Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.66 KB, 22 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: TÍNH CHẤT CHÍNH TRỊ CỦA TƠN GIÁO VÀ BIỂU
HIỆN Ở VIỆT NAM


MỤC LỤC
Table of Contents
A MỞ ĐẦU.........................................................................................3
1Tính cấp thiết của đề tài..................................................................3
B NỘI DUNG......................................................................................3
Chương 1 : Nguồn gốc ra đời, bản chất và tính chất của tơn giáo......3
1.1 Tơn giáo là gì?.........................................................................3
1.2 Bản chất :.................................................................................3
1.3 Tơn giáo ở Việt Nam.................................................................6
Chương 2: Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam............................................8
2.1 Khái quát vấn đề tơn giáo ở Việt Nam......................................8
2.2 Biểu hiện tính chất chính trị của tơn giáo ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay...............................................................................18
C PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................................20
D BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ.................................................................................21


A MỞ ĐẦU
1Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng ta đã
từng bước đổi mới về vấn đề tôn giáo và cơng tác tơn giáo. Trong q
trình đó, tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau 25 năm


tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm đổi mới của Đảng ta
về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo ngày càng phát triển hoàn thiện và đi
vào cuộc sống.
Xuất phát từ lý do trên và để phục vụ cho việc học tập môn Chủ
Nghĩa Xã Hội Khoa Học, trong phạm ví nhỏ hẹp của một bài tiểu
luận, nhóm em chỉ tập trung phân tích “Tính chất chính trị của tôn
giáo và biểu hiện ở Việt Nam”
B NỘI DUNG
Chương 1 : Nguồn gốc ra đời, bản chất và tính chất của tơn giáo
1.1 Tơn giáo là gì?
1.1 Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo hiện thực
khách quan, thông qua hệ thống các biểu tượng siêu nhiên và niềm
tin. Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch
sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định.
1.2 Bản chất :
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử
tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con
người trước sức mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội.


Theo C. Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện
thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim
của thế giới khơng có trái tim…Tơn giáo là thuốc phiện của nhân
dân”.
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa,
phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội.
Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật mácxít và thế
giới quan tơn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, những người cộng sản có

lập trường mácxít khơng bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp
những nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược
lại, chủ nghĩa Mác – Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội
chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng
của nhân dân.
* Tính chất:
– Tính lịch sử của Tơn giáo
Con người sáng tạo ra tơn giáo. Mặc dù nó cịn tồn tại lâu dài, nhưng
nó chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng
một lúc với con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy
trừu tượng của con người đạt tới mức độ nhất định.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn của lịch sử,
tơn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của
thời đại đó. Thời đại thay đổi, tơn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh
theo.
Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhận thức được
bản chất các hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được


tự nhiên, xã hội, làm chủ được bản thân mình và xây dựng được niềm
tin cho mỗi con người thì tơn giáo sẽ khơng cịn.
– Tính quần chúng của tơn giáo
Tơn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần
chúng nhân dân lao động. Hiện nay số lượng tín đồ của các tơn giáo
chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới (khoảng 1/3 đến 1/2 dân số
thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo).
Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng
của những con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác
ái… Bởi vì, tơn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo, hướng thiện.
Vì vậy, cịn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin

theo.
– Tính chính trị của tơn giáo
Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của
mình.
Trong nội bộ các tơn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái
nhiều khi cũng mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý
thức hệ, thì tơn giáo thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tơn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp
không chỉ ở quốc gia mà cịn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện
các tổ chức quốc tế của tôn giáo với thế lực lớn đã tác động đến nhiều
mặt, trong đó có chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận


thức rõ: đa số quần chúng đến với tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu
tinh thần; Song trên thực tế đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội
lợi dụng để thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.
1.3 Tôn giáo ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều tơn giáo cùng song song tồn tại. Các
tơn giáo chính là: Phật Giáo đại thừa, Phật Giáo Hòa Hảo, Đạo Cao
Đài, Thiên Chúa Giáo, đạo Tin Lành…
Trong lịch sử, dưới thời phong kiến, có 3 tơn giáo đóng vai trị lớn là
Đạo Phật, Đạo Nho và Đạo lão. Trong đó Đạo Phật và Đạo Nho góp
phần lớn tạo nên bộ máy chính quyền và các quy chuẩn xã hội. Phật
giáo từng là quốc giáo, nhiều vị vua sùng đạo Phật (Các vua thời Lý –
Trần), các Thiền sư đức cao vọng trọng trở thành những cố vấn cho
nhà vua, , chùa chiền dựng khắp nơi. Giai đoạn sau đó, Nho giáo được
đề cao với bộ máy quan lại cùng hệ thống khoa cử cũng như những
chuẩn mực đạo đức.
Cuối thời kì phong kiến, lợi dụng sự truyền bá đạo Ki-tô, các nước

Phương Tây đã từng bước tiến sâu vào nước ta và cuối cùng áp đặt
được ách đơ hộ. Thời kì này, Nho giáo bị đè nén, Thiên Chúa Giáo
được đẩy lên địa vị cao nhất vì đó là tơn giáo của chính quyền thực
dân. Họ đề cao tôn giáo của họ nhằm đẩy nhanh q trình đồng hóa và
chống lại những sự chống đối mang màu sắc dân tộc và tôn giáo.
Sau năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, thực hiện bình
đẳng tôn giáo. Trên thực tế, từ đây, dưới sự định hướng của Chủ nghĩa
Mác, các tơn giáo đã khơng cịn ảnh hưởng đến bộ máy chính quyền
hay hệ thống tổ chức xã hội. Lúc này, các Tôn giáo trở về vai trò dẫn
dắt tâm linh, khuyên con người ta sống tốt đời đẹp đạo và góp phần


xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh, bài trừ mê tín dị đoan.
•Tơn giáo trong q trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội
Tơn giáo, tín ngưỡng là vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Cho nên, khi
giải quyết những vấn đề liên quan đến Tôn giáo, chúng ta cần hết sức
cẩn thận, mềm dẻo, hợp tình hợp lý, hạn chế những xung đột khơng
đáng có nhưng vẫn phải giữ vững những nguyên tắc cơ bản. Đảng ta,
noi theo Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã chỉ ra
5 quan điểm chính khi giải quyết vấn đề này:
Thứ nhất, có những khác biệt giữa chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng
chủ đạo của xã hội xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo về thế
giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân. Với hệ thống tín điều và giáo lý của mình, tơn giáo phần nào hạn
chế khả năng vươn lên làm chủ của con người. Cho nên, trong quá
trình xây dựng Chủ ngĩa xã hội, chúng ta phải từng bước loại bỏ
những ảnh hưởng tiêu cực và sâu sắc của tôn giáo nhằm cải tạo xã hội
trở nên tốt đẹp hơn.
Thứ hai, Nhà nước cần luôn luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do

tín ngưỡng và quyền tự do khơng tín ngưỡng của công dân. Các
quyền lợi và nghĩa vụ của người dân phải bình đẳng và khơng phụ
thuộc vào việc theo tôn giáo nào hay không theo tôn giáo. Ưu tiên
khuyến khích phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, những
giá trị đạo đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước.
Thứ ba, thực hiện đoàn kết các tơn giáo hợp pháp, chân chính, đồn
kết tồn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành
vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tơn giáo. Thơng qua q trình cùng nhau
đồn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống,


lối sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động
có tín ngưỡng, tơn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tơn giáo.
Khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi
dụng tơn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng
chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tơn giáo. Đấu
tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm
vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại
những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới – giải quyết vấn đề này
vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược
đúng.
Thứ năm, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo
đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm thái độ của các

giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội ln có
sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem
xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn
giáo.
Chương 2: Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
2.1 Khái quát vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn
năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá


sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hố, xã hội, đến tâm lý, đạo đức,
lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Với vị
trí địa lý nằm ở khu vực Đơng Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam
rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là
nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hố, các tơn giáo trên thế
giới.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh
em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình
thức tín ngưỡng, tơn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức
tín ngưỡng dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hồng,
thờ những người có cơng với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh,
nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các
dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng ngun thuỷ (cịn gọi là tín
ngưỡng sơ khai) như Tơ tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài
nên việc Lão giáo, Nho giáo - những tơn giáo có nguồn gốc ở phía
Bắc thâm nhập; Cơng giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu
vào truyền đạo và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến
tranh ở miền Nam để truyền giáo thu hút người theo đạo là điều dễ

hiểu.
Ở Việt Nam có những tơn giáo có nguồn gốc từ phương Đơng như
Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tơn giáo có nguồn gốc từ phương
Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tơn giáo được sinh ra tại Việt
Nam như Cao Đài, Phật giáo Hồ Hảo; có tơn giáo hồn chỉnh (có hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình
thức tơn giáo sơ khai. Có những tơn giáo đã phát triển và hoạt động
ổn định; có những tơn giáo chưa ổn định, đang trong q trình tìm
kiếm đường hướng mới cho phù hợp.


Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tơn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tơn
giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt
hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông
nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phịng, Hải Dương, Thừa
Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hồ, TP Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần
Thơ...
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố,
trong đó có một số tỉnh tập trung đơng như Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình, Hải Phịng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk
Lắk, Khánh Hồ, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền
Giang, Vĩnh Long, An Giang, thành phố Cần Thơ...
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam
Bộ như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp,
Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang.. .
- Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp,

Vĩnh Long.
- Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk
Lắk, Gia Lai, Đắk Nơng, Bình Phước... và một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP
Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận...
Ngồi 6 tơn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, cịn có một
số nhóm tơn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan
đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ,
Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo,
Bàlamơn, Bahai và các hệ phái tin lành.


Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tơn giáo nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tơn giáo của thế giới. Về khía cạnh
văn hố, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tơn giáo đã góp phần
làm cho nền văn hố Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là
những khó khăn đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối
với tơn giáo nói chung và đối với từng tơn giáo giáo cụ thể.
Thơng qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tơn giáo Việt
Nam có thể thấy phần nào bức tranh tồn cảnh về tơn giáo ở Việt
Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà nước họach
định chủ trương, chính sách đối với tơn giáo ở tầm vĩ mơ.
Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về tín ngưỡng, tơn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tơn
giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; đồn kết tơn
giáo, hịa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt

Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn
cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội
phản đế Đồng Minh ngày 18-11-1930, Đảng đã có tun bố đầu tiên
về chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: "... phải
lãnh đạo từng tập thể sinh họat hay tập đoàn của nhân dân gia nhập
một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại
đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng...". Chính sách này cũng
được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, ngày 3-91945" "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đồn kết", coi đó là một trong
sáu nhiệm của Nhà nước non trẻ. Hay trong lời kết thúc buổi ra mắt
vào ngày 3-3-1951, Đảng Lao động Việt Nam đã tuyên bố: "... vấn đề


tơn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hồn tồn tơn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của mọi người". Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tơn giáo của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín
ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân
chủ Cộng hồ ln ln tơn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân
thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù
phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan
tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng ký Thơng tư số 60-TTg u cầu thi hành chính sách
tơn giáo theo Sắc lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11-111977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về "Một số chính
sách đối với tơn giáo" trong đó nêu lên 5 ngun tắc về tự do tôn giáo.
Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21-3-1991, Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các

hoạt động tơn giáo". Nghị định 59 là văn bản mang tính pháp quy, là
sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự
nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện
tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tơn giáo là nhằm
đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó đã phát
huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo
tơn giáo, góp phần dân chủ hố đời sống xã hội trên cơ sở ổn định
chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tơn giáo. Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng
định: "Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và


khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đồn kết lương
giáo và giữa các tơn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến,
phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng
tơn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đồn kết dân tộc, chống phá chủ
nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ cơng dân". Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ:
"Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến
lợi ích của Tổ quốc và nhân dân".
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tơn giáo từng
bước được hồn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực
hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TƯ về
cơng tác tơn giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới
đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 thực hiện Nghị

quyết 24, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ
những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày
02-7-1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khố IX
về cơng tác tơn gi (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003) quan
điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tơn giáo tiếp tục được
khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp
đổi mới của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất qn chính
sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh
rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của


con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của
con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin
của đồng bào theo tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau; tơn trọng quyền
được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo
nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn thong
dong, phần xác ấm no".
Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4
Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980 và năm 1992), trong đó Hiến pháp
đầu tiên năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam:
"Mọi cơng dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B).
Từ những nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ:
"Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Không ai được lợi dụng tơn giáo để làm trái pháp luật và

chính sách của Nhà nước". Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: "Cơng dân
Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc khơng theo
tơn giáo nào. Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi
thờ tự của các tín ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ. Khơng ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tơn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
Tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công
dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự , được bảo vệ bằng pháp
luật và được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày
càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị
định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo đã
được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo do ủy ban Thường
vụ Quốc hội khố XI thơng qua ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký
Lệnh cơng bố ngày 29-6-2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước
tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong


chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tơn trọng
tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tơn giáo khơng
phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống
hàng ngày.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ
chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo
đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người

hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tơn giáo, trong đó Phật
giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh
mục và 11.282 tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo;
Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hồ hảo có 982 chức
việc và Hồi giáo có 699 chức sắc; 3 học viện Phật giáo với trên 1.000
tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng phật
học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6
Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện
Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Nam) đã chiêu sinh hai khố với 150 học sinh. Hiện có hàng
trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước
trên thế giới.
Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được
xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng
sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tơn gi là ngun tắc hàng
đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh
thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của
Việt Nam.


Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, cơng tác
quản lý Nhà nước về hoạt động tơn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào ý kiến của Hội
đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2-8-1955
thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban
Tơn giáo Chính phủ ngày nay) để "nghiên cứu kế hoạch thi hành
những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tơn giáo, giúp
Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi hướng
dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách
của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tơn giáo".

Q trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tơn giáo Chính phủ có
thể chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức
năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách
về tơn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL
về tơn giáo. Thời kỳ này Ban Tơn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ
với các tổ chức tôn giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tơn giáo
tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc đấu tranh chống
đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gịn địi thi hành Hiệp định Giơnevơ,
đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Cơng giáo di cư vào Nam;
động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước.
- Thời kỳ 1975-1990: Đây là thời kỳ Ban Tơn giáo Chính phủ thực
hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong
điều kiện đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý
hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tơn giáo Chính phủ
đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày
11-11-1997 về hoạt động tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ,
hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng Hiến


chương đường hướng hành đạo theo phương châm "tốt đời, đẹp đạo",
gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tơn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế
lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng
thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính
sách đối với tôn giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tơn
giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho

Trung ương ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công
tác tôn giáo như Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16-10-1990 về Đổi
mới cơng tác tơn giáo trong tình hình đổi mới; Chỉ thị 37-CT/TW
ngày 2-7-1998 về Tăng cường công tác tơn giáo trong tình hình mới;
Nghị định số 59-HĐBT ngày 21-3-1991 và sau này là Nghị định số
26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham mưu
cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25NQ/TƯ ngày 12-3-2003 về Công tác tôn giáo. Để thể chế hố tư
tưởng đổi mới đối với cơng tác tơn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tơn
giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình
ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI, ban hành Pháp lệnh Tín
ngưỡng, tơn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tơn giáo Chính
phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất
và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn
giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều
nét đặc thù, nhạy cảm, ngày 27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký
Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2-8 hằng năm là Ngày truyền
thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng
cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn
giáo trong cả nước.


2.2 Biểu hiện tính chất chính trị của tơn giáo ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Tình hình tơn giáo ổn định. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong
những năm gần đây, các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng
dân tộc, được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện và bảo đảm hoạt
động, sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Khơng có
những mâu thuẫn giữa các tôn giáo và trong nội bộ từng tơn giáo. Các
tổ chức tơn giáo ln có sự phối hợp, liên kết dưới mái nhà chung

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các cấp để tham gia các hoạt động ích
nước, lợi dân, được chính quyền và xã hội đánh giá cao.
Đảng, Nhà nước ta trân trọng ghi nhận, biểu dương những kết quả,
đóng góp của đồng bào có đạo trong sự nghiệp cách mạng nói chung,
thời kỳ đổi mới nói riêng, đó là: ln n tâm, tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước; phát huy lòng yêu nước, truyền thống tốt
đẹp của con người, văn hóa Việt Nam và những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của tôn giáo đã luôn kề vai sát cánh, đồng hành cùng dân
tộc, có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đặc biệt, thông qua các hoạt động (cả trong nước và quốc
tế), các tôn giáo, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã góp phần quan trọng
trong quảng bá hình ảnh một Việt Nam văn hiến, thân thiện, hịa bình,
nhân ái, làm cho bạn bè quốc tế có cái nhìn thiện cảm, chính xác về
Việt Nam, về tình hình tơn giáo ở Việt Nam, đấu tranh, phản bác các
luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do
tôn giáo.
Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế cơ bản, nổi cộm về tơn giáo, đó là:
quản lý nhà nước về tơn giáo có mặt cịn hạn chế và cịn có các hiện
tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo ở một số
nơi. Đây cũng là một trong những vấn đề được dư luận hết sức quan
tâm trong thời gian qua.


Chính sách của nhà nước là tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tín ngưỡng, tơn giáo nào, quyền
sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các
tơn giáo hoạt động trong khn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp
luật.
Thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân tộc, đồn kết tơn
giáo.

Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào
theo tơn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với
cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo, mặt khác, thơng qua q trình
vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất, hoạt động
xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình
độ kiến thức... để tăng cường sự đồn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mọi công dân khơng phân biệt tín
ngưỡng, tơn giáo, đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc.
Tôn giáo là bộ phận của văn hóa đã và đang có quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, biểu hiện thơng qua q trình học tập,
nghiên cứu, tu nghiệp ở nước ngồi của các chức sắc, tín đồ tơn giáo.
Mặt khác, người nước ngoài cũng đến Việt Nam để nghiên cứu những
giá trị văn hóa như các lễ hội, nghi lễ và sinh hoạt tơn giáo của người
Việt Nam. Tình hình trên đã gây ra khơng ít khó khăn, trở ngại cho
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở từng cấp; vì hoạt động tơn
giáo thường gắn với hoạt động văn hóa, sự đa dạng về văn hóa dẫn
đến sự đa dạng về tơn giáo. Chính vì vậy, trong các tôn giáo sẽ nảy
sinh thêm nhiều yếu tố mới thể hiện trong nghi lễ hành đạo, trong sinh
hoạt tôn giáo... Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế quốc tế hóa tơn
giáo để thực hiện mưu đồ chính trị trên lãnh thổ Việt Nam với âm


mưu “diễn biến hịa bình” dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm kích
động những tín đồ sùng tín chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta.
C PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề tôn giáo trên thế giới hiện nay đang là một vấn đề nóng,

khơng chỉ riêng đối với Chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế việc giải quyết
các vấn đề tôn giáo cần phải được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết,
địi hỏi phải có những phương pháp giải quyết đúng đắn. Chủ nghĩa
Mac – Lênin đã chỉ ra rằng: “Chỉ những kẻ ngu ngốc mới tun chiến
với tơn giáo”! Như vậy có nghĩa là trong cơng tác tơn giáo thì tuyệt
đối khơng bao giờ được dùng vũ lực để giải quyết các vấn đề đặt ra
mà phải dùng tổng hợp các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội mà
nịng cốt là cơng tác vận động quần chúng. Có thể nói, các nước Xã
hội Chủ nghĩa chưa bao giờ chống lại tôn giáo mà chỉ thực hiện các
chính sách để chống lại những kẻ lợi dụng tơn giáo nhằm mục đích
chính trị phản động. Chỉ có qn triệt sâu sắc và tồn diện nội dung
quan điểm trên đồng thời vận dụng linh hoạt, khoa học vào thực tiễn
thì ta mới có thể đấu tranh có hiệu quả với hoạt động lợi dụng tôn
giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia, bảo vệ vững chắc an ninh Quốc
gia trên lĩnh vực tôn giáo.
Với không gian nhỏ hẹp của một đề tài tiểu luận, nhóm em đã cố gắng
chỉ ra những vấn đề chung nhất và tính chất của tôn giáo đang diễn ra
ở Việt Nam.Tuy đã cố gắng tìm tịi nghiên cứu, song chắc chắn tiểu
luận cịn rất nhiều thiếu sót, nhóm em rất mong được cô hướng dẫn và
chỉ bảo thêm. Chúng em xin chân thành cảm ơn.


D BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ
HỌ VÀ TÊN PHẦN CƠNG VIỆC

MỨC ĐỘ HỒN
THÀNH
Nguyễn
phần 2.2 Biểu hiện tính chất 100%
Thành Đạt

chính trị của tơn giáo ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Dương
Thị Phần 1 nguồn gốc ra đời, bản chất 100%
Xn Diễm
và tính chất của tơn giáo
Lê Thảo Ly
Phần 1 nguồn gốc ra đời, bản chất 100%
và tính chất của tôn giáo
Trần Thị Mỹ Phần 2.1 Khái quát vấn đề tơn 100%
Ngọc
giáo ở Việt Nam
Hồng Văn Tính cấp thiết đề tài
100%
Bằng
Kết luận
Tổng hợp photo bài.




×