Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân biệt mô hình công nghiệp hóa rút ngắn cổ điển và mô hình công nghiệp hóa rút ngắn hiện đại, liên hệ sự vận dụng các mô hình này ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.6 KB, 17 trang )

Câu 15: Phân biệt mơ hình cơng nghiệp hóa rút ngắn cổ điển và mơ hình
cơng nghiệp hóa rút ngắn hiện đại? Liên hệ sự vận dụng các mơ hình này ở
VN?
Trả lời:
1/. Lý thuyết: Giáo trình Mơn Kinh tế - Chính Trị lớp Cao cấp Lý luận chinh
trị (Trang 246)
2/. Liên hệ thực tiễn:
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong khi chưa qua phát triển chủ
nghĩa tư bản. Đây không phải là hiện tượng rút ngắn đầu tiên trong lịch
sử phát triển của nhân loại, nhưng chúng ta là một trong những quốc gia
đầu tiên xác định và kiên trì sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong
kiến.
Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn lạc hậu so với thế giới
hiện đại, nên để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, trước mắt là tránh nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung
bình, địi hỏi Việt Nam phải tạo ra được sự phát triển mạnh mẽ, vượt cấp của
lực lượng sản xuất. Muốn vậy, điều quan trọng trước hết là phải đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về mặt kinh tế, có thể nói cốt lõi của sự phát
triển rút ngắn tại Việt Nam, chính là rút ngắn tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã cho thấy, khơng ít nền
kinh tế đã thực hiện thành cơng việc rút ngắn tiến trình cơng nghiệp hóa như
Phần Lan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Nếu như Tây Âu phải đi qua chặng đường
1


gần 5 thế kỷ (vào cuối thế kỷ XIV khởi đầu chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu), thì
với Nhật Bản chỉ mất 100 năm đã sánh ngang với các quốc gia tư bản Tây Âu
về trình độ phát triển kinh tế thơng qua q trình cơng nghiệp hóa rút ngắn.
Với định hướng sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nền kinh tế chậm phát
triển với mục tiêu đặt ra đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công


nghiệp theo hướng hiện đại, rõ ràng cần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, thực
hiện phát triển rút ngắn. Và trong thời đại tồn cầu hóa, tri thức hóa nền kinh
tế hiện nay, cơng nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa và dựa trên nền kinh
tế tri thức.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn đối với Việt Nam hiện nay
không chỉ là rút ngắn thời gian của quá trình vươn lên trình độ hiện đại của
thế giới mà cịn phải có phương thức phù hợp cho phép đi tắt đón đầu, thơng
qua các bước q độ, hoặc vượt qua một số bước tuần tự để đi thẳng lên hiện
đại. Quá trình rút ngắn này phải bảo đảm chất lượng, hiệu quả trong phát
triển, tức là phải bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Để rút ngắn thời
gian, đương nhiên phải tạo được tốc độ phát triển nhanh. Phát triển nhanh
trên cơ sở huy động các nguồn lực nội tại và tận dụng các cơ hội thông qua
giao lưu hội nhập quốc tế. Chỉ có phát triển nhanh mới bảo đảm thu hẹp
khoảng cách với các nước hiện có trình độ phát triển hơn chúng ta. Trong
việc đẩy nhanh tốc độ phát triển cần tránh khuynh hướng “say tốc độ”, tức là
tăng trưởng mà không chú ý đến hiệu quả.
Cùng với tốc độ phát triển, cần có phương thức phù hợp tìm ra con
đường đi tắt mới bảo đảm nhanh chóng theo kịp các nước đi trước. Chẳng
2


hạn về mặt cơng nghệ có thể thơng qua hình thức du nhập cơng nghệ, trên cơ
sở đó tiếp cận các công nghệ hiện đại, tạo ra sự phát triển nhanh và mạnh của
lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó tiếp cận các hình thức tổ chức sản xuất tiên
tiến phù hợp với sự phát triển mới của sức sản xuất, tạo cơ sở cho việc hạ giá
thành và nâng cao hơn năng xuất lao động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội, mơi trường… Song cũng chính do
tăng trưởng nhanh đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cả về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội như bất bình đẳng, ơ nhiễm mơi trường… Như vậy cần có cơ
chế bảo đảm cho việc đi liền với tăng trưởng phải bảo đảm tiến bộ và công

bằng xã hội, cải thiện mơi trường. Nói cách khác, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa rút ngắn nhưng bền vững. Bền vững về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, mơi trường và con người.
Với tinh thần đó, trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020 đã nêu rõ, chúng ta cần “đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính
bền vững của sự phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và
chất lượng tăng trưởng” đồng thời xác định “phát triển nhanh gắn liền với
phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến
lược phát triển”, với các nội dung chủ yếu là “phải phát triển bền vững về
kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế”. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, coi chất lượng,
năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển
theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp
hài hịa với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; nâng cao không ngừng
3


chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi
cùng với bảo vệ và cải thiện mơi trường. Nước ta có điều kiện phát triển
nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức cấp
thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo
nguồn lực cho phát triển bền vững. Vì thế mà phát triển nhanh và bền vững
phải ln gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và
bền vững”.
Q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trong thời
gian qua tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam. Trong giai đoạn đổi mới nền
kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá cao. Chỉ tính riêng giai đoạn
(1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trung bình 7,34%/năm,

thuộc loại cao ở châu Á và trên thế giới; quy mô kinh tế năm 2011 gấp 5,5
lần năm 1985, gấp trên 4,4 lần năm 1990 và gấp trên 2,1 lần năm 2000 (1).
Giai đoạn 2011 - 2013, GDP tăng trung bình 5,6%, đưa quy mô kinh tế vươn
lên đạt 176 tỷ USD năm 2013 (2). Với sự tăng trưởng về kinh tế tạo điều kiện
cho Việt Nam có khả năng giải quyết những nhu cầu căn bản của cuộc sống.
Với quy mô GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.061 USD tính theo tỷ
giá hối đối và 2.948 USD theo sức mua tương đương (PPP), Việt Nam đã
chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình theo
tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB).
4


Sau hơn 30 năm đổi mới, cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh
tế vĩ mô được duy trì, Việt Nam đã bảo đảm sự ổn định trên các mặt: chính
trị, xã hội, quốc phịng và an ninh. Trong đó có những thành tựu rất đáng
khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng
trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn, do tính chất phức tạp của
q trình phát triển rút ngắn vốn chưa có tiền lệ, nên cũng đã và đang đặt
ra khơng ít vấn đề
Một là, năng suất lao động thấp và nợ công gia tăng. Nền kinh tế Việt
Nam trong thời gian vừa qua phát triển dàn trải theo chiều rộng. Phát triển
kinh tế theo chiều rộng thơng thường địi hỏi vốn đầu tư cao, trong khi đó ít
quan tâm tới đổi mới công nghệ. Do vậy năng suất lao động thấp, hiệu quả
vốn đầu tư không cao, biểu hiện chỉ số ICOR của Việt Nam mặc dù có được
cải thiện nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực và thế giới.
Hiệu quả đầu tư không cao và dàn trải được tích tụ qua các năm là nguyên
nhân chủ yếu làm cho lạm phát tăng cao. Nhu cầu đầu tư lớn dẫn đến tình
trạng đầu tư vượt xa khả năng tích lũy của nền kinh tế, thâm hụt ngân sách
luôn ở mức cao. Để bù đắp phần thiếu hụt phải trông cậy vào vốn đầu tư và

vay nợ từ nước ngồi. Điều này đã làm cho nợ cơng tăng nhanh trong những
năm vừa qua.
Hai là, vấn đề thu nhập - tiền lương còn nhiều bất cập. Trong nhiều
năm qua, Nhà nước ln cố gắng cải cách các chính sách tiền lương - thu
nhập nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù hợp với nền kinh tế đang
5


phát triển nhanh. Tuy nhiên, ngồi những thành cơng đã đạt được vẫn còn
những hạn chế và bất cập. Từ ngày 01-7-2019, mức lương tối thiểu đã được
quyết định tăng lên mức 1.490.000 nghìn đồng/tháng. Việc điều chỉnh này
được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án cải cách tiền lương
của Chính phủ, có điều chỉnh theo mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu
dùng và khả năng của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, căn cứ trên thực tế
mức sống hiện nay, mức lương tối thiểu này hồn tồn là khơng đủ để người
lao động có thể sống được trong một tháng, nhất là ở những thành phố lớn
như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Khi lạm phát ngày càng đẩy giá cả
tiêu dùng leo thang nhanh như những năm qua, tình hình đời sống của người
lao động càng khó khăn. Hiện nay lộ trình tăng lương đang gặp khó khăn do
nguồn thu quá hạn hẹp từ nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả.
Ba là, vấn đề ô nhiễm môi trường có chiều hướng gia tăng. Cơng tác
quy hoạch, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên
như khoáng sản, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên biển còn thiếu hợp lý và
chưa hiệu quả; biến đổi khí hậu, các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan
và ơ nhiễm mơi trường đang có xu hướng gia tăng cả về tần suất và cường
độ, gây ra những tác động xấu đến sản xuất và đời sống dân cư.
Bốn là, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội và chênh lệch phát triển
các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị… ngày càng phức tạp và gây ra
nhiều hệ lụy về kinh tế - xã hội. Thu nhập trung bình của người Việt Nam vẫn
cịn khoảng cách khá xa so với nhiều quốc gia ASEAN và Trung Quốc, dù đã

được cải thiện nhiều.
6


Những bất cập trên có nhiều lý do, mà một trong những lý do đó là việc
xây dựng và triển khai chính sách cịn nhiều hạn chế. Q trình lập quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và q trình xây dựng các chính sách
phát triển còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế
quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có
hiệu lực. Nói cách khác, trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chúng ta chưa có được sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách nhằm
bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững. Quy trình xây dựng chính sách cịn
bị khép kín, hiện chưa có quy định cụ thể để huy động hiệu quả trí tuệ của
nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính
sách; chưa tạo được kênh thơng tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp từ
những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.
Cần hệ giải pháp đồng bộ, phát huy các nguồn lực bên trong và bên
ngồi, để có thể thực hiện q trình phát triển rút ngắn
Điều này chỉ có thể thực hiện khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
sở, điều kiện về kinh tế, chính trị cũng như về văn hóa - xã hội và an ninh quốc phịng. Xét riêng trên khía cạnh kinh tế, cốt lõi vấn đề là bảo đảm các
điều kiện cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn. Có thể nói, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn vừa là điều kiện, vừa là nội dung cơ bản
của quá trình phát triển rút ngắn đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn địi hỏi hàng loạt điều kiện về vốn, công
nghệ, thị trường, nguồn lực con người và cơ chế, chính sách.

7


Thứ nhất, điều kiện về vốn. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày một hiện đại, địi hỏi phải có nhiều vốn
trong nước và ngồi nước, trong đó nguồn vốn bên ngồi là quan trọng.
Nguồn vốn bên trong được hình thành bởi: vốn tích lũy từ ngân sách, vốn tích
lũy từ các doanh nghiệp và vốn nhàn rỗi trong dân cư. Con đường cơ bản để
giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội
trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và cơng nghệ, hợp lý hóa sản xuất, khai
thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, thực hiện tiết kiệm.
Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều
hình thức khác nhau: vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội;
vốn vay ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau của các nước và
các tổ chức kinh tế; vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh
doanh, liên doanh liên kết... Biện pháp cơ bản để tận dụng, thu hút vốn bên
ngồi là đẩy mạnh, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường
đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài, tranh thủ mọi
sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước. Ở nước ta hiện nay,
nguồn vốn trong nước còn hạn chế nên phải tận dụng khai thác nguồn vốn từ
bên ngoài. Tuy nhiên, việc tạo nguồn vốn phải gắn chặt với quản lý sử dụng
tốt, có hiệu quả, khai thác tối đa khả năng vốn đã có.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa địi hỏi huy động ngồn vốn
lớn và trên thực tế, kể từ khi thực hiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong khai thác các nguồn vốn. Theo số
liệu của Tổng Cục Thống kê, quy mô vốn đầu tư những năm qua luôn tăng
8


trưởng theo các năm. Cụ thể năm 1996, tổng vốn đầu tư cả nước (theo giá so
sánh năm 1994) là: 74.315 tỷ đồng, năm 2000: 115.109 tỷ đồng, năm 2005:
213.931 tỷ đồng, năm 2010: 400.183 tỷ đồng. Tỷ trọng vốn đầu tư so với
GDP ln duy trì ở mức cao, tính trung bình giai đoạn 1996-2012 là 48,8%
GDP/năm. Đây là mức cao so với nhiều quốc gia trong khu vực và chỉ đứng

sau Trung Quốc. Tổng vốn đầu tư hằng năm cũng thường cao hơn so với tổng
lượng tích lũy tài sản trong nước, trong đó 4 năm liên tục (2007 - 2010) tỷ lệ
đầu tư cao gấp 1,5-1,6 lần tỷ lệ tích lũy so với GDP. Trong tổng nguồn vốn
huy động cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn của dân chiếm khoảng 1/3,
nguồn vốn nước ngoài, khoảng 1/5, vốn nhà nước chiếm gần 1/2.
Với việc huy động nguồn lực lớn cho đầu tư, trong những năm qua
chúng ta đã tạo ra sự phát triển kinh tế với tốc độ khá cao, tạo cơ sở cho việc
cải thiện điều kiện sống và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, việc sử dụng nguồn vốn của Việt Nam hiệu quả chưa cao. Nghiên
cứu thực tiễn phát triển của các quốc gia khu vực cho thấy, trong vòng 20
năm từ năm 1961 đến năm 1980 để đạt được tốc độ tăng trưởng như Hàn
Quốc: 7,9%/năm và Đài Loan tới 9,7%/năm, hai nước này chỉ cần lượng vốn
đầu tư 23-26% GDP, chỉ số ICOR dưới 3,0. Trong khi đó Việt Nam hiện nay
phải cần lượng vốn đầu tư tới hơn 40% GDP, ICOR hơn 6,0, chỉ để đạt tốc độ
tăng trưởng 5-7% (3). Mặc dù những năm qua chúng ta đã cố gắng cải thiện
chất lượng tăng trưởng nhưng hệ số ICOR vẫn còn cao, ở mức 6,7 trong giai
đoạn 2008 - 2010 và 5,53 trong giai đoạn 2011 - 2013. Điều đó có nghĩa
chúng ta phải bỏ ra 5,53 đồng để tạo ra 01 đồng tăng thêm GDP.
9


Trong tình hình như vậy, đứng trước yêu cầu phát triển nhanh và bền
vững cần có giải pháp chính sách quyết liệt nhằm chuyển sang mơ hình tăng
trưởng dựa trên gia tăng năng suất chứ không phải theo xu hướng gia tăng tỷ
lệ vốn đầu tư/GDP vốn đã rất cao so với các quốc gia khu vực. Hơn nữa,
trong điều kiện nền kinh tế thiếu hiệu quả thì việc gia tăng vốn từ tích lũy nội
bộ cũng rất khó khăn. Bên cạnh đó, mặc dù những năm qua chúng ta đã có cố
gắng trong việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng thực tế cho thấy
hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng chưa cao. Muốn có sự
phát triển rút ngắn, bền vững thì cùng với thỏa mãn nhu cầu vốn, đòi hỏi tỷ lệ

vốn trong nước ngày càng tăng lên. Muốn vậy tỷ lệ tích lũy phải tăng nhanh
hơn tỷ lệ tiêu dùng, tỷ lệ tiết kiệm phải tăng nhanh hơn tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ
đầu tư không được phép tăng quá nhanh so với tỷ lệ tích lũy. Đó là những
mối quan hệ ràng buộc cần có để bảo đảm tăng lên nguồn vốn trong nước, trở
thành nguồn vốn giữ vai trò quyết định của tăng trưởng.
Thứ hai, điều kiện về công nghệ. Cơng nghệ giữ vai trị quan trọng
trong phát triển rút ngắn. Kinh nghiệm của một số quốc gia thực hiện phát
triển rút ngắn cho thấy, việc xác định một chiến lược phát triển công nghệ
hợp lý sẽ cho phép tận dụng được hình thức cơng nghệ tiên tiến của thế giới
kết hợp với cơng nghệ truyền thống sẵn có để khai thác phát huy các nguồn
lực phát triển. Trong thời đại cơng nghệ tin học, q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa của nước ta khơng chỉ đơn giản là biến Việt Nam từ nước nông
nghiệp thành nước công nghiệp, mà q trình đó phải bao hàm cả bước
chuyển nhảy tắt lên xã hội thơng tin. Vì vậy, trong chiến lược phát triển công
10


nghệ phải chú ý tới cả việc phát triển công nghệ cao lẫn cơng nghệ truyền
thống, trong đó xu hướng tăng lên của loại hình cơng nghệ cao cần được ưu
tiên. Làm sao để có được cơng nghệ cao hiện đại trong khi nguồn vốn có hạn
là một thách thức lớn đối với chúng ta hiện nay. Nếu không tiếp cận được
cơng nghệ cao hiện đại thì khó có thể nói đến sự phát triển rút ngắn.
Tuy nhiên, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém
phát triển nên tiềm lực về khoa học và cơng nghệ cịn yếu, trình độ cơng nghệ
của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu. Điều này thể hiện ở mức độ tự
động hóa thấp, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, tỷ trọng công nghiệp dựa trên
công nghệ cao cũng như số phát minh sáng chế cịn ít. Ngồi những cơng
nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thơng, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn
chung trình độ cơng nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng
2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Theo báo cáo điều tra

của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Tổng Cục Thống
kê và trường Đại học Cô-pen-ha-gen (Đan Mạch) về “Năng lực cạnh tranh và
công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2012”,
những doanh nghiệp có hoạt động chuyển giao cơng nghệ đều đạt năng suất
cao hơn, nhưng chỉ có số ít doanh nghiệp đang đầu tư vào phát triển các sản
phẩm hoàn toàn mới và đang tham gia vào việc cải tiến công nghệ và đổi
mới. Các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam hầu hết đều có trình độ bằng
hoặc cao hơn cơng nghệ sẵn có ở Việt Nam nhưng mới chỉ đạt mức trung
bình so với các nước trong khu vực. Trên 80% doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
11


nước ngồi sử dụng cơng nghệ trung bình của thế giới, 5-6% sử dụng công
nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
Như vậy, rõ ràng để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam
cần chú trọng hơn nữa đến việc nâng cao trình độ cơng nghệ sản xuất. Thực
tiễn phát triển của thế giới cho thấy, cần nhanh chóng chuyển từ giai đoạn
nhập khẩu - cải tiến công nghệ, sang giai đoạn nghiên cứu sáng chế cơng
nghệ. Có như vậy mới góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho
phát triển bền vững. Đó là những vấn đề chính sách rất cần có sự quan tâm
đầu tư thích đáng để giải quyết. Điều này xuất phát từ vai trị của cơng nghệ
đối với q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, điều kiện về nguồn lực con người. Trong mọi thời đại con
người luôn là nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Con người có sức khỏe, có
trình độ sẽ đưa lại năng suất lao động cao. Năng suất chính là cái quyết định
sự thắng lợi của loại hình tổ chức kinh tế - xã hội mới. Trong nền kinh tế thị
trường cùng với đội ngũ lao động có sức khỏe nhiệt tình, cần có đội ngũ
những chuyên gia kinh doanh giỏi. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc

đã cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của đội ngũ doanh nhân trong tiến trình
phát triển rút ngắn. Cùng với đó, xét trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ
thuật, yếu tố kỹ thuật cơng nghệ đóng vai trị quan trọng trong phát triển sản
xuất. Để có nền kỹ thuật cơng nghệ tiên tiến cần có đầu tư nhằm tạo ra đội
ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật giỏi. Chính họ là người tiếp thu, ứng dụng
12


thành tựu của thế giới vào quốc gia mình, và cũng chính họ sẽ đề xuất, xây
dựng những quy trình công nghệ mới cho phép tăng nhanh năng suất, rút
ngắn các bước đi trong tiến trình phát triển.
Hiện nay, nguồn nhân lực của Việt Nam phản ánh rất rõ đặc trưng cơ
cấu nhân lực của nền kinh tế với lĩnh vực nơng nghiệp là chính đang phát
triển chuyển sang nền kinh tế cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở đó lao động
chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có trình độ kỹ năng
chun mơn cịn thấp, đại đa phần là lao động giản đơn. Cơ cấu nguồn nhân
lực này đang có xu hướng dịch chuyển tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp,
dịch vụ, phản ánh q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nơng - công nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp, hiện đại hóa. Về cơ cấu lãnh thổ và ngành kinh
tế, nguồn nhân lực chủ yếu tập trung vào khu vực nông nghiệp, nơng thơn.
Về cơ cấu trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật, nguồn lực lao động nước
ta ở mặt bằng còn thấp so với các quốc gia khu vực. Bà Ni-cô-la Cô-nô-li
(Nicola Connolly), Tổng Giám đốc Adeco Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban nguồn
nhân lực của Hiệp Hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho rằng: Trong
khối ASEAN, Việt Nam xếp ở nửa dưới về phát triển nguồn nhân lực. Hiện
có trên 65% lao động khơng có kỹ năng, tỷ lệ này còn cao hơn trong giới trẻ
từ 20-24 tuổi là 75%.
Có thể tóm lược thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay là số
lượng đông, chất lượng không cao, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác
phong cơng nghiệp, chưa có những tổng cơng trình sư, kỹ sư, nhà khoa học

thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà
13


tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh
đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngồi bình luận người Việt Nam khá
thơng minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng,
lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến
chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng và đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam nói
chung. Rõ ràng là cần có giải pháp chính sách nhằm giải quyết hàng loạt vấn
đề đang đặt ra như nêu trên nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng u cầu
ngày càng cao của q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư, về thị trường. Chúng ta biết rằng, không thể phát triển nền kinh
tế hàng hóa khi thiếu thị trường bởi thị trường là một yếu tố quan trọng quyết
định đến sự sống còn của q trình sản xuất lưu thơng hàng hóa. Đối với các
nước đang phát triển, thị trường không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hóa mà cịn là
nơi tiếp cận nguồn vốn, lao động và cơng nghệ… Vì vậy muốn phát triển
nhanh không thể không mở rộng thị trường, tham gia hội nhập quốc tế. Ngày
nay xu thế tồn cầu hóa đã và đang lôi cuốn các nước vào thị trường chung
tồn cầu. Nói cách khác việc hội nhập quốc tế là đòi hỏi khách quan, song hội
nhập ra sao để tận dụng được các điều kiện do thị trường mang lại là tùy
thuộc nội lực và chiến lược hội nhập của mỗi quốc gia.
Trong gần 3 thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã tích cực
và chủ động mở cửa hội nhập, chính vì vậy quy mơ và khơng gian thị trường
đều có sự gia tăng. Năm 2013 Việt Nam có bn bán, trao đổi hàng hóa với
gần 240 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên điều cũng cần thấy là, dù quan
14



hệ quốc tế được mở rộng nhưng việc thâm nhập thị trường và mở rộng thị
trường của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam vẫn đang gặp khơng ít khó khăn.
Đó là chất lượng hàng hóa, dịch vụ cịn hạn chế, công tác xúc tiến thương
mại cũng chưa thực sự bài bản và nguồn lực hạn chế, công tác đăng ký bản
quyền hàng hóa đơi khi chưa kịp thời làm giảm năng lực cạnh tranh, mất thị
phần… Đó cũng là những vấn đề cần có hướng chính sách thúc đẩy giải
quyết nhằm mở rộng thị trường đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thứ năm, về cơ chế, chính sách. Đây cũng là vấn đề cần được quan tâm
và ưu tiên trong quá trình tiếp tục đổi mới hiện nay. Thực ra nếu có được cơ
chế, chính sách phù hợp là “nguồn lực” quan trọng thúc đẩy phát triển, hay
nói chính xác là cơ sở để nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng các nguồn lực.
Trong quá trình gần 30 năm đổi mới vừa qua, những kết quả đạt được đều
gắn liền với đổi mới về cơ chế, chính sách và những hạn chế yếu kém cũng
phần lớn là do những hạn chế trong cơ chế, chính sách cản trở sự phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất tuân theo những quy luật của nó,
cho nên để thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, Việt Nam
cần vận dụng kinh nghiệm của những nước đi trước, nhất là những nước
trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po… trong việc xây dựng và
soạn thảo các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho phát triển lực lượng sản
xuất. Về vấn đề này cũng đã có ý kiến của nhiều chuyên gia, cụ thể nên tập
trung vào những định hướng chính sau:

15


- Một là, cần chú ý đầu tư nghiên cứu kỹ các vấn đề chính sách đặt ra,
kể cả đánh giá các điều kiện để triển khai chính sách nhằm bảo đảm cho
chính sách có tính khả thi cao. Muốn vậy phải có sự quan tâm đầu tư thích
đáng của các cấp, các ngành cả trên phương diện lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư

nguồn lực, đồng thời mở rộng các đơn vị tham gia nghiên cứu chính sách
phục vụ cho việc xây dựng luật.
- Hai là, nội dung chính sách dự kiến đưa vào luật để thể chế hóa phải
được xác định rõ ràng. Trong thực tế hoạch định chính sách, nhất là khi nước
ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập, chúng ta phải nghiên cứu chính
sách trên cả lĩnh vực lý thuyết và thực tế, dự báo, đánh giá tác động kinh tế,
xã hội của chính sách, so sách các chính sách, lựa chọn chính sách nào tối ưu
và phù hợp với thực tiễn và nhu cầu phát triển của Việt Nam.
- Ba là, cần xây dựng chính sách phù hợp với chiến lược và định hướng
chiến lược phát triển các ngành kinh tế - xã hội trong tổng thể phát triển của
kinh tế - xã hội của đất nước qua đó bảo đảm tính ổn định của chính sách. Tất
nhiên, ổn định ở đây khơng có nghĩa là khơng thay đổi mà chính sách có thể
thay đổi để đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy
nhiên, chính sách cần phải ổn định và nhất quán thì luật mới ổn định và tạo
môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi.
- Bốn là, cần đổi mới cách thức xây dựng và phê duyệt chính sách, bảo
đảm tính cơng khai, tham vấn, trưng cầu ý kiến của những đối tượng được
điều chỉnh. Cụ thể cần áp dụng các phương pháp khoa học kiểm nghiệm
chính sách dự kiến áp dụng và phương pháp soạn thảo luật mà các nước đã và
16


đang áp dụng như: Phương pháp đánh giá tác động chính sách (RIA), phương
pháp phân tích các yếu tố tác động vào quy trình xây dựng pháp luật.
Có thể thấy, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đứng trước những cơ
hội lớn, có điều kiện cho phép phát triển rút ngắn. Trong bối cảnh hiện nay,
việc tạo lập cơ chế chính sách phù hợp có vai trị cực kỳ quan trọng để phát
huy các nguồn lực, hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra, để đến 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại./.


17



×