Chính phủ muốn thực hiện mục tiêu nay để kiềm chế lạm thì phải chấp nhận lãi
suất luôn ở mức cao trong năm 2011. Không những vậy, Chính phủ phải giảm việc phát hành trái
phiếu, giảm đầu tư công để giảm áp lực về cầu vốn cho thị trường tiền tệ. Thăt chặt chính sách tiền

tệ là cần thiết để kiềm chế lạm phát. Bước sang năm 2011 lãi suất tiếp tục lên ở mức rất cao, lãi suất
cho vay tiêu dùng đã lên tới 25-30%, còn lãi suất cho vay sản xuất cũng quanh mức 20%.
24
− Mặc dù lãi suất cao như vậy nhưng dưới sức ép của lạm phát cao NHNN vẫn buộc phải tiếp tục
thắt chặt chính sách tiền tệ. NHNN đã hạ mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ mức 23% xuống còn
dưới 20%, tăng trưởng cung tiền cũng được điều chỉnh giảm 15-16%. Để thực hiện mục tiêu trên
ngày 08/03/2011, NHNH ban hành quyết định tăng lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn và lãi suất cho
vay qua đêm lên 12%. Mức lãi suất tái chiết khấu chỉ còn kém 1% so với mức đỉnh 13% của thời kỳ
”siêu lạm phát” năm 2009. Ngoài ra, NHNN vừa ban hành Thông tư 02 trong đó luật hóa trần huy
động lãi suất 14%. Điều này đã gây khó khăn cho rất nhiều ngân hàng nhỏ khi huy động vốn trên
thị trường. Thực tế thể hiện qua việc các ngân hàng lại ”chạy đua” tăng lãi suất không kỳ hạn và lãi
suất ngắn hạn 1-2 tuần lên gần bằng mức trần. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng lên cơn
sốt. Lãi suất qua đêm cao hơn các kỳ hạn dài hơn và có những giao dịch lãi suất đã vượt mức 20%.
− Bất chấp lãi suất cao và căng thẳng trên thị trường tiền tệ NHNN đang cân nhắc quyết định tăng
dự trữ bắt buộc. Hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng nội tệ chỉ là 1 và 3%, với mức kỳ hạn là
trên và dưới 12 tháng, đây là mức rất thấp so với khoảng thời gian trước đó. Đối với ngoại tệ, ngày
09/03/2011, NHNN vừa quyết định nâng dự trữ bắt kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn
trên 12 tháng từ 2% lên 4%.
− Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là với quy định Thông tư 13, các tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng
không quá 80% số vốn huy động thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực tế cao hơn rất nhiều so với con số
chính thức trên. Do vậy, nếu NHNN tiếp tục tăng dự trữ bắt buộc mà vẫn giữ nguyên quy định tại
Thông tư 13 thì hệ thống ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
1.6. Thương mại phục hồi mạnh mẽ nhưng cơ cấu xuất khẩu chưa được cải thiện:
25

×