Tải bản đầy đủ (.doc) (188 trang)

Bài giảng kế toán quản trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.94 KB, 188 trang )

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG
DOANH NGHIỆP
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải dựa vào nhiều nguồn thông
tin khác nhau để ra quyết định quản trị nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong quá trình
sản xuất kinh doanh của mình. Các nhà doanh nghiệp phải biết mình là ai, hoạt động
sản xuất kinh doanh cái gì, như thế nào, và hiệu quả ra sao?… Chính vì vậy, vai trò
của thông tin kế toán quản trị ngày càng được mở rộng và khẳng định vị thế phát triển.
Lý do cơ bản dẫn đến kế toán quản trị phát triển là do sự cạnh tranh khốc liệt của các
doanh nghiệp, các tập đoàn, các quốc gia với nhau. Trong cuộc cạnh tranh đó có sự
thành công và thất bại của các doanh nghiệp, tập đoàn, nhân tố quan trọng dẫn đến sự
thành công của các nhà quản trị trên thương trường chính là thông tin kế toán quản trị.
Trên thực tế, các nhà quản trị đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để thúc đẩy sự
phát triển của doanh nghiệp bằng áp dụng kế toán quản trị. Vậy kế toán quản trị đóng
vai trò gì trong việc chỉ đạo, lãnh đạo quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều này cần được giải thích bằng các lý do cơ bản sau:
- Bất kỳ nhà kinh doanh nào, ở quốc gia nào, mục đích kinh doanh của họ đều
là hướng tới lợi nhuận tối đa.
- Việc tính toán lợi nhuận phải dựa trên cơ sở doanh thu, chi phí.
- Dù chuyên kinh doanh một sản phẩm, hàng hóa hay kinh doanh tổng hợp các
loại sản phẩm hàng hóa thì doanh nghiệp đều phải biết được loại sản phẩm nào, hàng
hóa nào đem lại lợi nhuận cao nhất, vấn đề này chỉ có thể xác định được nhờ các thông
tin của kế toán quản trị.
- Kế toán quản trị không chỉ cung cấp những thông tin chi tiết, cụ thể theo yêu
cầu quản lý mà qua đó nó còn phát hiện nhiều khả năng tiềm ẩn của doanh nghiệp
chưa khai thác như: tình hình tiết kiệm chi phí, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân, tài,
vật lực của doanh nghiệp.
- Kế toán quản trị cung cấp thông tin chi tiết có độ tin cậy phù hợp với ý tưởng về
yêu cầu của nhà quản lý. Trên cơ sở đó có thể quyết định phương án kinh doanh tối ưu.
Từ các vấn đề trên đây kế toán quản trị trở thành công cụ cho các nhà quản trị doanh
nghiệp, sử dụng để điều hành quá trình quản lý sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế


cao nhất, phù hợp với mục tiêu phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế quản lý kinh tế mới.
Bài giảng kế toán quản trị 1
1.2. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của kế toán quản trị
Xuất phát điểm của kế toán quản trị là kế toán chi phí, được hình thành và phát
triển qua các giai đoạn sau:
a, Trước năm 1960
Trong giai đoạn này, kế toán chỉ có một lĩnh vực duy nhất là kế toán tài chính,
tập trung vào việc ghi chép, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, nhằm lập nên
các báo cáo tài chính cho một tổ chức. Báo cáo kế toán giống như một bức tranh súc
tích phản ánh các kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh và tình trạng tài chính của
doanh nghiệp.
b, Từ năm 1960 đến năm 1980
Khi nền sản xuất xã hội đã bắt đầu phát triển cao, cạnh tranh trong kinh doanh
ngày càng trở nên gay gắt, các nhà quản trị doanh nghiệp lúc này rất quan tâm và rất
cần các thông tin cho quá trình ra quyết định liên quan đến doanh nghiệp. Bởi vì để đạt
dược lợi nhuận tối đa doanh nghiệp cần phải cố gắng tăng doanh thu hoặc giảm thiểu
tối đa chi phí. Tuy nhiên việc tăng doanh thu lại phụ thuộc vào các nhân tố khách quan
như cung cầu trên thị trường, tình hình cạnh tranh, tình hình giá cả… Cho nên các nhà
quản trị doanh nghiệp thường tập trung cho biện pháp thứ hai là hạ thấp chi phí vì điều
này phụ thuộc vào nhân tố chủ quan nhiều hơn.
Việc đòi hỏi các thông tin về chi phí đã thúc đẩy kế toán chi phí ra đời (tiền thân
của kế toán quản trị) như một chuyên ngành riêng biệt với kế toán tài chính.
c, Từ sau năm 1980 đến nay
Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ sản xuất cũng như công nghệ
thông tin mà nhu cầu sử dụng thông tin của các nhà quản trị doanh nghiệp cũng trở
nên phong phú và đa dạng, nhất là các thông tin về tài chính để giúp cho họ ra quyết
định kinh doanh đúng lúc và hợp lý. Trong bối cảnh đó kế toán quản trị hình thành và
phát triển, trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống cung cấp thông tin cho nhà
quản trị. Một trong những nhiệm vụ đặc trưng nhất của kế toán quản trị là kiểm soát

chi phí, do đó người ta nói kế toán chi phí là giai đoạn đầu của sự phát triển kế toán
quản trị.
Như vậy kế toán quản trị ra đời và phát triển trước hết ở các nước có nền kinh
tế thị trường. Nguyên nhân sự phát triển là do sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
Bài giảng kế toán quản trị 2
tập đoàn, quốc gia của tổng thể nền kinh tế. Nhưng trong bất kỳ một doanh nghiệp nào
thì thông tin kế toán quản trị với chức năng cơ bản là công cụ hữu hiệu để các cấp lãnh
đạo đưa ra quyết định điều hành mọi hoạt động nhằm hướng tới các mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận.Về tên gọi, phạm vi và nội dung của kế toán quản trị ở các nước khác
nhau, ở mỗi thời kỳ khác nhau thì cũng không giống nhau. Chẳng hạn ở Mỹ và các
nước áp dụng chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế, trong giai đoạn đầu thì kế toán
quản trị là kế toán chi phí hay kế toán ra quyết định kinh doanh. Còn Pháp và các nước
áp dụng chế độ kế toán Pháp thì gọi kế toán quản trị là kế toán phân tích đôi khi còn
gọi là phân tích kinh doanh.
Ở Việt Nam tên gọi và nội dung của kế toán quản trị còn khá mới mẻ. Tuy
nhiên có thể nói hệ thống kế toán Việt nam hiện nay là hệ thống hỗn hợp giữa kế toán
tài chính và kế toán quản trị và biểu hiện ở một số điểm sau:
- Các phương pháp hạch toán chi phí để tính giá thành sản phẩm phục vụ cho việc
kiểm soát và quản lý chi phí là nội dung của kế toán quản trị.
- Các phương pháp phân bổ chi phí và tính giá trị hàng tồn kho cũng là những biểu
hiện đặc điểm của kế toán quản trị.
- Kế toán chi tiết là một phần của kế toán quản trị, kế toán quản trị sử dụng kế toán chi
tiết để thiết kế thành các báo cáo kế toán đặc thù cung cấp cho nhà quản trị doanh
nghiệp ra quyết định kinh doanh.
- Chế độ hướng dẫn trong hệ thống chế độ kế toán Việt nam là thể hiện thông tin định
hướng cho kế toán quản trị.
- Các bảng báo cáo kế toán cũng như các bảng giải trình kết quả hoạt động kinh doanh
vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của kế toán quản trị…
Năm 2003 luật kế toán quy định “Kế toán tại đơn vị bao gồm kế toán tài chính
và kế toán quản trị”.

Tháng 6/2006, Bộ tài chính ban hành thông tư 53 hướng dẫn thực hiện kế toán
quản trị trong doanh nghiệp.
1.2.2. Khái niệm kế toán quản trị
Việc nghiên cứu kế toán quản trị được xem xét từ nhiều quan điểm và góc độ
khác nhau.
Theo giáo sư Robert S.Kaplan, trường đại học Harvard Business School (HBS),
trường phái kế toán quản trị của Mỹ, “Kế toán quản trị là một bộ phận của hệ thống
Bài giảng kế toán quản trị 3
thông tin quản trị trong các tổ chức mà nhà quản trị dựa vào đó để hoạch định và kiểm
soát các hoạt động của tổ chức”.
Theo giáo sư H.Bouquin, trường đại học Paris-Dauphin, trường phái kế toán
quản trị của Pháp, “Kế toán quản trị là một hệ thống thông tin định lượng cung cấp
cho các nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành các tổ chức nhằm đạt hiệu quả
cao”.
Theo hiệp hội kế toán viên hợp chủng quốc Hoa kỳ, “Kế toán quản trị là quy
trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, truyền đạt các thông tin tài chính và phi
tài chính cho các nhà quản trị để điều hành các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn”.
Theo luật kế toán Việt Nam, “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích
và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài
chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
Các khái niệm trên tuy khác nhau về hình thức, song đều có những điểm cơ bản
giống nhau:
- Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành trong hệ thống kế toán của các tổ chức
hoạt động.
- Kế toán quản trị là công cụ không thể thiếu được trong các doanh nghiệp kinh doanh
theo cơ chế thị trường vì nó là cơ sở khoa học để đưa ra mọi quyết định kinh doanh.
- Thông tin kế toán quản trị trong các tổ chức hoạt động giúp cho nhà quản trị thực
hiện chức năng quản trị doanh nghiệp: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh
giá và ra quyết định.

Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm kế toán quản trị như sau:
Khái niệm: Kế toán quản trị là một khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông
tin về hoạt động sản xuất kinh doanh một cách cụ thể phục vụ cho các nhà quản lý
trong việc lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt động
kinh tế, tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.
1.2.3. Bản chất của kế toán quản trị
Kế toán quản trị không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các nghiệp
vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép hệ thống hóa trong
sổ sách kế toán mà còn xử lý và cung cấp các thông tin phục vụ cho việc lập các dự
toán, quyết định các phương án kinh doanh.
Bài giảng kế toán quản trị 4
Kế toán quản trị chỉ cung cấp các thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính
trong phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Những thông tin đó chỉ có ý
nghĩa với những bộ phận, những người điều hành, quản lý doanh nghiệp, không có ý
nghĩa đối với các đối tượng bên ngoài. Vì vậy kế toán quản trị được hiểu là loại kế
toán dành cho những người làm công tác quản lý của một doanh nghiệp.
Kế toán quản trị là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một bộ
phận không thể thiếu được để kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý.
1.3. PHÂN BIỆT KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
1.3.1. Những điểm giống nhau
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối quan hệ mật thiết với nhau, được
thể hiện ở những điểm giống nhau cơ bản sau:
- Kế toán tài chính và kế toán quản trị có cùng một đối tượng nghiên cứu là các
sự kiện kinh tế tài chính và đều quan tâm đến thu nhập, chi phí, tài sản, công nợ và quá
trình lưu chuyển tiền của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu
của kế toán đó là hệ thống chứng từ. Đây là cơ sở để kế toán tài chính soạn thảo các
báo cáo tài chính định kỳ cung cấp ra ngoài và cũng là cơ sở để kế toán quản trị vận
dụng, xử lý nhằm tạo ra thông tin thích hợp cung cấp cho các nhà quản trị.
- Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý.

Kế toán tài chính biểu hiện trách nhiệm của người quản lý cao cấp còn kế toán quản trị biểu
hiện trách nhiệm của nhà quản trị các cấp bên trong doanh nghiệp.
1.3.2. Những điểm khác nhau
Kế toán quản trị và kế toán tài chính có những điểm khác nhau sau:
a, Đối tượng sử dụng thông tin
Đối tượng sử dụng thông tin khác nhau là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự
khác nhau của kế toán quản trị và kế toán tài chính.
Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là những nhà quản trị ở bên
trong doanh nghiệp trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, còn đối tượng mà kế toán tài chính cung cấp thông tin chủ yếu là những người
bên ngoài doanh nghiệp quan tâm đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bài giảng kế toán quản trị 5
b, Đặc điểm thông tin và yêu cầu thông tin
- Đặc điểm thông tin
+ Kế toán quản trị đặt trọng tâm cho tương lai nhiều hơn, vì thế thông tin của kế toán
quản trị chủ yếu hướng về tương lai. Nhiệm vụ của kế toán quản trị là lựa chọn các
phương án, đề án dự trù cho một sự kiện sắp xảy ra và ra quyết định một cách nhạy
bén, để nắm bắt nhanh cơ hội kinh doanh.
+ Ngược lại, kế toán tài chính đặt trọng tâm thông tin quá khứ, phản ánh những sự
kiện đã xảy ra và tuân thủ theo những nguyên tắc của kế toán.
- Yêu cầu thông tin
+ Phần lớn công việc và nhiệm vụ của nhà quản trị phải làm thuộc về kế hoạch định
hướng. Do vậy, yêu cầu thông tin của kế toán quản trị cũng gắn liền với những yêu cầu
này và thông tin cung cấp cho kế toán quản trị thường mang tính linh hoạt, tốc độ và
thích hợp với từng quyết định, không tuân thủ theo những nguyên tắc kế toán và
không đòi hỏi cần phải có độ chính xác tuyệt đối.
+ Còn yêu cầu thông tin của kế toán tài chính đòi hỏi phải phản ánh một cách trung
thực các sự kiện kinh tế đã diễn ra trong quá trình kinh doanh, chú trọng đến tính
chính xác, trung thực và chuẩn mực của thông tin do đó thông tin của kế toán tài chính

mang tính khách quan, thẩm tra được và có sự chính xác tuyệt đối.
c, Phạm vi cung cấp thông tin và các loại báo cáo
Kế toán quản trị chú trọng đến thông tin kinh tế tài chính ở từng bộ phận, từng
phân xưởng, từng công trình, từng loại sản phẩm của doanh nghiệp, tổ chức, do đó kế
toán quản trị có các báo cáo kế toán đặc biệt để cung cấp thông tin cho các nhà quản lý
từng phần, từng bộ phận trong doanh nghiệp. Các báo cáo này linh hoạt cả về số
lượng, hình thức mẫu biểu, quy cách và thời gian lập tùy thuộc yêu cầu thu nhận thông
tin của các cấp quản lý và đặc điểm hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp.
Ngược lại, kế toán tài chính chú trọng đến thông tin ở phạm vi toàn doanh nghiệp, xem
doanh nghiệp là một thể thống nhất và cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài
doanh nghiệp do đó hình thức và số lượng các báo cáo của kế toán tài chính thường
thống nhất về hình thức và nội dung theo quy định.
d, Kỳ hạn lập báo cáo
Báo cáo của kế toán quản trị là do nhu cầu của nhà quản trị doanh nghiệp nên
đó thường là những báo cáo đặc biệt, được lập thường xuyên, phụ thuộc vào yêu cầu
của nhà quản trị, có thể là từng ngày, tuần, tháng, năm. Báo cáo tài chính thì được lập
Bài giảng kế toán quản trị 6
theo định kỳ, theo chế độ quy định, thường là theo quý hoặc theo năm.
e, Quan hệ với các ngành khác
Kế toán quản trị cần rất nhiều thông tin từ nhiều ngành đem lại, do đó kế toán
quản trị có quan hệ rất nhiều với các ngành khác. Còn đối với kế toán tài chính nhằm
sắp xếp, ghi nhận, phân tích diễn đạt những sự kiện kinh tế pháp lý đã diễn ra trong
quá trình kinh doanh bằng những phương pháp của mình, do đó kế toán tài chính ít có
quan hệ với các ngành khác.
f, Tính pháp lệnh
Kế toán quản trị không bị ràng buộc bởi tính pháp lệnh mà chú trọng đến việc
tăng cường trách nhiệm quản lý. Tính chất của hoạt động kinh doanh, phương thức tổ
chức và trình độ quản lý kinh doanh của từng bộ phận trong doanh nghiệp rất đa dạng
và phong phú, do vậy sổ sách và báo cáo của kế toán quản trị phải mở cho phù hợp để
cung cấp thông tin phục vụ cho việc ra quyết định hợp lý. Kế toán tài chính chịu sự

ràng buộc rất cao về pháp lệnh. Hệ thống kế toán tài chính quy định nghiêm ngặt về
hình thức, trình tự xử lý, quy trình công việc kế toán tài chính để đảm bảo tính thống
nhất, tính pháp lý của thông tin. Ngược lại kế toán quản trị hoàn toàn không chịu sự
ràng buộc của bất kỳ một cơ quan chức năng nào. Điều quan tâm của nhà quản trị là
thông tin có hữu ích hay không.
Những điểm giống nhau và khác nhau của kế toán quản trị và kế toán tài chính
được tóm tắt qua bảng sau:
Bài giảng kế toán quản trị 7
Bảng 1: Những điểm giống và khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán quản trị Kế toán tài chính
Giống nhau
1. Có cùng đối tượng nghiên cứu là các sự kiện kinh tế tài
chính.
2. Đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán.
3. Đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý
Đối tượng phục vụ
Nhà quản trị bên trong
doanh nghiệp
Nhà quản trị bên ngoài
doanh nghiệp
Đặc điểm thông tin
Hướng về tương lai
linh hoạt, kịp thời, tốc độ,
thích hợp, được đo lường bằng
bất kỳ các đơn vị hiện vật, thời
gian lao động, giá trị
Phản ánh quá khứ, chính
xác, tuân thủ nguyên tắc
kế toán, Biểu hiện dưới
hình thái giá trị

Yêu cầu thông tin
Không đòi hỏi cao tính chính
xác tuyệt đối
Đòi hỏi tính chính xác
tuyệt đối,
khách quan
Phạm vi báo cáo
Từng bộ phận, khâu,
công việc
Toàn doanh nghiệp
Kỳ báo cáo Thường xuyên Định kỳ
Quan hệ với các môn
học khác
Quan hệ nhiều Quan hệ ít
Tính pháp lệnh Không có tính pháp lệnh Có tính pháp lệnh
1.4. KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VỚI CHỨC NĂNG QUẢN LÝ
Để điều hành các mặt hoạt động của một doanh nghiệp, trách nhiệm thuộc về
các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp đó. Các chức năng cơ bản của nhà quản trị
giúp họ quản trị điều hành hoạt động của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đã đề ra,
Bài giảng kế toán quản trị 8
chúng được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Chu kỳ kế hoạch và kiểm tra
Qua sơ đồ trên ta thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập kế hoạch
đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay trở lại khâu lập kế hoạch cho kỳ sau,
tất cả đều xoay quanh trục ra quyết định. Để làm tốt các chức năng này đòi hỏi nhà
quản trị phải đề ra những quyết định đúng đắn nhất cho hoạt động của doanh nghiệp.
Muốn có những quyết định có hiệu quả và hiệu lực, nhà quản trị có nhu cầu về thông
tin rất lớn. Kế hoạch kế toán quản trị là nguồn chủ yếu, dù không phải là duy nhất,
cung cấp nhu cầu thông tin đó.
1.4.1. Chức năng lập kế hoạch

Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều được tiến hành theo các chương trình định
trước trong các kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm, kế hoạch tác nghiệp. Nhà quản
trị phải thiết lập dự toán ngân sách, đây chính là tài liệu xác lập các bước thực hiện
mục tiêu của tổ chức.
Ví dụ thông qua dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự toán nguyên vật liệu, dự
toán chi phí nhân công, dự toán chi phí sản xuất chung… giúp nhà quản trị tiên liệu,
liên kết các nguồn lực để đảm bảo lợi nhuận trong kỳ.
Kế toán quản trị phải được tổ chức để thu thập những thông tin phục vụ cho
mục đích trên.
1.4.2. Chức năng tổ chức và thực hiện
Để thực hiện chức năng này, nhà quản trị cần một lượng thông tin rất lớn, đặc
biệt là những thông tin phát sinh hàng ngày để kịp thời điều chỉnh tổ chức hoạt động
như: thông tin về giá thành ước tính, thông tin về giá bán, về lợi nhuận từ các phương
án sản xuất kinh doanh… chính những thông tin này phải do kế toán đảm trách.
1.4.3. Chức năng kiểm tra và đánh giá
Bài giảng kế toán quản trị 9
Ra quyết
định
Lập kế hoạch
Tổ chức thực hiện
Kiểm tra
Đánh giá
Kế toán quản trị đóng vai trò kiểm soát hoạt động kinh doanh từ trước, trong và
sau quá trình hoạt động kinh doanh phát sinh. Việc kiểm soát của kế toán quản trị
được thực hiện chủ yếu thông qua kế hoạch đã được lập. Khi kế hoạch đã được lập, để
đảm bảo tính khả thi của kế hoạch đòi hỏi phải so sánh với thực tế. Kế toán sẽ cung
cấp cho nhà quản lý những thông tin thực tế, thông tin chênh lệch giữa thực tế với kế
hoạch, những thông tin kết hợp giữa thực tế với dự báo để nhà quản trị kịp thời điều
chỉnh, đảm bảo tiến độ kế hoạch.
1.4.4. Chức năng ra quyết định

Thông tin kế toán là nhân tố chính trong việc ra quyết định của nhà quản trị, do
đó kế toán có trách nhiệm thu thập các số liệu về chi phí, lợi nhuận và truyền đạt cho
người quản lý thích hợp.
1.5. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIỆP VỤ SỬ DỤNG TRONG KẾ
TOÁN QUẢN TRỊ
1.5.1. Nội dung của kế toán quản trị
Việc xác định nội dung của kế toán quản trị là một vấn đề phức tạp và đang có
nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, khi xác định nội dung của kế toán quản trị cần phải
xem xét các yêu cầu cụ thể của nó, đồng thời phải xem xét trong mối tương quan với
kế toán tài chính để đảm bảo cho kế toán quản trị không trùng lặp với kế toán chi tiết
thuộc kế toán tài chính và phát huy được tác dụng đích thực của nó trong công tác
quản trị doanh nghiệp.
Nếu xuất phát từ yêu cầu, mục đích của kế toán quản trị mà xét cho thấy:
- Kế toán quản trị cung cấp thông tin một cách cụ thể, chi tiết theo yêu cầu quản lý của
từng doanh nghiệp. Theo đó nội dung kế toán quản trị của từng doanh nghiệp cũng
khác nhau. Trong vấn đề này phải xuất phát từ mối tương quan giữa kế toán tài chính
và kế toán quản trị. Những chỉ tiêu cụ thể đã được kế toán tài chính phản ánh và cung
cấp thông tin thông qua kế toán chi tiết thì các chỉ tiêu đó không thuộc nội dung kế
toán quản trị.
- Phân tích chi phí một cách chi tiết theo từng hoạt động kinh doanh bằng những
phương pháp nghiệp vụ cụ thể, hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm, kiểm soát
chi phí, tìm biện pháp quản lý chi phí có hiệu quả.
- Kế toán thu nhập và kết quả theo từng hoạt động, từng địa điểm gắn liền với trách
nhiệm quản lý của từng bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp.
Bài giảng kế toán quản trị 10
- Cung cấp các thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, dự toán và các chỉ tiêu theo
yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
- Xác định thước đo sử dụng, hệ thống sổ kế toán và báo cáo kế toán quản trị phục vụ
cho yêu cầu báo cáo nhanh, báo cáo định kỳ theo từng chỉ tiêu cụ thể.
Để xác định đúng đắn nội dung của kế toán quản trị, các doanh nghiệp cần phải

căn cứ vào các đặc điểm cụ thể về tổ chức quản lý, trình độ quản lý và yêu cầu quản lý
cụ thể của mình nhằm trước hết xác định rõ các chỉ tiêu cơ bản trong quản trị. Xác
định các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán quản trị cần tuân thủ nhằm phối hợp hài hòa
giữa các hệ thống kế toán (kế toán quản trị và kế toán tài chính). Phục vụ cho yêu cầu
kiểm soát, kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Theo thông tư số 53/2006/TT-BTC, ngày 12 tháng 06 năm 2006 của Bộ tài
chính về việc hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp quy định:
Nội dung chủ yếu, phổ biến của kế toán quản trị trong doanh nghiệp gồm:
- Kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm
- Kế toán quản trị bán hàng và kết quả kinh doanh
- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận
- Lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định
- Lập dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh
- Kế toán quản trị một số khoản mục khác
+ Kế toán quản trị tài sản cố định
+ Kế toán quản trị hàng tồn kho
+ Kế toán quản trị lao động và tiền lương
+ Kế toán quản trị các khoản nợ
Ngoài những nội dung chủ yếu trên, doanh nghiệp có thể thực hiện các nội
dung kế toán quản trị khác theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
1.5.2. Phương pháp nghiệp vụ sử dụng trong kế toán quản trị
Thông tin kế toán quản trị chủ yếu nhằm cung cấp cho các nhà quản trị đề ra
những quyết định, do đó kế toán quản trị phải sử dụng một số phương pháp nghiệp vụ
để xử lý thông tin cho phù hợp với nhu cầu quản trị. Kế toán quản trị thường sử dụng 4
phương pháp nghiệp vụ cơ bản sau:
1.5.2.1. Thiết kế thông tin thành dạng so sánh được
Thông tin sẽ vô dụng nếu thiếu các tiêu chuẩn để so sánh với nó. Do vậy,
Bài giảng kế toán quản trị 11
phương pháp thứ nhất mà kế toán quản trị phải vận dụng để làm cho thông tin thành
dạng có ích đối với nhà quản trị là với các số liệu thu thập được, kế toán quản trị sẽ

phân tích chúng thành dạng so sánh được. Quá trình quyết định của nhà quản trị thế
nào cũng phải dựa vào sự so sánh này để đánh giá và ra quyết định.
1.5.2.2. Phân loại chi phí
Vì nhiệm vụ kiểm soát chi phí của nhà quản trị cũng quan trọng nên để quản lý
chi phí các nhà quản trị phải phân loại chi phí sao cho hữu ích, thích hợp với nhu cầu
quản trị cũng là một phương pháp của kế toán quản trị. Ví dụ như phân loại chi phí của
doanh nghiệp thành định phí và biến phí để từ đó phân tích mối quan hệ chi phí - khối
lượng - lợi nhuận, là một nội dung quan trọng khi xem xét để ra các quyết định kinh
doanh. Ngoài ra kế toán quản trị cũng còn nhiều cách phân loại thành chi phí sản xuất
và chi phí ngoài sản xuất, chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, chi phí thời kỳ và chi
phí sản phẩm…
1.5.2.3. Trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán dưới dạng phương trình
Cách trình bày này rất tiện dụng cho việc tính và dự đoán một số quá trình chưa
xảy ra trên cơ sở những dữ kiện đã có và mối quan hệ đã xác định. Do đó phương pháp
này được dùng làm cơ sở để tính toán và lập kế hoạch.
1.5.2.4. Trình bày thông tin dưới dạng đồ thị
Đồ thị là cách thể hiện dễ thấy nhất và chính xác nhất cho thấy được mối quan
hệ và xu hướng biến động của thông tin do kế toán quản trị cung cấp và xử lý. Từ đó
các nhà quản trị thấy ngay được xu hướng biến động của từng bộ phận mà đưa ra các
thông tin ứng xử ngay từng hoạt động.
Bài giảng kế toán quản trị 12
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
A/Câu hỏi
* Hãy trả lời các câu hỏi sau đây:
1. Tại sao nói “Các báo cáo hướng về tương lai không là đặc tính của hệ thống Kế toán
tài chính”?
2. Tại sao nói kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ
thống kế toán doanh nghiệp?
3. Hãy phân tích việc vận dụng các phương pháp kế toán của Kế toán quản trị?
4. Hãy phân biệt kế toán toán tài chính và kế toán quản trị?

* Chọn câu trả lời đúng:
1. Báo cáo KTQT thường được lập vào thời điểm:
a. Khi kết thúc niên độ kế toán.
b. Khi kết thúc quý.
c. Khi cơ quan quản lý chức năng yêu cầu kiểm tra.
d. Khi nhà quản trị cần thông tin thực hiện các chức năng quản lý.
2. KTQT là một chuyên ngành kế toán:
a. Độc lập với kế toán tài chính.
b. Cùng với KTTC thực hiện chức năng cung cấp thông tin kế toán, tài chính của
một tổ chức.
c. Thuộc bộ phận của KTTC nhằm cung cấp thông tin chi tiết về tình hình kinh tế,
tài chính của một tổ chức trong quá khứ.
d. Cung cấp thông tin để lập kế hoạch.
3. KTQT thường được thiết kế thông tin dưới hình thức:
a. So sánh.
b. Phương trình, đồ thị.
c. Dự báo, ước lượng theo các mô hình quản lý.
d. Tất cả các dạng trên.
Bài giảng kế toán quản trị 13
4. KTQT thường được:
a. Xây dựng và chuẩn hoá trong chính sách kế toán thống nhất.
b. Xây dựng và áp dụng thống nhất trong phạm vi ngành.
c. Xây dựng phù hợp với đặc điểm kinh tế, kỹ thuật và yêu cầu quản lý riêng từng
doanh nghiệp.
d. Xây dựng theo yêu cầu kiểm soát của hội đồng quản trị.
5. Nội dung kế toán ở một doanh nghiệp bao gồm:
a. Kế toán chi tiết và kế toán tổng hợp.
b. KTTC và KTQT.
c. Kế toán vốn bằng tiền, kế toán nợ phải thu, kế toán nguyên vật liệu, kế toán
TSCĐ, kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương, kế toán chi phí sản xuất và

giá thành sản phẩm, kế toán doanh thu, kế toán kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
kế toán kết quả hoạt động tài chính, kế toán kết quả hoạt động khác, kế toán nợ phải
trả, kế toán nguồn vốn kinh doanh, lập báo cáo tài chính.
d. Kế toán tài sản, nguồn vốn, chi phí, thu nhập, lợi nhuận và phân phối lợi nhuận.
6. Để xử lý tốt qui trình công việc của KTQT, nhân viên kế toán cần phải:
a. Hiểu biết chính sách, chế độ tài chính – kế toán.
b. Hiểu biết môi trường pháp lý của doanh nghiệp.
c. Hiểu biết được nhu cầu và đặc điểm thông tin kinh tế – tài chính trong hoạt động
của doanh nghiệp.
d. Hiểu biết tất cả những vấn đề trên.
7. KTQT có thể áp dụng vào các ngành nào dưới đây:
a. Ngành sản xuất công nghiệp.
b. Ngành xây dựng cơ bản.
c. Ngành thương nghiệp, dịch vụ.
d. Tất cả các ngành.
8. Nội dung báo cáo KTQT do:
Bài giảng kế toán quản trị 14
a. Bộ tài chính qui định.
b. Chủ tịch hội đồng quản trị qui định.
c. Nhà quản trị doanh nghiệp qui định.
d. Nhân viên kế toán quản trị qui định.
9. Đối tượng mà kế toán quản trị phục vụ là:
a. Các chủ nợ.
b. Người điều hành tổ chức.
c. Các khách hàng.
d. Đơn vị nhà nước.
10. Hoạt động nào của kế toán viên được coi trọng nhất:
a. Thiết kế hệ thống thông tin.
b. Thu thập và xử lý thông tin phù hợp với mục tiêu hoạt động.
c. Phân tích và thiết minh số liệu.

d. Cả ba câu đều đúng
Bài giảng kế toán quản trị 15
Chương 2: KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ
Trong quá trình điều hành và quản lý hoạt động của doanh nghiệp, các nhà quản trị
luôn luôn cần các thông tin về hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Đứng trên quan điểm kế toán, các thông tin mà các nhà quản lý cần đa số thường có liên
quan đến các chi phí của doanh nghiệp. Trong kế toán quản trị chi phí được phân loại
theo nhiều tiêu thức tùy theo mục đích sử dụng của nhà quản lý. Việc nhận định và thấu
hiểu từng loại chi phí là chìa khóa của việc đưa ra các quyết định đúng đắn trong quá
trình tổ chức, điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh của các nhà quản lý.
2.1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CHI PHÍ DOANH NGHIỆP
2.1.1. Khái niệm
Quá trình hoạt động SXKD trong các DN có thể khái quát bằng các giai đoạn
cơ bản, có mối liên hệ mật thiết sau đây:
- Quá trình mua sắm, chuẩn bị dự trữ các yếu tố đầu vào của quá trình SXKD
như đối tượng lao động, tư liệu lao động.
- Quá trình vận động, biến đổi nội tại các yếu tố đầu vào một cách có ý thức và
mục đích thành sản phẩm cuối cùng.
- Quá trình bán hàng (thực hiện giá trị và giá trị sử dụng) của các sản phẩm
(công việc, lao vụ) cuối cùng .
Như vậy, thực chất quá trình hoạt động của doanh nghiệp là sự vận động kết
hợp, chuyển đổi nội tại các yếu tố sản xuất đã bỏ ra để sản xuất và thực hiện giá trị của
quá trình sản xuất đó tạo ra.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có 3 yếu tố cơ
bản đó là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động của con người. Sự tham
gia của các yếu tố này vào quá trình sản xuất có khác nhau dẫn đến sự hình thành của
các hao phí tương ứng: Hao phí về khấu hao tư liệu lao động và đối tượng lao động
hình thành nên hao phí lao động vật hoá; hao phí về tiền lương phải trả cho người lao
động và những khoản hao phí khác hình thành nên hao phí lao động sống. Trong nền
sản xuất hàng hoá các hao phí trên được biểu hiện bằng tiền gọi là chi phí sản xuất

kinh doanh. Vậy:
Bài giảng kế toán quản trị 16
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền toàn bộ về hao phí lao động
sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, trong một thời kỳ nhất định.
2.1.2. Bản chất chi phí
Khi xem xét về bản chất chi phí của doanh nghiệp, cần chú ý đặc biệt các khía
cạnh sau đây:
- Nội dung chi phí có thể biếu hiện bằng công thức:
C + V + M
i
Trong đó: C là hao phí lao động vật hóa
V là hao phí về lao động sống
M
i
là một phần giá trị mới sáng tạo ra (các khoản trích theo lương:
BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ, các loại thuế có tính chất chi phí:
thuế tài nguyên, thuế môn bài, thuế nhà đất, chi phí về lãi vay…)
- Các chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền trong một
khoảng thời gian xác định (năm: kỳ kế toán cơ bản, hoặc tháng quý: kế toán tạm thời)
- Xét ở bình diện doanh nghiệp, chi phí luôn có tính chất cá biệt, nó phải bao gồm tất
cả các chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và để hoạt động kinh doanh, bất
kể đó là chi phí cần thiết hay không cần thiết, khách quan hay chủ quan (chi phí của
doanh nghiệp phải bao gồm cả các khoản thiệt hại về tài sản, các khoản tiền nộp phạt,
phải bồi thường…)
- Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu:
+ Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong một thời kỳ nhất định.
+ Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền lương (tiền công) của một đơn
vị lao động đã hao phí.
2.2. PHÂN LOẠI CHI PHÍ

Đối với những người làm công tác quản lý ở doanh nghiệp thì chi phí là mối
quan tâm hàng đầu của họ. Vì lợi nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp
đến chi phí kinh doanh đã chi ra, vì vậy vấn đề đặt ra là làm sao kiểm soát được các
khoản chi phí, nhận diện và phân tích các hoạt động sinh ra chi phí là điều mấu chốt để
có thể quản lý chi phí từ đó có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Bài giảng kế toán quản trị 17
Trên quan điểm của kế toán quản trị: Chi phí được chia thành nhiều loại, theo
nhiều tiêu thức khác nhau, phù hợp với từng mục đích sử dụng, xem xét các cách phân
loại chi phí để sử dụng chúng trong quyết định quản lý.
2.2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Ý nghĩa của cách phân loại:
- Cho thấy vị trí và chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp.
- Là căn cứ để xác định giá thành sản phẩm và tập hợp chi phí.
- Cung cấp thông tin có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính.
Theo chức năng hoạt động của chi phí trong các tổ chức hoạt động, chi phí chia
thành hai dạng đó là chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
2.2.1.1. Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hoặc
cung cấp dịch vụ phục vụ trong một kỳ nhất định, chi phí sản xuất thường được chia
thành ba khoản mục cơ bản sau:
a. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (Direct material costs)
* Nguyên vật liệu trực tiếp:
- Nguyên vật liệu trực tiếp là cơ sở vật chất để hình thành nên thực thể của sản phẩm,
tham gia thường xuyên, trực tiếp vào quá trình hình thành sản phẩm và ảnh hưởng đến
chất lượng của sản phẩm được sản xuất ra.
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là giá trị của nguyên vật liệu được xuất ra sử dụng
trực tiếp vào việc chế tạo, sản xuất sản phẩm, cấu thành nên thực thể của sản phẩm.

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp này thường chiếm một tỷ trọng cao trong chi
phí sản phẩm và thường không thể thay thế được trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
b. Chi phí nhân công trực tiếp (Direct labour costs)
* Nhân công trực tiếp
Là những người trực tiếp sản xuất sản phẩm, lao động của họ gắn liền với việc
sản xuất ra sản phẩm, sức lao động của họ được hao phí trực tiếp cho sản phẩm họ sản
xuất ra. Khả năng và kỹ năng của lao động trực tiếp sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất
lượng của sản phẩm.
* Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm:
- Chi phí về tiền lương của công nhân trực tiếp thực hiện quy trình sản xuất
Bài giảng kế toán quản trị 18
- Các khoản trích theo lương tính vào chi phí sản xuất của công nhân trực tiếp thực
hiện quy trình sản xuất như: kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.
Chi phí nhân công trực tiếp được tính trực tiếp vào sản phẩm của họ sản xuất ra.
c. Chi phí sản xuất chung (Factory overhead costs)
Chi phí sản xuất chung có thể được định nghĩa là bao gồm toàn bộ những chi
phí ở phân xưởng sản xuất phát sinh để sản xuất sản phẩm nhưng không kể chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp, như vậy chi phí sản xuất
chung sẽ bao gồm:
- Chi phí lao động gián tiếp, phục vụ, tổ chức, quản lý tại phân xưởng
- Chi phí nguyên vật liệu dùng trong máy móc thiết bị, phục vụ sản xuất tại phân xưởng.
- Chi phí công cụ dụng cụ dùng trong sản xuất.
- Chi phí khấu hao máy móc chi phí thiết bị, tài sản cố định khác được dùng trong hoạt
động sản xuất.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài phục vụ sản xuất như: điện, nước, điện thoại,
chi phí sửa chữa tài sản cố định…
- Chi phí khác bằng tiền như chi phí tiếp khách phân xưởng, chi phí thiệt hại trong quá
trình sản xuất…
Bài giảng kế toán quản trị 19

Chi phí sản xuất
(Chi phí sản phẩm)
Chi phí ngoài sản xuất
(Chi phí thời kỳ)
Chi phí bán hàng
Chi phí ban đầu
Chi phí quản lý DN
Chi phí chuyển đổi
Chi phí
nguyên vật
liệu trực
tiếp
Chi phí
nhân công
trực tiếp
Chi phí
sản xuất
chung
Tổng
chi
phí
Sơ đồ 2: Tóm tắt cách phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
* Chi phí sản xuất ban đầu và chi phí chuyển đổi
Trong ba loại chi phí ở trên thuộc chi phí sản xuất, thì sự kết hợp giữa:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp được gọi là chi phí
ban đầu hay còn gọi là chi phí chủ yếu. Chi phí này có tác dụng phản ánh mức chi phí
đầu tiên, chủ yếu của sản phẩm. Chi phí ban đầu cũng phản ánh mức chi phí riêng biệt,
cụ thể từng đơn vị sản phẩm mà ta đã nhận diện ngay trong tiến trình sản xuất, và là cơ
sở để lập kế hoạch về lượng chi phí chủ yếu cần thiết nếu muốn sản xuất một loại sản
phẩm.

- Chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung được gọi là chi phí chuyển đổi.
Chi phí này có tác dụng phản ánh mức chi phí cần thiết để chuyển đổi nguyên liệu từ
dạng thô sang dạng thành phẩm và là cơ sở lập kế hoạch về lượng chi phí cần thiết để
chế biến một lượng nguyên liệu nhất định thành thành phẩm.
2.2.1.2. Chi phí ngoài sản xuất
Chi phí ngoài sản xuất những chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất liên
quan đến việc quản lý chung và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, được chia thành hai loại
như sau:
a, Chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng là các khoản chi phí phục vụ cho việc dự trữ và tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, để đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bán hàng. Khoản mục chi
phí bán hàng thường bao gồm các chi phí cụ thể sau:
- Chi phí về lương và các khoản trích theo lương tính vào chi phí của toàn bộ lao động
trực tiếp hay quản lý trong hoạt động bán hàng, vận chuyển hàng hóa tiêu thụ.
- Chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu dùng trong việc bán hàng, vận chuyển hàng
hóa tiêu thụ.
- Chi phí về công cụ, dụng cụ dùng trong việc bán hàng như: bao bì sử dụng luân
chuyển, các công cụ dụng cụ là đồ dùng, các quầy hàng…
- Chi phí khấu hao thiết bị và tài sản cố định dùng trong việc bán hàng như: Thiết bị
đông lạnh, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển, cửa hàng, nhà kho…
- Chi phí thuê ngoài liên quan đến việc bán hàng như: chi phí hội chợ, triển lãm, quảng
Bài giảng kế toán quản trị 20
cáo, bảo trì, bảo hành, khuyến mãi…
- Và các chi phí khác bằng tiền trong việc bán hàng.
b. Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp là bao gồm toàn bộ những khoản chi phí chi ra
cho việc tổ chức và quản lý sản xuất chung trong toàn doanh nghiệp bao gồm những
khoản mục chi phí sau:
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương tính vào chi phí của người lao động,
quản lý ở các bộ phận, phòng ban của doanh nghiệp.

- Chi phí vật liệu, năng lượng, nhiên liệu dùng trong hành chính, quản lý văn
phòng…
- Chi phí công cụ, dụng cụ dùng trong công việc hành chính, quản trị văn phòng.
- Chi phí khấu hao thiết bị, tài sản cố định khác dùng trong công việc hành chính, quản
trị văn phòng.
- Chi phí dịch vụ, điện nước, điện thoại, bảo hiểm, phục vụ chung toàn DN.
- Các khoản thuế, phí, lệ phí có tính chất chi phí.
- Các khoản chi phí khác như: dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng
tồn kho, hao hụt trong khâu dự trữ…
2.2.2. Phân loại chi phí theo mối quan hệ với thời kỳ tính kết quả kinh doanh.
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí với các theo mối quan hệ với thời kỳ tính
kết quả kinh doanh, chi phí có thể được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
2.2.2.1. Chi phí sản phẩm (Product costs)
Là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm hay quá trình mua
hàng hoá để bán. Chi phí sản phẩm luôn gắn liền với sản phẩm. Nếu sản phẩm, hàng
hoá chưa được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ nằm trong giá thành (trị giá vốn) của hàng
tồn kho trên Bảng cân đối kế toán. Nếu sản phẩm, hàng hoá đã được bán ra thì chi phí
sản phẩm sẽ trở thành chi phí của giá vốn hàng bán trong báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh.
Chi phí sản phẩm bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
2.2.2.2. Chi phí thời kỳ (Period costs)
Bài giảng kế toán quản trị 21
Là các chi phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ, các chi phí này không tạo
nên giá trị của hàng tồn kho mà được tham gia xác định kết quả kinh doanh ngay
trong kỳ chúng phát sinh, chúng có ảnh hưởng đến lơi nhuận và nó được ghi nhận,
phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Chi phí thời kỳ bao gồm: Chi phí bán
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Như vậy, chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ khác nhau ở chỗ: Chi phí thời kỳ
phát sinh ở kỳ nào thì được tính ngay vào kỳ đó và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận

ở kỳ mà chúng phát sinh. Ngược lại chi phí sản phẩm chỉ phải tính để xác định kết quả
ở kỳ mà sản phẩm được tiêu thụ, không phải tính ở kỳ mà chúng phát sinh. Tuy nhiên
chi phí sản phẩm cũng ảnh hưởng đến lợi tức trong doanh nghiệp, có thể ảnh hưởng
đến lợi tức của nhiều kỳ vì sản phẩm có thể được tiêu thụ ở nhiều kỳ khác nhau.
2.2.3. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí (dựa vào mối quan hệ giữa
chi phí với khối lượng sản phẩm sản xuất ra hay mức độ hoạt động)
Ý nghĩa của cách phân loại: Nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu lập kế hoạch,
kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản trị doanh nghiệp, kế toán quản trị
phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí, nghĩa là khi mức độ hoạt động biến
động thì chi phí sẽ biến động như thế nào. Khi mức hoạt động kinh doanh thay đổi, các
nhà quản trị cần phải thấy trước chi phí sẽ biến động như thế nào, biến động bao nhiêu
và loại nào biến động để tương ứng với biến động của mức hoạt động.
Theo cách phân loại này thì tổng chi phí được chia thành ba dạng cơ bản đó là
biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp, được thể hiện qua sơ đồ sau:
Bài giảng kế toán quản trị 22
Sơ đồ 3: Tóm tắt cách phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
2.2.3.1. Biến phí
Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ với biến động về mức độ hoạt
động. Nếu xét về tổng số, biến phí thay đổi tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động, nhưng
biến phí xét trên một đơn vị khối lượng hoạt động thì ổn định. Biến phí khi không có
hoạt động bằng 0.
Trong một doanh nghiệp sản xuất, biến phí thường bao gồm: Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí năng lượng. Trong doanh nghiệp
thương mại, biến phí gồm : Giá vốn hàng bán, chi phí bao bì đóng gói, hoa hồng cho
người bán…
Ví dụ: Có tài liệu về chi phí và sản lượng sản xuất ở Doanh nghiệp Hoàng Anh
chuyên sản xuất bàn ghế nhựa như sau:
Sản lượng
(chiếc)
Chi phí nguyên liệu

tính cho 1 sp
(1000 đ)
Chi phí nguyên liệu tính cho
sản lượng sản xuất (1000 đ)
Bàn Ghế Bàn Ghế Bàn Ghế
100 600 50 32 5.000 19.200
200 1.200 50 32 10.000 38.400
300 1.800 50 32 15.000 57.600
400 2.400 50 32 20.000 76.800
500 3.000 50 32 25.000 96.000
Bài giảng kế toán quản trị 23
Tổng chi phí
Định
phí
Biến phí
Chi phí
hỗn hợp
Định phí
bắt buộc
Biến phí
tỷ lệ
Biến phí cấp
bậc
Định phí tùy ý
Trong ví dụ trên, ta thấy: Dù sản lượng sản xuất thay đổi nhưng chi phí nguyên
liệu để sản xuất 1 chiếc bàn nhựa vẫn giữ nguyên là 50.000đ/bàn, chi phí nguyên liệu
để sản xuất 1 chiếc ghế nhựa vẫn giữ nguyên là 32.000đ/ghế. Tuy nhiên khi xét theo
mức sản lượng thì tổng chi phí nguyên liệu tính cho các mức sản lượng sẽ khác nhau.
Như vậy chi phí là biến phí sẽ biến đổi theo căn cứ mà được xem là nguyên nhân phát
sinh ra chi phí đó. Ở ví dụ trên, căn cứ là mức sản lượng bàn, ghế sản xuất, căn cứ này

thường được gọi là hoạt động căn cứ. Các hoạt động căn cứ thường được dùng gồm:
số lượng sản phẩm sản xuất; số giờ máy hoạt động; số giờ lao động trực tiếp, Số km
vận chuyển; số giường bệnh; số phòng phục vụ; diện tích gieo trồng…
Xét về tính chất cấp bậc, biến phí chia làm 2 loại: Biến phí tỷ lệ và biến phí
cấp bậc.
a, Biến phí tỷ lệ
Là loại biến phí mà tổng chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp với mức độ hoạt
động, còn chi phí của một đơn vị hoạt động thì không thay đổi. Thuộc loại biến phí
này thường có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
hoa hồng trả cho đại lý v.v.
Đồ thị biểu diễn biến phí tỷ lệ:
Chi phí
Mức độ hoạt động
b, Biến phí cấp bậc
Là khoản biến phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng.
Biến phí cấp bậc không biến đổi khi mức độ hoạt động căn cứ thay đổi ít. Nói cách khác,
biến phí cấp bậc có quan hệ tỷ lệ nhưng không tuyến tính với mức độ hoạt động, mức độ
hoạt động thay đổi cho phép chi phí thay đổi để tương ứng với mức hoạt động mới.
Bài giảng kế toán quản trị 24
Biến phí cấp bậc gồm những khoản chi phí như: chi phí lao động gián tiếp, chi
phí bảo trì,…
Đồ thị biểu diễn biến phí cấp bậc:
Chi phí
0
Mức độ hoạt động
2.2.3.2. Định phí
Là những chi phí mà tổng số của nó không thay đổi khi mức độ hoạt động thay
đổi trong một phạm vi hoạt động nhất định. Nếu xét trên tổng chi phí, định phí không
thay đổi; ngược lại khi tính trên một đơn vị hoạt động căn cứ, định phí lệ nghịch với
mức độ hoạt động.

Định phí bao gồm các khoản chi phí như: Khấu hao thiết bị sản xuất, chi phí
quảng cáo, tiền lương của bộ phận quản lý, phục vụ.
Có thể hình dung định phí qua đồ thị sau:
Chi phí chi phí/đơn vị

Mức độ hoạt động Mức độ hoạt động
Ví dụ: Chi phí khấu hao TSCĐ ở một doanh nghiệp như sau:
Sản lượng (SP) Chi phí khấu hao
(1000 đ)
Chi phí khấu hao/ SP
(1000 đ)
1.000 12.000 12
Bài giảng kế toán quản trị 25

×