Bộ GIÁO
nục VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHÓA
LUẬN
TÓT
NGHIỆP
Bè tài :
QUY
ĐỊNH
CỦA
Tổ CHÚ
C
THƯƠNG MẠI
THẾ
GIỚI
VE
THƯƠNG MẠI
DỊCH
vụ
VÀ
KHA
NĂNG
THÍCH
ỨNG
CỦA
VIỆT
NAM
Giáo
viên
hưởng
dãn
:
TS.
PHẠM DUY
LIÊN
Họ tên sinh viên : Huỳnh Thị Diễm Phương
Lớp : ETNT K19
Đà Nung, 2004
BỘ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHÓA LUÂN
TỐT NGHIỆP
QUY ĐỊNH CỦA Tổ
CHÚC THƯƠNG
MẠI THẾ
GIÓI
VỀ
THƯƠNG
MẠI DỊCH vụ VÀ KHẢ
NĂNG
THÍCH
ÚNG CUA
VIỆT
NAM
Giáo
viên
hướng
dẫn:
TS.
PHẠM
DUY
LIÊN
Họ
tên sinh viên
: Huỳnh
Thị
Diễm
Phương
Lớp
: KTNT KI9
Đà Nâng,
2004
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diễm Phương
MỤC LỤC
Trang
LỜI
NÓI
ĐẦU Ì
CHƯƠNG
Ị:
THƯƠNG
MẠI DỊCH vụ VÀ
NHŨNG
QUI ĐỊNH CỦA WTO
VỀ
THƯƠNG
MẠI
DỊCH
VỤ
5
ì. Khái
niệm
và đặc
điểm
của
thương
mại
dịch
vụ
5
1. Một số
khái niệm:
5
2. Đặc
điểm
củath
ương
mại
dịch
vụ
ỉ
0
li.
Những quy
định
của
GATS
về
thương
mại
dịch
vụ
13
Ì. Các
nguyên
tắc
chung:
15
2. Phạm
vi
điêu chỉnh
của
GATS:
27
3. Các cam
kết vế
thương
mại
dịch
vụ:
29
IU.
Kinh
nghiệm
của
một sô
nước
về
đàm
phán
gia
nhập
GATS 30
Ì.
Kinh nghiệm
của
Trung
Quốc
31
2.
Kinh nghiệm
của
những nước đang chuyển
đải mới gia
nhập
GATS
gần
đáy
33
CHUỒNG
lĩ:
HIỆP
ĐỊNH GATS
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI
DỊCH VỤ ở
VIỆT
NAM 36
ì. Tình hình phát
triển
thương mại
dịch
vụ
ở
việt
nam
trong
thòi
gian
qua
36
ỉ. Dịch
vụ
phất triển
gắn
liền
với
công cuộc
đải
mới
đất
nước
36
2.
Tình hình phát triển
một
số
ngành dịch
vụ:
37
li.
Hệ
thng
pháp
luật
ở
Việt
Nam
về
thương mại
dịch
vụ
44
ỉ. Những
quy
định chung
về
thươn
q mại
dịch
vụ
à
Việt
Nam 44
ĩ. Những
quy
định
cơ
bản của
pháp luật Việt
Nam
về một
số
ngành dịch
vụ:
47
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diễm Phương
HI.
Hiệp
định
GATS
:
cơ
hội
và thách
thức đối
vói
việc
phát
triển
thương
mại dịch
vụ ở
Việt
Nam 70
1.
Cơ
hội
71
2. :
Thách
thức
, 72
CHƯƠNG
HI:
CÁC
BIỆN
PHÁP
NHẰM
ĐAY
MẠNH
TIẾN
TRÌNH
THAM
GIA PHÁT
TRIỂN
THƯƠNG MẠI
DỊCH vụ ở
VIỆT
NAM
TRONG
THÒI GIAN
TỚI
75
ì.
Quan
điếm
của
ĐẢng
về
việc
phát
triển
thương mại
dịch
vụ
75
li.
Các
giẢi
pháp nhàm phát
triển
thương mại
dịch
vụ
theo
các
quy
định
của
GATS
trong
thòi
gian
tói
77
KẾT
LUẬN
93
PHỤ LỤC
95
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 97
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện
nay, dịch
vụ ngày càng đóng
vai
trò
quan
trọng trong
nền
kinh
tế
thế
giới
cũng
như của mỗi
quốc
gia.
Thương mại
dịch
vụ tăng
nhanh,
vượt
tốc
độ tăng của thương mại hàng hóa,
khiến
tỷ
trọng
thương mại
dịch
vụ
trong
thương mại
quốc
tế
không
ngừng
tăng lên. Chính vì
vậy, cộng
đồng
quốc
tế
không
chỉ quan
tâm đến
việc nới lững
và
tiến tới
dỡ bữ các hàng rào
thương mại
đối với
hàng hóa mà cả
đối với dịch vụ.
Hiệp
định
chung
về
thương mại
dịch
vụ
(GATS),
một
trong
những
hiệp
định cơ bản
thuộc
hệ
thống
các
hiệp
định cấu thành WTO, quy định
những
nguyên
tắc
điều
chính
thương mại
dịch
vụ
quốc
tế,
nội dung
mở cửa
thị
trường
dịch vụ,
các cam
kết
mà thành viên
phải
thực
hiện.
Mục tiêu của WTO là nhằm
tạo
ra
một
thị
truồng
dịch
vụ
cạnh
tranh,
thống
nhất
trên phạm
vi thế
giới.
Vì
vậy,
mở cửa
thị
trường
dịch
vụ sẽ là một
trong
những nội dung
chủ yếu của các vòng
đàm phán
tới
của WTO.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền
kinh
tế
nước
ta
đã
đạt
được
nhiều
thành
tựu.
Cơ cấu
kinh
tế
đã
từng
bước
chuyển
dịch
theo
hướng
hợp
lý,
tích
cực,
tăng dần
tỷ
trọng
công
nghiệp
và
dịch vụ.
Nghị
quyết
Đại hội
Đảng
toàn
quốc
lần thứ
VUI
chỉ rõ:
-
Phát
triển
nhanh du
lịch,
các dịch vụ hàng không, hàng
hải,
bưu
chính-Viễn
thông,
thương
mại,
vận
tải, tài
chính,
ngân hàng, kiểm
toán,
bảo
hiếm,
công nqhệ,
pháp
lý,
thông
tin
và các
dịch
vụ phục vụ cuộc sống nhân
chín.
Từng bước
đưa nước
ta trở
thành
một
trung
tâm du
lịch,
thương
mại-dịch
vụ có tẩm cỡ
trong
khu vực".
Trong
tiến
trình hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế khu vực, nước ta đã
từng
bước
thực
hiện
cam
kết
về họp tác
dịch
vụ
trong
khuôn khổ
khối
ASEAN.
Năm
1995,
Việt
Nam chính
thức
nộp đơn
xin gia
nhập
WTO và
hiện
đang
tích cực đàm phán
gia
nhập
tổ
chức
toàn cẩu này. Năm
1998,
Việt
Nam
trở
thành thành viên của
Diễn
đàn hợp tác
kinh
tế
châu Á Thái Bình Dương
(APEC).
Tháng
7/2000,
Việt
Nam và Hoa Kỳ đã ký
kết
Hiệp
định thương
Ì
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diễm Phương
mại
Việt-Mỹ,
trong
đó có
nội
dung
mở
cửa
thị truồng
dịch
vụ về cơ bản phù
hợp với
nguyên
tắc,
luật
lệ
của WTO. Do dó,
với
việc
ký
kết
Hiệp
định
thương mại
Việt-Mỹ,
chúng
ta
đã
chấp nhận
"luật
chơi"
của WTO.
Tuy nhiên, các ngành dịch vụ nước ta xét tỏng thể vẫn ở trình độ phát
triển
thấp,
thương mại
dịch
vụ chủ yếu
là
quy mó
nhỏ, nhiều tiềm
nâng
dịch
vụ
chưa được
khai
thác
hiệu
quả.
Bên
cạnh
đó,
hiệu
quả
quản
lý nhà nước
đối
với dịch
vụ và thương mại
dịch
vụ chưa
cao,
hệ
thống
pháp
luật
về
thương mại
dịch
vụ chưa
thực
sự đồng
bộ,
chưa đầy
đủ,
nhiều
quy định
hiện
hành còn
bất
cập vói nguyên
tắc
của WTO. Hơn
nữa,
khu vực
dịch
vụ có
những
đặc thù riêng
bởi
tính
chất
1
nhạy
cảm
với
vấn đề chủ
quyền,
an
ninh
quốc gia
và bẳn sắc văn hóa dân
tộc;
tính
chất
đa
dạng
của các
loại
hình
dịch vụ.
Chính vì
vậy, hội nhập
kinh tế
quốc
tế trong lĩnh
vực
dịch
vụ nói
chung,
gia nhập
GATS
nói riêng một mặt
tạo
cho nước
ta
cơ
hội
để phát
triển,
nhưng mặt khác
cũng
đặt ra nhiều
thách
thức,
khó
khăn,
mà một
trong
những
thách
thức lớn
là
phải
thích ứng chính
sách,
pháp
luật
về thương mại
dịch
vụ
với
quy định của
GATS.
Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn vấn đề "Quy định của Tổ chức
thương mại
thế
giới
về
thương
mại
dịch
vụ và khả năng
thích
ứng của
Việt
Nam" làm đề tài cho khóa
luận
tốt
nghiệp
của mình. Trên cơ sở phân
tích các quy định của WTO về thuơng mại
dịch
vụ,
xem xét
thực trạng
pháp
luật
về thương mại
dịch
vụ ở
Việt
Nam
hiện
nay,
khóa
luận xin
để
xuất
một
số
giải
pháp mà
Việt
Nam cần
thực hiện
để thích ứng
với
quy định của
WTO về thương mại
dịch
vụ.
Đối
tượng
nghiên cứu của khóa
luận
là
những
quy định của pháp
luật
Việt
Nam về thương mại
dịch.
Tuy
nhiên,
các
loại
hình
dịch
vụ
rất
đa
dạng
và
phong
phú, nên
khoa
luận
chỉ
tập
trung
nghiên cứu
những
quy định cơ
bản
của pháp
luật
Việt
Nam về một số
dịch
vụ.
: Để thực hiện khóa luận, em chủ yếu sử dụng phương pháp vãn phòng.
2
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
Đồng
thời,
khóa
luận
kế
thừa
có
chọn
lọc kết
quả nghiên cứu của các
thầy,
cô
giáo,
các học
giả trong
và ngoài nước liên
quan
tới
dịch
vụ,
thương mại
dịch
vụ.
Do hạn chế về khả năng và
thời
lượng
nén khóa
luận
chắc
chắn
không
tránh
khỏi
nhỉng
khiếm
khuyết.
Vì
vậy, rất
mong được sự đóng góp ý
kiến,
chỉ
dẫn của các
thầy,
cô giáo và các bạn
sinh
viên.
Đặc
biệt
em chân thành cảm ôn
thầy
TS
Phạm
Duy Liên —
giảng
viên
trường
ĐH
Ngoại
thương Hà Nội đã
tận
tình
hướng
dẫn và giúp đỡ hoàn
thành khóa
luận
này
Xin tràn trọng cấm ơn.
3
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
"MỖI
THÀNH VIÊN
PHẢI
BẢO ĐẢM CÁC
LUẬT
LỆ,
QUY
TẮC VÀ
QUY
ĐỊNH
HÀNH
CHÍNH
CỦA
NƯỚC
MÌNH TƯƠNG THÍCH
VỚI
CÁC
NGHĨA
VỤ
ĐƯỢC
QUY
ĐỊNH
TRONG
CÁC
HIỆP
ĐỊNH,
PHỤ LỤC
CỦA WTO"
HIỆP
ĐỊNH
THÀNH LẬP
WTO
4
Khóa luận
tốt
nghiệp
Huỳnh Thị Diềm Phương
CHƯƠNG Ì
THƯƠNG MẠI DỊCH vụ VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ
THƯƠNG MẠI
DỊCH
vụ
/.
KHẢI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG MẠI DỊCH vụ
1. Một
SỐ
khái
niệm:
1.1. Khái niệm về
dịch
vụ:
ai Khái niệm
dịch
vụ:
Trong
đời sống
hàng
ngày,
ta thấy
các
hoạt
động
dịch
vụ
diễn
ra
rất
đa
dạng
ở
khắp
mọi
nơi.
Không
ai
có
thể
phủ
nhận
vai
trò
quan
trọng
của
dịch
vụ trong
nền sàn
xuất
xã
hội,
song
dịch
vụ
là gì
vẫn còn là một vấn để đang
bàn
luận.
Thực
tế,
hiằn
nay vẫn
tổn
tại
nhiều
khái
niằm
khác
nhau
về
dịch
vụ.
Theo
Từ
điển
Bách khoa
Việt
nam,
dịch
vụ là
"những
hoạt
động
phục
vụ
nhằm
thoa
mãn nhu cầu sản
xuất, kinh
doanh
và
sinh hoạt".
Do nhu cầu
đa
dạng
và phân công
lao
động xã
hội
nên có
nhiều
loại
dịch vụ,
như
dịch
vụ
phục
vụ sản
xuất kinh
doanh, dịch
vụ
phục
vụ
sinh hoạt
công
cộng
(giáo
dục,
y
tế, giải
trí),
dịch
vụ cá nhân
dưới
hình
thức
những dịch
vụ
gia
đình,
Như
vậy, trong
Từ
điển
Bách khoa
Việt
nam
người
ta
quan
niằm
dịch
vụ là
những
hoạt
động
phục
vụ.
Trong
kinh tế học,
dịch
vụ được
hiểu theo
nghĩa
rộng
bao gồm toàn bộ
những
ngành có
tạo
ra
tổng
sản phẩm
quốc
nội
(GDP)
hoặc
tổng
sản phẩm
quốc
dân
(GNP),
trừ
các ngành công
nghiằp,
nông
nghiằp
(bao
gồm cả lâm
nghiằp,
ngư
nghiằp).
Theo
nghĩa này, những
ngành như
vận
tải,
viễn
thông,
bưu
điằn,
thương
mại,
tài chính ngân hàng, du
lịch,
đểu
thuộc lĩnh
vục
dịch
vụ.
Mặt
khác,
dịch
vụ
cũng
được
hiểu theo
nghĩa
hẹp là sản phẩm của
lao
động
xã
hội,
được
trao
đổi
trên
thị
trường.
Nền sản
xuất
xã
hội
được
chia
thành
hai lĩnh vực:
sản
xuất
hàng hóa và sản
xuất
dịch
vụ.
Quá trình
tạo
ra
5
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
dịch
vụ chính là quá trình tương
tấc
giữa
ba yếu tố cơ
bản:
khách hàng
(người
tiếp
nhận dịch
vụ),
cơ sở
vật chất
và nhân viên
phục vụ.
Ba yếu
tố
đó
quản
hệ
chặt
chẽ
với
nhau, tạo
thành một hệ
thống
mà
trong
đó
dịch
vụ là
kết
quả của sự tương tác
trực
tiếp
giữa
khác hàng, nhân viên
phục
vụ và cơ
sở vật chất.
Chẩng
hạn, dịch
vụ ăn
uống
trong
một nhà hàng là
kết
quả của
sự
tác động qua
lại
giữa
bản thân khách hàng,
những
người
phục vụ,
thức
ăn,
đồ
uống
và
những
tiện
nghi
khác như
bàn, ghế, bát,
đũa,.,
chứ không
phải
là
thức
ăn
hoặc
các
tiện
nghi
phục vụ.
Ta có thê mô
tả
quá trình
tạo ra
sản
phẩm
dịch
vụ
bằng
mô hình sau đây:
Cơ sở
vật chất
(tiện
nghi, )
Khách hàng
Nhân viên
phục
vụ
Sản
phẩm
đích vu
Trên
thế
giới
hiện
nay,
một số
tổ chức quốc tế
(IMF,
WTO, )
đã tổ
chức
hội thảo
về
dịch
vụ nhằm đi đến sự
thống
nhất
về khái
niệm
và phạm
vi
của
dịch vụ,
trên cơ sở đó đánh giá xu
hướng
phát
triển
của
dịch vụ.
Tuy
nhiên,
hiện
vẫn chưa có một định
nghĩa
thống
nhất
về
dịch
vụ. Các nhà
nghiên cứu thường
tập
trung
tìm
những
đặc trưng của sản phẩm hàng hóa và
sản
phẩm
dịch
vụ để làm cơ sở
phấn
biệt
dịch
vụ
với
hàng
hóa.
về cơ bản đó
là một cách
tiếp
cận đúng đắn và hợp
lý.
Đế
hiểu
thêm cách
tiếp
cận này,
khóa
luận xin
nêu một số đặc
điểm
của
dịch
vụ được
nhiều
nguôi
thừa
nhận.
Thứ
nhất,
dịch
vụ nói
chung
mang
tính vô
hình.
Quá trình sản
xuất
hàng hóa
tạo
ra
những
sản phẩm hữu hình có tính
chất
cơ, lý, hoa
học,
nhất
định;
có tiêu
chuẩn
về kỹ
thuật
cụ
thể
và do đó có
thể
sản
xuất theo
tiêu
chuẩn
hóa. Khác
với
hàng hóa, sản phẩm
dịch
vụ không
tồn
tại
dưới
dạng những vật
phẩm cụ
thể
và do đó không
thể
xác định
chất
lượng
dịch
6
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
vụ
trực
tiếp
bằng những
chỉ tiêu kỹ
thuật
được
lượng
hóa. Chính vì vậy,
quản
lý
chất
lượng
dịch
vụ khó khăn hơn so
với
quản
lý
chất
lượng
hàng
hóa.
Do sản phẩm
dịch
vụ là
kết
quả tương tác
trực
tiếp
giữa
khách hàng,
nhân viên
phục
vụ và
tiện
nghi
phục
vụ nên
chất
lượng
dịch
vụ phụ
thuộc
vào năng
lực,
trình độ
nghiệp
vụ của nhân viên
phục vụ,
đánh giá chú
quan
của
khách hàng, tính
tiện lợi
của
trang
thiết
bị
phục
vụ.
Cùng một
loời
dịch
vụ
và
tiện
nghi
phục
vụ nhưng nhân viên khác
nhau
thì
chất
lượng
dịch
vụ
cũng
khác
nhau, thậm
chí cùng một nhân viên
phục vụ,
nhưng mỗi khách
hàng
lời
đánh giá khác
nhau
về
chất
lượng
dịch
vụ.
Chẳng hờn
khi
nghe
một
ca
sĩ hát,
có nguôi
khen
hay,
có
người
chê dở.
Thứ
hai,
quá trình sản
xuất (cung
ứng)
dịch
vụ và tiêu dùng
dịch
vụ
xảy
ra
đồng
thời.
Trong
nền
kinh
tế
hàng
hóa,
sản
xuất
hàng hóa tách
khỏi
lưu thông và tiêu dùng. Do đó hàng hóa có
thể
được lưu kho để dự
trữ,
có
thể
vận
chuyển
đi nơi khác
theo
nhu cầu của
thị
trường.
Khác
với
hàng hóa,
quá trình
cung
ứng
dịch
vụ gắn
liền
với
tiêu dùng
dịch vụ.
Thí dụ
với
dịch
vụ cắt
tóc,
khi kết
thúc quá trình
cắt
tóc
cũng
là lúc chúng
ta
tiếp
nhận
và
tiêu dùng
xong dịch
vụ
cắt
tóc được nguôi
thợ cắt
tóc
cung
ứng. Do sản
xuất
và tiêu dùng
dịch
vụ
diễn
ra
đồng thòi nên không
thể
sản
xuất
dịch
vụ
hàng
loờt
và lưu
giữ
trong
kho sau đó mới tiêu dùng. Vì
thế,
trong
hoờt
động
dịch
vụ không có
hiện
tượng
tồn
kho
hoặc
dự
trữ
săn phẩm
dịch
vụ.
Trên đây là
những
đặc
điểm
phân
biệt
sản phẩm
dịch
vụ
với
sản phẩm
hàng
hóa.
Tuy nhiên sự phân
biệt
đó
chỉ
có tính tương
đối.
Chẳng
hờn,
một
số
loời
hình
dịch
vụ
khi kết
thúc quá trình
cung
ứng đem
lời
sản phẩm có
hình thái
vật
phẩm như bản
photocopy
(đối
với
dịch
vụ
photocopy).
Sự khác
biệt
mang
tính tương
đối giữa
dịch
vụ và hàng hóa là do
dịch
vụ và hàng hóa
có mối
quan
hệ
chặt
chẽ
với
nhau.
Quá trình hình thành và
phất
triển
dịch
vụ
gắn
liền
với
sự phát
triển
của phân công
lao
động xã
hội
và sản
xuất
hàng
hóa.
Hiện
nay,
không có
bất
cứ
hoờt
động
dịch
vụ nào
diễn
ra
mà không có
7
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
sự hiện diện
của hàng
hóa. Bởi
nhân viên
phục
vụ không
thể
cung
ứng
dịch
vụ
cho khách hàng nếu không có
tiện
nghi
phục
vụ (cơ sở
vật chất).
bi Phân ì oại
dịch
vụ:
Cùng với sự phát
triển
phàn công lao động xã hội,
dịch
vụ phát
triển
ở
tất
cả các
lĩnh
vực của
đời sống
kinh
tế-xã
hội.
Có
nhiều
cách phân
loại
dịch
vụ khác
nhau tuy
theo
góc độ và mục đích nghiên
cứu.
Sau đây khóa
luận xin
nêu một số cách phân
loại.
— Căn cứ
theo tinh chất,
có dịch vụ mang
tính
chất thương mại và dịch
vụ phi thương mại.
Dịch vụ mang
tính
chất thương mại là
nhổng
hoạt
động
dịch
vụ được
cung
ứng nhằm mục đích
lợi
nhuận.
Dịch vụ phi thương mại là
nhổng
dịch
vụ công
cộng
không nhằm mục
đích
kinh
doanh,
lợi
nhuận.
Nhổng
dịch
vụ này thường do các tổ
chức
xã
hội
phi
lợi
nhuận cung
ứng
hoặc
do cơ
quan
nhà nước
cung
ứng
khi
các cơ
quan
này
thực
hiện
chức
năng
quản
lý của mình.
- Trong khuôn khổ đàm phán mở cửa
thị
trường dịch
vụ,
WTO chia dịch
vụ thành li ngành lớn
với
155 phân ngành
(subsector)
:
+ Dịch vụ
kinh
doanh.
+ Dịch vụ thông
tin
liên
lạc.
+ Dịch vụ xây
dựng.
+ Dịch vụ phân
phối.
+ Dịch vụ giáo dục.
+ Dịch vụ môi
trường.
+ Dịch vụ tài chính.
+ Dịch vụ liên
quan
tói sức
khỏe
và xã
hội.
8
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
Ị Dịch vụ liên
quan
tới
du
lịch.
+ Dịch vụ vận
tải.
+ Dịch vụ
giải
trí,
văn hóa và
thể thao.
- Theo Nghị định 75ICP ngày 27/10/1993 của Chính phủ về ban hành
Hệ thông ngành kinh
tế
quốc dân, hệ
thống
ngành cấp ì của nước
ta
hiện
nay
bao gồm 20 ngành,
trong
đó có 14 ngành
thuộc lĩnh
vực
dịch
vụ (xem
Phụ
lục).
Trong
bảng
phân ngành cấp
li,
cấp HI và cấp IV do
Tổng
cục
Thống
kê ban hành
tại
Quyết
định 143/TCTK ngày
22/12/1993
hướng
dữn
và cụ
thể
hóa Nghị định nói
trên,
có 26 ngành
dịch
vụ cấp
li,
72 ngành
dịch
vụ
cấp IU và 136 ngành
dịch
vụ cấp
IV.
Ngoài
ra,
người
ta
còn phân
loại
dịch
vụ
theo
các khâu của quá trình
tái sản
xuất
xã
hội,
theo
ngành
kinh
tế,
theo
chủ
thể,
1.2.
Khái
niệm thương
mại
dịch
vụ:
Do chưa có sự thống nhất về khái niệm dịch vụ nên cũng có nhiều
cách
hiểu
khác
nhau
về thương mại
dịch
vụ.
Thứ
nhất,
từ
sự
tiếp
cận khái
niệm
dịch
vụ
theo
nghĩa
rộng
là một
lĩnh
vực
hoạt
động
kinh
tế,
bao gồm toàn bộ
những
ngành
kinh
tế
nhưng không
thuộc
các ngành công
nghiệp,
nông
nghiệp ta
có
thể
hiểu
thương mại
dịch
vụ
là khái
niệm
dùng để
chi
những
hoạt
động thương mại
trong
lĩnh
vực
dịch vụ.
Ớ đây,
thuật
ngữ "thương
mại"
không chỉ bao gồm hành
vi
mua
bán mà là
bất
cứ hành
vi
nào có mục đích tìm
kiếm
lợi
nhuận.
Thứ
hai,
nếu
hiểu
dịch
vụ
theo
nghĩa
hẹp là một
loại
sản phẩm của
lao
động
xã
hội
thì thương mại
dịch
vụ là khái
niệm
dùng để
chỉ
hành
vi
"mua
bấn"
các sản phẩm
dịch
vụ trên
thị
trường.
Khác
với
thương mại hàng hóa,
đối
tượng
được mua bán
trong
thương mại
dịch
vụ là sản phẩm
dịch
vụ chứ
không
phải
là hàng hóa. Thị trường
dịch
vụ và giá cả của
dịch
vụ
cũng
bị
chi
phối
bởi
các quy
luật
khách
quan
(quy
luật
cung cầu,
quy
luật
cạnh
9
Khóa luận
tốt
nghiệp
Huỳnh Thị Diềm Phương
tranh, )
như
đối với thị truồng
hàng hóa. Sản phẩm
dịch
vụ không
những
được
trao
đổi
trên
thị
trường
quốc
gia
mà còn cả trên
thị
trường
quốc
tế.
Khác
với
thương mại hàng
hóa,
thương mại
dịch
vụ không tách
ra
khỏi
quá trình sản
xuất (cung ứng),
tiêu dùng
dịch vụ.
Thương mại hàng hóa
thực
hiễn
chức
năng
tiếp
tục
quá trình sản
xuất
hàng hóa
trong
khâu lưu
thông, là cầu
nối
giữa
sản
xuất
với
tiêu dùng. Nhưng do
đối
tượng
của
thương mại
dịch
vụ là sản phẩm
dịch
vụ nên quá trình
cung
ứng
(sản
xuất)
dịch
vụ
diễn
ra
đồng thòi
với
trao
đổi
và tiêu dùng
dịch vụ.
Bởi sản phẩm
dịch
vụ không
thể
được sản
xuất (cung
ứng)
từ
trước
rồi
sau đó mới được
đem đi
trao
đổi
trẽn
thị
trường.
Chẳng
hạn,
khi
người
môi
giới
cung
ứng
cho
khách hàng
dịch
vụ môi giói
nghĩa
là anh
ta
"bán" sản phẩm
dịch
vụ
môi
giới;
đồng
thời
khách hàng "mua"sản phẩm
dịch
vụ môi
giới
này
cũng
tiếp
nhận
và tiêu dùng luôn
sản
phẩm
dịch
vụ môi
giới.
2. Đặc
điểm
của thương mại
dịch
vụ
2.1. Dịch vụ ngày càng dóng vai trò quan trọng trong nền kinh tê thế
giới cũng như
trong
nền kinh
tê
của mỗi quốc
gia:
Dịch vụ hình thành và phát
triển
gắn
liền
với sự phát
triển
của nền sản
xuất
xã
hội
và phân công
lao
động xã
hội.
Nền
kinh
tế
càng phát
triển
thì
dịch
vụ càng
phong
phú và đa
dạng.
Hiễn
nay,
sự phát
triển
của
dịch
vụ
phản
ánh
trĩnh
độ phát
triển
kinh
tế
của
mỗi
quốc
gia.
Trình độ phát
triển
kinh
tế
của
một nước càng cao thì
tỷ
trọng
của
dịch
vụ
trong
cơ cấu ngành
kinh
tế
của
nước đó càng
lớn.
Bởi dịch
vụ phát
triển
sẽ thúc đẩy phân công
lao
động xã
hội
và chuyên môn
hóa,
tạo
điểu
kiễn
cho các
lĩnh
vực sản
xuất
khác phát
triển.
Dịch
vụ có một vị trí
quan
trọng trong
nền
kinh
tế quốc
dân, được
phản
ánh
bởi
số
lượng
lao
động
trong
ngành
dịch
vụ và
tỷ
trọng
của
dịch
vụ
trong
GDP (xem Phụ
lục).
Ngành
dịch
vụ ở Mỹ hàng năm
tạo
ra 80% cơ
hội
viễc
làm,
xuất
khẩu dịch
vụ
chiếm
tới
30%
tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu.
10
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
Đầu
tư
trực
tiếp
ra
nước ngoài của các nước phát
triển
vào ngành
dịch
vụ
chiếm
40%
tổng
giá
trị
đầu
tư.
Kim
ngạch
thương mại
dịch
vụ của các nước
OECD
chiếm
tối
85%
tổng
kim
ngạch
thương mại
dịch
vụ toàn
thế
giới.
Cấc nước và vùng lãnh
thổ
NICs
đẩy
mạnh
chuyển dịch
cơ
cấu
kinh tế
theo
hướng
phất
triển
mạnh
dịch vụ, tập
trung
phát
triển
dịch
vụ tài chính,
cảng
biển,
du
lịch,
hàng không
,
nhờ đó
lao
động ở khu vực
dịch
vụ có xu
hướng
tăng
nhanh,
đóng góp của
dịch
vụ vào GNP ngày càng
lớn.
2.1 Xu hướng khu
vực
hóa,
toàn
cầu hóa
các
hoạt
động
dịch
vụ:
Hiữn
nay,
toàn cầu hóa là xu
thế
khách
quan,
được
phản
ánh trên
nhiều lĩnh
vực của đòi
sống
xã
hội, trong
đó toàn cầu hóa
kinh tế thể hiữn
sự
liên
kết
quốc
tế
ngày càng sâu sắc quá trình sản
xuất, kinh
doanh
và các
loại
thị
trường
giữa
các
quốc
gia.
Quá trình toàn cầu hóa
kinh tế
không chỉ
diễn
ra
thông qua thương mại hàng
hóa,
đẩu tư mà còn cả thương mại
dịch
vụ.
Do sự phát
triển
mạnh
mẽ của
lực
lượng
sản
xuất hiữn đại,
quá trình
toàn cầu hóa các
hoạt
động
dịch
vụ
trong
những
thập
kỷ
qua,
nhất
là
từ
thập
kỷ
80
trở
lại
đây có
những
bưóc phát
triển
mới về
chất.
Đó là thương mại
dịch
vụ
quốc
tế
ngày càng được mở
rộng,
có
tốc
độ tăng trưởng
nhanh
hơn
thương mại hàng hóa. Tỷ
trọng
thương mại
dịch
vụ
trong
thương mại
quốc
tế
hiữn
nay
đạt
25%
hiữn
nay so
với
17% năm
1980.
Các
thể
chế quốc
tế với
chức
năng "giám
sát",
"điều
tiết"
quá trình toàn cầu hóa
kinh tế
nói
chung,
thương mại
dịch
vụ
quốc tế
nói riêng đã được thành
lập.
Tổ
chức
thương
mại
thế
giới
(WTO) là
tổ chức quốc
tế
đa phương
với
hơn 130 nước thành
viên,
chiếm
tới
90% thương mại
thế
giới
đã có riêng một
hiữp
định (GATS)
điểu
chỉnh
thương mại
dịch
vụ
quốc
tế.
Mục tiêu của WTO là nhằm
tiến
tới
một thị
trường
dịch
vụ
cạnh
tranh,
thống
nhất
trên phạm
vi
toàn
thế
giói
thông qua
viữc từng
bước dỡ bỏ
những
rào cản gây
trở ngại
cho thương mại
dịch
vụ.
Bên
cạnh
xu
thế
toàn cẩu
hóa,
thương mại
dịch
vụ còn phát
triển
theo
xu thế
khu vực hóa.
Đối
vói
nhiều
nước đang phát
triển
quá trình khu vực
li
Khóa luận
tốt
nghiệp
Huỳnh Thị Diềm Phương
hóa được
xem như
"bước
tập dượt"
trước
khi
tham
gia thể
chế toàn cầu.
Hiện nay,
hợp tác khu vực về thương mại
dịch
vụ
tuy
có
các yêu cầu
cụ
thể
và phương
thức hội
nhập
khác
nhau
tùy
theo
đặc thù
từng
nhóm
nuớc
và
khu vực,
nhưng
xét về
tổng thể
đều
nhất
quán
với
mục
tiêu tự
do hóa
thương mại
dịch
vụ
trên
cơ sẳ
các nguyên
tắc
của
WTO.
Chẳng hạn
mục
tiêu của Chương trình hành động
tập thể
về
dịch
vụ
(SCAP) của
Diễn
đàn
hợp
tác
kinh
tế
châu Á-Thái Bình Dương (APEC
)
được thông qua
tại
Hội
nghị
Osaka
(Nhật
Bản) tháng
11/1995
là nhằm
xây
dựng
khu vực châu
Á-
Thái Bình Đương
trẳ
thành một khu vực
mẳ,
tự
do về thương mại
và
đầu
tư,
thông
qua
từng
bước
giảm
những
hạn
chế
về
tiếp
cận
thị
trường
đối với
thương mại
dịch
vụ, thực
hiện
đối
xử
tối
huệ
quốc
và
đối
xử
quốc
gia
trong
thương mại
dịch
vụ. Trong
khu
vực Đông
Nam Á, các
nước
ASEAN đã
thông qua
Thoa
thuận
khung
ASEAN về
dịch
vụ
(AFAS)
và
đang
nỗ
lực
thực
hiện
thực tế
các
cam
kết
AFAS.
2.2.
Xu
hướng
quy mô
ngày càng lớn và
đa
dạng
hóa
Ngày
nay,
dịch
vụ
và
thương mại
dịch
vụ có
quy
mô
ngày càng
lớn.
Ớ
các nước
phất
triển,
giá
trị
sản
lượng
kinh
tế
của
nhiều
ngành
dịch
vụ đã
vượt
xa
những
ngành cóng
nghiệp
truyền
thống
như
năng
lượng,
chế
tạo.
Chẳng
hạn,
ngành
du
lịch
thu
hút 204
triệu
lao
động trên toàn
thế
giới
(hay
cứ
9
lao
động thì
có
Ì
người
làm
việc trong
lĩnh
vực
du
lịch),
chiếm
10,6%
lực
lượng
lao
động
thế
giới,
tạo ra
10,2%
GNP
toàn
cầu,
dự
báo đến
năm
2005
kinh
doanh
du
lịch
tạo
thêm 144
triệu
việc
làm
trên toàn
thế
giới.
1
Nohirh
lý
toàn cần
-
lohn Naỉsbitt-
Viện
Nghiên cứu tài chính,
Hà
nôi.
1997.
12
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
Quy mô ngày càng
lớn
của dịch
vụ và thương mại
dịch
vụ còn
thể hiện
ở mức độ
tập trung thị
trường
dịch
vụ ngày càng cao
với việc
sáp
nhập,
họp
nhẩt,
liên
kết
giữa
các
tập
xuyên
quốc
gia trong
lĩnh
vảc
dịch vụ.
Trong
từng
lĩnh
vảc
dịch
vụ, thị
trường
dịch
vụ đang bị
chi
phối
bởi
nhũng
công
ty
xuyên
quốc gia
có
tiềm
lảc
rất
lớn
về công
nghệ,
tài chính.
Trong
những
năm
qua,
xu
hướng
liên
minh,
sáp
nhập
phát
triển
rất
mạnh
trong
những
ngành tài
chính,
bảo
hiểm,
viễn
thông,
hàng không, hàng
hải,
Dịch
vụ và thương mại
dịch
vụ ngày càng đa
dạng
hóa. Do tính đa
dạng
hóa của
dịch vụ,
nên chưa có một khái
niệm
thống
nhất
về
dịch
vụ,
bao
quát
hết
các bộ
phận
cấu thành của
dịch
vụ.
Chính
vì
vậy,
những
số
liệu
thống
kê về
dịch
vụ và thương mại
dịch
vụ chưa
phản
ánh chính xác sả vận
động
và phát
triển
của
dịch
vụ
hiện
nay.
Dịch vụ có tính "năng
động"
hơn
so với
hàng hóa
trong việc
thỏa
mãn nhu cầu luôn
biến
đổi
của con
người.
Cùng
với
sả
phất
triển
của
nền
kinh
tế,
nhu cầu của
sản
xuất
và tiêu dùng về
dịch
vụ ngày càng đa
dạng
hóa.
li.
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA GA TS VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ:
Đầu
thập
kỷ
70,
do sả phát
triển
của
khoa
học công
nghệ
hiện đại
và
sả
điều
chỉnh
mang tính toàn cầu về
kết
cấu công
nghiệp,
lợi thế
so sánh
của
các nước công
nghiệp
phát
triển,
đặc
biệt
là Mỹ
chuyển từ
các ngành
công
nghiệp
truyền
thống
sang
ngành
dịch
vụ và có xu
hướng
xuất
siêu
lớn trong
thương mại
dịch
vụ. Chính vì
vậy, ngay
tại
vòng đàm phán
Tokyo (1973-1979)
trong
khuôn khổ
Hiệp
định
chung
về
thuế
quan
và
thương mại
(GATT),
Mỹ đã đề
nghị
đưa vấn đề thương mại
dịch
vụ vào
nội
dung
đàm phán. Uy ban hợp tác và phát
triển
kinh tế
thuộc
Liên hợp
quốc
đã căn cứ vào đề
nghị
này
quyết
định
bắt
đầu nghiên cứu thí
điểm
loại
bỏ các
trở
ngại
thương mại
trong
lĩnh
vảc
dịch
vụ kỹ
thuật
công
trình xây
dảng,
ngán hàng, vận
tải
và bảo
hiểm.
Sau
nhiều
thảo
luận,
các
nước
phát
triển
quyết
định đưa vấn đề thương mại
dịch
vụ vào
nội
dung
đàm phán
tại
Vòng đàm phán
Urugoay
(1986-1995).
Xuất
phát
từ
lợi
ích
13
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
kinh
tế
của mình, các nước đang phát
triển
lúc đầu không đồng
ý đàm
phán về thương mại
dịch vụ.
Tuy nhiên,
do
sức
ép
từ
phía các nưóc phát
triển
nên họ đã
chấp nhận
đàm
phán
với
điều
kiện phải
tách
đàm
phán
thương mại
dịch
vụ
ra
khỏi
đàm
phán thương mại hàng hóa.
Trong
quá trình
đàm
phán
tại
Vòng
Urugoay,
mục
tiêu của các nước
phát
triển
là định
ra
mỡt hệ
thống
quy
tắc
quốc
tế
về thương mại
dịch
vụ,
theo
đó dỡ bỏ
hoàn toàn
những
trở ngại
và
hạn chế
đối
với
thương
mại
dịch
vụ. Ngược
lại,
các
nước
dang
phát
triển
rất
thận
trọng trong
đàm
phán thương mại
dịch vụ.
Họ e
ngại
rằng
mở
cửa
thị
trường
dịch
vụ
cho
các nước phát
triển
sẽ
nguy
hại
tới
chủ
quyền
và an
ninh
quốc
gia,
không
thực
hiện
được chính sách phát
triển
kinh
tế
của
mình.
Nhiều
ngành
dịch
vụ
ở
những
nước đang phát
triển
còn
"non
trẻ"
nên
năng
lực cạnh
tranh
không
cao,
nếu
mở
cửa hoàn toàn thì
các
ngành
dịch
vụ đó
tất
yếu
bị
"bóp
chít".
Vì
vậy,
lập
trường của các nước đang phát
triển
là
từng
bước
mở cửa
thị
trường
dịch vụ,
nhưng bảo
hỡ
hợp
lý mỡt
số ngành
dịch
vụ
then
chốt
như
viễn
thông, ngân hàng, vận
tải.
Kết
thúc Vòng
đàm
phán
Urugoay,
cùng
với
sự
ra đời của
WTO
thay
thế
cho
GATT,
Hiệp
định
chung
về thương mại
dịch
vụ
(GATS)
đã
được
thông qua.
GATS
là
hiệp
định
khung
mang
tính
quốc tế
đầu tiên
điều
chỉnh
thương mại
dịch vụ.
Đây
cũng
là mỡt
hiệp
định
bắt buỡc
phải
tham gia đối với
các
nước thành viên của
WTO.
Trong
gần
5 năm
qua,
các nước thành viên
WTO đã
tích cực
thảo
luận,
xây
dựng
và
thông qua
các
quy
định mới
về
thương mại
dịch
vụ
nhằm hoàn
thiện
hơn
khung
pháp lý cho thương mại
dịch
vụ
quốc
tế,
đó
là
Hiệp
định về các
dịch
vụ
tài chính
và
Hiệp
định
về các
dịch
vụ
viễn
thông
cơ
bản
mà
được đông
đảo các nước thành viên
WTO
tham
gia.
Mục tiêu của
GATS
là:
-
Thiết
lập
mỡt khuôn khổ
đa
biên cho
những
nguyên
tắc
và quy
tắc
của
thương mại
dịch
vụ
nhằm
mở
rỡng
thương mại
trong
lĩnh
vực
này
trong
14
Khóa
luận
tốt
nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
điều
kiện
minh bạch
và
tự
do hóa dần dần và là một công cụ thúc đẩy tăng
trưởng
kinh tế
của
tất
cả
đối
tác
trong
thương mại và
vì
sự phát
triển
của các
nước
đang phát
triển.
- Đạt được tự
do hóa
thương mại
dịch
vụ ở mờc
ngày càng cao
hơn
thông qua
những
vòng
đàm
phán
đa
biên liên
tiếp
nhằm tăng
cường
lợi
ích
của
các bên
tham
gia
trên
cơ
sở cùng
có
lợi
và bảo
đảm
sự cân
bằng chung
về quyền
và
nghĩa vụ,
đồng thòi
tôn
trọng
các
mục
tiêu
trona
chính sách
quốc
gia.
- Tạo
thuận
lợi
để
các nước đang phát
triển
tham gia
ngày càng
nhiều
hơn vào thương mại
dịch
vụ và
mở
rộng
xuất
khẩu dịch
vụ của mình,
trong
đó
có
phần
nhờ vào tăng
cường
năng
lực dịch
vụ
trong
nước,
hiệu
quả
và
khả
năng
cạnh
tranh
1.
Các nguyên
tắc
chung:
1.1.
Phạm
vi
áp
dụng:
Phạm
vi
áp
dụng
của
GATS
được quy định
tại
Điều ì,
theo
đó
Hiệp
định
áp
dụng
đối với
các
biện
phấp
tác động
tới
thương mại
dịch
vụ của các
nước
thành
viên.
Đó
là
những
biện
pháp
về:
- Mua,
thanh
toán hay sử
dụng
một
dịch
vụ;
-
Sự
tiếp
nhận
hay sử
dụng
các
dịch
vụ gắn
liền
vói
việc
cung
cấp
dịch
vụ,
các
dịch
vụ được các thành viên
đó yêu
cầu
phải
đưa
ra phục
vụ
công
chúng một cách phổ
biến;
- Sự
hiện diện,
bao
gồm
cả
hiện diện
thương
mại,
của
những
người
thuộc
một
thành viên để
cung
cấp
dịch
vụ trên lãnh
thổ
của một thành viên khác.
Tuy
nhiên,
GATS
không
điều chỉnh
mọi
biện
pháp tác động
tới
thương
mại dịch vụ,
mà
chỉ
điều chỉnh những
biện
pháp tác động
tới
thương mại
dịch
vụ được áp
dụng
bởi:
- Chính
quyền
trung
ương,
khu vực
hoặc
địa phương;
và
15
Khóa
luận tốt nghiệp
Huỳnh
Thị
Diềm Phương
-
Các cơ
quan
phi
chính phủ
trong việc
thực
thi
quyền
hạn được chính
quyền
trung
ương, khu vực
hoặc
địa phương
giao
cho.
Thương
mại
dịch vụ,
theo
GATS,
được
hiểu
là sự
cung
cấp
dịch
vụ
theo
4
phương
thức
sau đây:
- Cung
cấp qua
biên
giới:
dịch
vụ
được
cung
cấp từ lãnh
thổ
của
một
thành viên đến lãnh
thổ
của
một thành viên
khác.
Ví
dụ,
dịch
vụ
viễn
thông,
vận
tỉi.
- Tiêu dùng
ở
nước
ngoài:
dịch
vụ được
cung
cấp trên lãnh
thổ
của một
thành viên cho
người
tiêu dùng
dịch
vụ của thành viên
khác.
Ví
dụ,
dịch
vụ
du
lịch.
- Hiện diện thương
mại: dịch
vụ được
cung
cấp
bởi
một
người cung
cấp
dịch
vụ của một thành viên thông qua sự
hiện diện
thương mại trên lãnh
thổ
của
thành viên
khác.
Ví
dụ,
dịch
vụ tài
chính,
bỉo
hiểm.
- Hiện diện
của
thể
nhân:
dịch
vụ
được
cung
cấp
bởi
một
người cung
cấp dịch
vụ
của một thành viên thông qua sự
hiện diện
thế
nhân trên lãnh
thổ
của thành viên
khác.
Ví
dụ,
dịch
vụ tư
vấn,
kiểm
toán.
Như
vậy,
GATS
chỉ
điều
chỉnh những
biện
pháp của các nước thành
viên tác động
tới
thương mại
dịch
vụ được
thực
hiện
thông qua bốn phương
thức
cung
cấp
dịch
vụ
nói
trên.
Dịch vụ được
cung
cấp qua
những
phương
thức
đó
là
bất
kỳ
loại
dịch
vụ
nào,
ngoại trừ
dịch
vụ
được
cung
cấp
trong
khi
thi
hành
thẩm quyển
của chính
phủ
(những dịch
vụ
được
cung
cấp
không trên
cơ sở
thương
mại, hoặc
không trên
cơ
sở
cạnh
tranh
với
một
hoặc
nhiều
nguôi
cung
cấp
dịch
vụ).
1.2
Những
nguyên
tắc
diều chỉnh thương
mại
dịch
vụ:
ai Nguyên
tắc
tối
huệ quốc (Most Favored National Treatment
-
MFN):
Nguyên
tắc
tối
huệ
quốc
được quy định
tại
Điểu
li
của
GATS
với
nội
dung
như
sau:
mỗi thành viên
phỉi
ngay
lập
tức
và
không
điều
kiện
dành
16
Khóa luận
tốt
nghiệp
Huỳnh Thị Diễm Phương
cho dịch
vụ và
người cung
cấp
dịch
vụ
của
bất
kỳ
thành viên
nào
khác
sự
đãi ngộ
mà
thành viên
đó
đã, đang
và
sẽ dành cho
dịch
vụ và
người cung
cấp
dịch
vụ tương
tự
của
bất
kỳ
nước nào khác.
Cùng
với
nguyên
tắc đối
xử
quốc
gia (NT),
nguyên
tắc
tối
huệ
quốc
là
nền
tảng
của
thể
chế
thương mại
dịch
vụ đa
biên.
Nội
dung
của nguyên
tắc
này
yêu
cẳu mọi nước thành viên phái
thực
hiện
sự
đối
xử
(ưu đãi
hoặc
hạn
chế)
bình đẳng
giữa
dịch
vụ và
người cung
cấp
dịch
vụ
của
các
nước thành
viên khác
nhau
trên lãnh
thổ
nước mình.
Theo
quy
định của
GATS,
chế
độ
đối
xử
tối
huệ
quốc
phải
được
áp
dụng ngay
lập tức
và vô
điều
kiện.
Tức
là một nước thành viên dành sự
đối
xử
MFN
cho
dịch
vụ và
người cung
cấp
dịch
vụ
của
một
nưóc thành viên
khác nhưng không
yêu
cẳu
phải
đáp ứng
bất
kỳ một
điểu
kiện
nào.
Tuy
nhiên,
chế
độ
đối
xử
tối
huệ
quốc
bị hạn
chế
trong
một số trường
nhất
định.
Thứ
nhất,
GATS
cho phép
các
nước thành viên được
miễn
trừ đối
xử
tối
huệ
quốc đối
với
những
biện
pháp
nhất
định thông qua
đàm
phán.
Các
thành viên
phải
quy định
rõ
trong
Danh
mục
miễn
trừ đối
xử
tối
huệ
quốc
những
biện
pháp được
miễn
trừ
và
thời
hạn
miễn
trừ.
về
nguyên
tắc,
các
miễn
trừ
không được
vượt
quá
thòi hạn 10 năm. Danh
mục
miễn
trừ đối
xử
tối
huệ
quốc
là
bộ
phận
không
thể
tách
rời
của
GATS.
Thứ
hai,
các
nước thành viên
có
thể
dành
cho
nước
lân cận
những
thuận
lợi
nhằm thúc
đẩy
thương mại mại
dịch
vụ
trong
phạm
vi
vùng cận
biên.
Trong
các
khu vực
tự
do mậu
dịch
cận biên,
các
nước thành viên
có
chung
đường
biên
giới
có
thể
dành
những
ưu đãi
cho
nhau
mà
không
phụ
thuộc
vào
nghĩa
vụ
thực
hiện
đối
xử
tối
huệ
quốc
đã cam
kết
trong trong
Danh
mục cam
kết
cụ
thể.
bi Nguyên
tắc đối
xử quốc
gia
ịNational Treatment
-
NT)
và
tiếp
cận
thị
trường:
Nguyên
tắc đối xử
quốc
gia
được
quy
định
tại
Điều
17 của GATS,
theo
đó
trong
những
lĩnh
vực
được
ghi
trong
Danh
mục cam
kết
cụ
thể,
mỗi
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
thành viên
phải
dành cho
dịch
vụ và
người
cung
cấp
dịch
vụ của
bất
kỳ
nước
thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém
thuận
lợi
hơn sự đãi ngộ
mà thành viên đó
đã,
đang và sẽ dành cho
dịch
vụ và
người
cung
cấp
dịch
vụ của
nước mình. Sự
đối
xử không
thoa
mãn yêu cầu
của
nguyên
tắc
NT là
sự đối
xử làm cho điứu
kiện
cạnh
tranh
có
lợi
hơn cho
dịch
vụ hay nguôi
cung
cấp
dịch
vụ
trong
nước so
với
dịch
vụ hay
người
cung
cấp
dịch
vụ
nước
ngoài.
Nguyên
tắc
MFN được áp
dụng
ngay
lập tức,
vô điều
kiện
mà mọi
thành viên
GATS
phải
chấp
nhận,
nhưng có
ngoại
lệ.
Khác
với
nguyên
tắc
MFN,
việc
áp
dụng
đãi ngộ
quốc
gia
không
phải
là
nghĩa
vụ
chung
mà là
nghĩa
vụ có điều
kiện
và được đàm phán
trong
quá trình
gia
nhập.
Kết quả
đàm phán về mở cửa
thị
trường và
đối
xử
quốc
gia
được
ghi
nhận
trong
Danh mục cam
kết
cụ
thứ.
Thực
chất
nội
dung
của nguyên
tắc đối
xử
quốc
gia
là các nước thành
viên
phải
dỡ bỏ
những
hạn
chế
và phân
biệt
đối
xử
đối với
người
cung
cấp
dịch
vụ nước
ngoài,
tạo
điều
kiện
cho họ thâm
nhập
(tiếp
cận -
access)
thị
trường
trong
nước. Do đó, mức độ cam
kết
thực
hiện
nguyên
tắc
NT của
một
nước
thứ hiện
mức độ mở cửa
thị
trường
dịch
vụ của nước
đó.
Cam
kết
hoặc
hạn chế áp
dụng
nguyên
tắc
NT
phải
được quy định rõ
trong
Danh
mục cam
kết
cụ
thứ.
Cam
kết
tiếp
cận
thị
trưòng
hoặc
đối
xử
quốc
gia
chỉ
được
áp
dụng
cho
những
dịch
vụ được quy định
trong
Danh mục cam
kết
cụ
thứ.
Danh mục này được xây
dựng
thông qua đàm phán
gia
nhập
của các
nước
thành viên.
Theo
quy định của
GATS,
các thành viên
phải
loại
bỏ 6
loại
hạn chế
sau
đây
trong
những
lĩnh
vực có cam
kết
mở cửa
thị
trường:
- Các hạn chế về số lượng
người
cung
cấp
dịch
vụ
đuối
hình
thức
hạn
ngạch,
độc
quyền,
toàn
quyền
cung
cấp
dịch
vụ
hoặc
yêu cầu đáp ứng nhu
cầu kinh tế.
18
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
-
Hạn
chế vẻ
tổng
giá
trị
các
giao
dịch dịch
vụ
hoặc
tài sản
dưới
hình
thức
hạn
ngạch hoặc
yêu cầu đáp ứng nhu cầu
kinh
tế.
-
Hạn
chế
số
lượng
các
hoạt
động
dịch
vụ
hoặc
số
lượng
dịch
vụ đầu ra
tính
theo
số
lượng
đơn vị
dưới
hình
thức
hạn
ngạch hoặc
yêu
cầu
đáp
ứng
nhu
cầu
kinh
tế.
- Hạn
chế số
lượng
thể
nhân
có
thể
được
tuyển
dụng
trong
một
lĩnh
vực
dịch
vụ cụ
thể
hoặc
một
người
cung
củp
dịch
vụ được phép
tuyển
dụng
cần
thiết
hoặc
trực
tiếp
liên
quan
tới việc
cung
củp một
dịch
vụ cụ
thể
dưới
hình
thức
hạn
ngạch hoặc
yêu cầu về nhu cầu
kinh
tế.
- Các
biện
pháp
hạn chế hoặc
yêu
cầu
các hình
thức
pháp nhân cụ
thể
hoặc
liên
doanh
thông qua đó nguôi
cung củp dịch
vụ có
thể
cung củp dịch
vụ.
r
Hạn
chế
về
tỷ
lệ
vốn góp của bên nước ngoài
bằng
việc
quy định
giới
hạn phần
trăm
tối
đa
cổ
phần
của bên nưóc ngoài
hoặc
tổng
giá
trị
đầu
tư
nước
ngoài tính đơn
hoặc
tính gộp.
Kể từ
khi
GATS có
hiệu
lực
tới
nay,
số
lượng
các
ngành
dịch
vụ
được
đưa vào Danh
mục cam
kết
cụ
thể
ngày càng
mở
rộng.
Hơn 70
nước
thành viên
WTO đã
lập
lộ
trình
cam
kết
áp
dụng
nguyên
tắc
NT
cho
dịch
vụ
chuyên môn,
dịch
vụ
du
lịch,
dịch
vụ bảo
hiểm,
dịch
vụ
ngân hàng
và
các
dịch
vụ
tài chính khác;
khoảng
30
nước
đã
lập
lộ
trình
cam
kết
cho
dịch
vụ
giáo
dục, dịch
vụ văn
hóa,
thể
thao.
Sự mở
rộng
phạm
vi
các
ngành
dịch
vụ
được
cam
kết
áp
dụng
nguyên
tắc
NT
là một
trong
những
thách
thức
đối
vói các
nước chậm phát
triển
đang
đàm
phán
gia nhập
GATS,
trong
đó có
Việt
Nam.
cl Nguyên
tắc
công
khai,
minh bạch
hóa
(publicity, transparency):
Mục
đích
của
nguyên
tắc
công
khai,
minh bạch
hóa là
nhằm
bảo đăm
một
môi
trường
kinh
doanh
rõ
ràng,
có
thể
tiên
liệu
trước
(predictability),
tạo
điểu
kiện
thuận
lợi
cho thương mại và đầu tư phát
triển.
Các
thành viên
GATS
phải
bảo
đảm
tính
minh bạch
của chính sách, pháp
luật,
nhũng
quy
19
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
định
về
thủ
tục,
tiêu chí xét
duyệt,
cơ chế
giải
quyết khiếu
kiện
phải
rành
mạch, rõ ràng.
Theo
quy định của
GATS,
các thành viên
phải
công bố mọi chính
sách,
quy định có tác động
tới
thương mại
dịch
vụ trước
khi
những
chính
sách,
quy định đó có
hiệu
lực
thi
hành. Những
thỏa thuận
song
phương
hoặc
đa phương liên
quan
đến thương mại
dịch
vụ mà các thành viên
tham
gia
cũng
phải
được công
bố.
Hàng năm, các thành viên
phải
thông báo ít
nhửt
một
lần
cho
Hội
đồng Thương mại
dịch
vụ về
việc
ban hành,
hoặc
sửa
đổi
những
quy
định,
chính sách có tác động cơ bản đến thương mại
thuộc
các
lĩnh
vực có cam
kết
cụ
thể.
Các thành viên có
quyền
yêu cầu thành viên khác
khẩn
trương thông
báo cho mình
những
thông
tin
cụ
thể
về
những
quy
định,
chính sách có tác
động
tới
thương mại
dịch vụ.
Để
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
cho các thành viên
tiếp
cận những
thông
tin
về quy
định,
chính sách thương mại
của
nhau,
mỗi
thành viên sẽ
phải
lập những
điểm
cung
cửp thông
tin
về quy
định,
chính
sách thương mại
trong
vòng
hai
năm kể
từ khi
Hiệp
định thành
lập
WTO có
hiệu lực.
Đối
với
các nước đang phát
triển,
các thành viên có
thể thoa thuận
thời
hạn
linh
hoạt
thích hợp cho
việc
thành
lập
những
điểm
thông báo đó.
Nguyên
tắc
công
khai,
minh bạch
hóa khône yêu cầu các thành viên
phái
cung
cửp
những
thông
tin
mà
việc việc
tiết
lộ
chúng có
thể
cản
trở việc
thi
hành pháp
luật,
hoặc
trái
với
lợi
ích công
cộng hoặc
phương
hại
tới
quyền
lợi
thương mại hợp pháp của một
doanh
nghiệp
nào đó.
di Nguyên
tắc tụ
do hóa từng bước:
Việc thừa
nhận
nguyên tắc tự do hóa
từng
bước
trong
GATS
là kết quả
đửu
tranh
của các nước đang phát
triển
trong
đàm phán về thương mại
dịch
vụ
tại
Vòng đàm phán
Urugoay.
Cơ sở
thực
tiễn
của nguyên
tắc
này chính
là sự không đồng
nhửt
về
điều
kiện kinh tế,
chính
trị,
xã
hội
của các
quốc
gia.
Hơn
nữa,
hiện
tại
khoảng
cách về trình độ phát
triển,
xét cả về
tổng
thể
20
Khóa luận
tốt
nghiệp Huỳnh Thị Diễm Phương
nền
kinh
tế
cũng
như
từng lĩnh
vực
dịch
vụ cụ
thể,
giữa
các nước phát
triển
và đang phát
triển
là
rất lớn.
Vì
vậy,
quá trình
tự
do
hóa
thương mại
dịch
vụ
phải
được
tiến
hành
từng
bước
phù hợp
với
thực
tiễn
phát
triển
của mỗi
quốc
gia.
Theo
quy định của
GATS,
"tiến
trình
tự
do hóa
được
tiến
hành
với
sự
quan
tâm
đúng
mằc
đến
mục
tiêu chính sách
quốc
gia
và
trình
độ
phát
triển
của
mỗi thành viên."
Mục
tiêu của nguyên
tắc
này là
nhằm
đạt
được
mằc
độ
tự
do hóa
thương mại
dịch
vụ
ngày càng cao hơn,
hướng
tới
giảm hoặc
loại
bỏ
những
trỏ
ngại đối
vói thương mại
dịch
vụ trên
cơ
sở cùng
có
lợi
và
bảo
đảm cân
bằng
tổng thể
quyền
lợi
và
nghĩa vụ.
Tiến
trình
tự
do
hóa
từng
bước
được đẩy
mạnh
thông qua
từng
vòng
đàm
phán
( song
phương
hoặc
đa
biên)
theo
hướng
tăng dần
mằc độ
của các
cam
kết
cụ
thể.
e/ Nguyên
tắc đối
xử
đặc
biệt
và khác
biệt
dành
c
ho
các nước thành
viên
đang phát
triển
vài
hoặc đang
trong
quá
trình
chuyển đổi:
Tổ
chằc
tiền
thân của
WTO là GATT đã có
những
ưu đãi
nhất
định
dành cho
các
nước thành viên đang phát
triển
thông qua
hệ
thống
các
đối
xử
đặc
biệt
và
khác
biệt.
Tuy
nhiên,
chỉ
đến
khi
WTO
ra
đời,
sự
đối
xử
đặc
biệt
và
khác
biệt
dành cho
các
nước thành viên đang phát
triển
mới
được
khẳng
định là nguyên
tắc
cơ
bản
điểu chỉnh
hệ
thống
thương mại
đa
biên.
Nguyên
tắc
này
không chỉ
kế
thừa
những
quy
định
ưu đãi của GATT về
thương mại hàng
hóa
dành cho các nước đang phát
triển,
mà còn mở
rộng
áp
dụng
cho
thương mại
dịch vụ,
đầu tư và
quyền
sở hữu
trí
tuệ.
Đáy là
thành quả đấu
tranh
liên
tục
của các nước đang phát
triển
qua
những
vòng
đàm phán
trong
khuôn khổ
GATT, đặc
biệt
là
Vòng
đàm
phán
Urugoay.
Bởi
vì,
một
trong
những
nguyên tắc
cơ bản
trong
quan
hệ
quốc
tê nói
chung,
thương mại
quốc
tế
nói
riêng là bình đẳng
và
cùng
có
lợi.
Tuy nhiên,
trên
thực
tế,
ưu
thế
trong
thương mại
quốc tế
thuộc
về
những
nước công
nghiệp
phát
triển
với
tiềm
lực lớn
về công
nghệ, tài
chính.
Trong
khi
đổ, bất
lợi
thuộc
về các
nước đang phát
triển
do
khoảng
cách
lớn
về
trình
độ
phát
21