Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

nghiên cứu khả năng thay thế men bánh mì bằng bột đậu nành trong nuôi luân trùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.06 KB, 39 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304


NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG THAY THẾ
MEN BÁNH MÌ BẰNG BỘT ĐẬU NÀNH
TRONG NUÔI LUÂN TRÙNG





Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện

Ths. NGUYỄN HỮU LỘC NGUYỄN THỊ THÚY AN
MSSV: 06803001
Lớp: Nuôi Trồng Thủy Sản K1






Cần Thơ, 2010
2
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Luận văn: Nghiên cứu khả năng thay thế men bánh mì bằng bột đậu nành trong nuôi
luân trùng.
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ THÚY AN
Lớp: Nuôi trồng thủy sản K1
Đề tài đã được hoàn thành theo yêu cầu của cán bộ hướng dẫn và hội đồng bảo
vệ luận văn đại học Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Đại Học Tây Đô.

Cần Thơ, ngày……tháng… năm 2010
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
(chữ ký) (chữ ký)




Ths. NGUYỄN HỮU LỘC NGUYỄN THỊ THÚY AN


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(chữ ký)




Ths. NGUYỄN LÊ HOÀNG YẾN
3
LỜI CẢM TẠ

Sau thời gian thực tập từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 4 năm 2010 tại Phòng thí
nghiệm Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường Đại Học Tây Đô, áp dụng những kiến
thúc đã học kết hợp với kinh nghiệm thực tế, nay luận văn đã được hoàn thành.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Nguyễn Hữu Lộc – Khoa Sinh Học
Ứng Dụng – Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình chỉ dạy cho em suốt thời gian làm đề
tài.
Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường Đại
Học Tây Đô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong
những năm học vừa qua, tạo dựng hành trang để em bước vào cuộc sống sau này.
Xin cảm ơn tập thể lớp Nuôi Trồng Thủy Sản K1 đã giúp đỡ và đóng góp ý kiến bổ
ích để hoàn thành thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng – Trường Đại Học
Tây Đô vui, khỏe, công tác tốt và không ngừng con đường cống hiến cho sự nghiệp
giáo dục.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu nhập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt nghiệp
không tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô
và các bạn.

Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ!
(chữ ký)


NGUYỄN THỊ THÚY AN
4
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng sử dụng bột đậu nành để thay thế men bánh mì,
xác định khẩu phần cho ăn thích hợp. Thí nghiệm tiến hành gồm 5 nghiệm thức với tỷ
lệ kết hợp khác nhau lần lượt là 25%, 50%, 75% bột đậu nành hay hoàn toàn bằng
men bánh mì hoặc hoàn toàn bằng bột đậu nành. Nước nuôi có độ mặn 25 ppt, mật độ
luân trùng ban đầu là 100 cá thể/ml, liều lượng cho ăn 1,5g/triệu luân trùng/ngày. Kết

quả cho thấy bột đậu nành có thể thay thế 50% men bánh mì. Năng suất và chất lượng
luân trùng khi cho ăn kết hợp thì tốt hơn khi chỉ cho ăn đơn thuần một loại thức ăn.
Mật độ luân trùng cực đại dao động từ 257 – 1632 cá thể/ml, thời gian đạt mật độ cực
đại từ 7 – 8 ngày nuôi. Hệ số trứng trung bình lần lượt 7,9 – 19,4 (%). Ngoài nghiệm
thức 5 thì tốc độ tăng trưởng đặc thù của luân trùng tương đương nhau dao động từ 0,2
– 0,3 %/ngày. Như vậy, bột đậu nành có khả năng thay thế 50% men bánh mì góp
phần nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng luân trùng. Nghiên cứu đã làm phong
phú nguồn thức ăn cho luân trùng và hạ chi phí sản xuất luân trùng cũng như chi phí
trong ương nuôi các ấu trùng hải sản.

5
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
theo khuôn khổ của đề tài: Nghiên cứu khả năng thay thế men bánh mì bằng bột đậu
nành trong nuôi luân trùng. Và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho
bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.

Ngày 22 tháng 7 năm 2010
(Ký tên)


NGUYỄN THỊ THÚY AN

6
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
CAM KẾT KẾT QUẢ iii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vi

DANH SÁCH HÌNH vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT viii
CHƯƠNG 1 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG 2 3
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1. Lịch sử nghiên cứu luân trùng nước lợ (Brachionus plicatilis) 3
2.2. Đặc điểm sinh học và sinh sản của luân trùng 3
2.2.1. Đặc điểm phân lọai – hình thái 3
2.2.2. Đặc điểm sinh sản và chu kỳ sống 5
2.2.3. Đặc điểm sinh trưởng 7
2.2.4. Các điều kiện nuôi luân trùng 7
2.3. Sử dụng luân trùng làm thức ăn cho một số đối tượng thủy sản 8
2.4. Các hình thức nuôi luân trùng 9
2.4.1. Nuôi theo mẻ 9
2.4.2. Nuôi theo phương pháp bán liên tục 9
2.4.3. Nuôi theo phương pháp liên tục 10
2.4.4. Nuôi luân trùng với mật độ cao 10
2.4.5. Nuôi trong hệ thống tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi 11
2.5. Các loại thức ăn sử dụng cho luân trùng .11
2.5.1. Tảo
.11
2.5.2. Men bánh mì 11
2.5.3. Bột đậu nành 12
7
2.5.4. Thức ăn nhân tạo với thành phần cơ bản là men 13
2.6 Vi khuẩn và Protozoa 14

CHƯƠNG 3 15
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
3.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
3.2. Vật liệu nghiên cứu 15
3.3. Phương pháp nghiên cứu 15
3.4. Các chỉ tiêu theo dõi 16
3.4.1. Chỉ tiêu thủy lý hóa 16
3.4.2. Chỉ tiêu sinh học 16
3.5. Xử lý số liệu 16
CHƯƠNG 4 17
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 17
4.1 Các yếu tố môi trường 17
4.1.1 Nhiệt độ 17
4.1.2 pH 17
4.1.3 Độ mặn 17
4.2 Sự phát triển của luân trùng 18
4.2.1 Mật độ 18
4.2.2 Hệ số trứng 21
4.2.3 Tốc độ tăng trưởng đặc thù 23
4.3 Hiệu quả kinh tế 24
CHƯƠNG 5 26
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 26
5.1 Kết luận 26
5.2 Đề xuất 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
PHỤ LỤC A
8
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 So sánh thành phần amino acid trong đậu nành với tảo Chlorella 13

Bảng 4.1 Biến động giá trị trung bình của pH, nhiệt độ và nồng độ muối 17
Bảng 4.2 Các chỉ tiêu sinh học của luân trùng trong thí nghiệm 18
Bảng 4.3 Mật độ luân trùng (cá thể/ml) của các nghiệm thức trong thí nghiệm 19
Bảng 4.4 Hệ số trứng (%) của các nghiệm thức trong thí nghiệm 21
Bảng 4.5 Tốc độ tăng trưởng đặc thù (%/ngày) của luân trùng 23
Bảng 4.6 Chi phí sản xuất 1 tỉ luân trùng 25
9
DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Đặc điểm cấu tạo của Brachionus plicatilis 4
Hình 2.2 Hình dạng 2 dòng luân trùng S và L 5
Hình 2.3 Vòng đời của luân trùng 6
Hình 4.1 Mật độ luân trùng trong thí nghiệm 20
Hình 4.2 Hệ số trứng của luân trùng 22
10
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
EPA Eicosapentaenoic acid
DHA Docosahexaenoic acid
LNA Linoleic acid
VCK vật chất khô
NT1 Nghiệm thức 1 (cho ăn hoàn toàn bằng men bánh mì)
NT2 Nghiệm thức 2 (men bánh mì 75% + bột đậu nành 25%)
NT3 Nghiệm thức 2 (men bánh mì 50% + bột đậu nành 50%)
NT4 Nghiệm thức 2 (men bánh mì 25% + bột đậu nành 75%)
NT5 Nghiệm thức 5 (cho ăn hoàn toàn bằng bột đậu nành)
TB Trung bình
MĐCĐ Mật độ cực đại
11
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1 Giới thiệu
Hiện nay, thức ăn tự nhiên đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành công trong
ương nuôi nhiều đối tượng thủy sản, đặc biệt ở giai đoạn ấu trùng. Trong sản xuất
giống, thức ăn và kỹ thuật cho ăn khi ương ấu trùng là vấn đề rất quan trọng. Mặc dù
có nhiều kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất thức ăn nhân tạo nhưng những thức ăn tươi
sống như tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành, Artemia,… vẫn được xem là thức ăn
quan trọng và có tiềm năng rất lớn trong sản xuất giống (Trần Thị Thanh Hiền và csv.,
2009).
Trong các nhóm trên, luân trùng (Brachionus plicatilis) là thức ăn rất thích hợp cho ấu
trùng các loài thủy sản như ấu trùng cua biển, cá biển. Chúng là thức ăn tươi sống có
giá trị dinh dưỡng cao vì những đặc tính như hàm lượng dinh dưỡng cao, vận động
chậm, sống lơ lửng trong nước và kích thước nhỏ (50 - 200µm) phù hợp với ấu trùng
cá biển và giáp xác (Snell et al., 1984).
Luân trùng là loài ăn lọc nên dễ dàng bổ sung chất dinh dưỡng cho ấu trùng tôm, cá
thông qua việc giàu hóa luân trùng với các acid béo thiết yếu, vitamin, protein, chất
kháng sinh,… (Lubzens et al., 1989).
Kỹ thuật nuôi luân trùng đã được nghiên cứu trong hơn 40 năm qua với nhiều hình
thức nuôi khác nhau từ nuôi nước tĩnh đến nước chảy, nước tuần hoàn bằng nhiều loại
thức ăn phong phú như tảo, thức ăn nhân tạo như men bánh mì, bột đậu nành, Protein
Selco ở dạng khô, (Fukusho, 1989).
Tảo là thức ăn tốt nhất có giá trị dinh dưỡng cao đối với luân trùng, trong đó tảo
Chlorella được sử dụng nhiều nhất trong các hệ thống nuôi nhờ tốc độ sinh trưởng
nhanh (Hagiwata et al., 2001). Tuy nhiên nếu cho luân trùng ăn hoàn toàn bằng tảo thì
giá thành rất đắt. Ngược lại, nếu sử dụng men bánh mì, bột đậu nành sẽ hạ giá thành
rất nhiều do không tốn thêm bể nuôi tảo, ít tốn công lao động và chủ động được nguồn
thức ăn. Vì thế, men bánh mì ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn. Bên cạnh đó, bột
đậu nành được biết đến là nguồn thức ăn giàu đạm, nhiều muối khoáng và vitamin
được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu chế biến thức ăn thủy sản. Và bột đậu nành
đuợc sử dụng để nuôi luân trùng nhằm giảm chi phí sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế
cho quá trình ương nuôi ấu trùng hải sản.

Từ thực tế trên, đề tài: “Nghiên cứu khả năng thay thế men bánh mì bằng bột đậu
nành trong nuôi luân trùng” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
12
Tìm ra khẩu phần cho ăn thích hợp nhất giữa hai loại thức ăn và khả năng thay thế
men bánh mì bằng bột đậu nành mà vẫn đảm bảo chất lượng dinh dưỡng.
1.3 Nội dung nghiên cứu
1) So sánh năng suất và chất lượng của luân trùng khi cho ăn bằng men bánh mì,
bột đậu nành và khi kết hợp hai loại thức ăn này với nhau.
2) Xác định khả năng thay thế men bánh mì bằng bột đậu nành với các tỷ lệ khác
nhau.






















13
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Lịch sử nghiên cứu luân trùng nước lợ (Brachionus plicatilis)
Vào đầu những năm 1950, luân trùng Brachionus plicatilis lần đầu tiên được chú ý ở
Nhật vì sự phát triển sinh khối một cách đột ngột của nó làm suy giảm chất lượng
nước trong các bể nuôi cá chình và gây chết cá hàng loạt. Qua sự kiện này mà B.
plicatilis trở thành một trong các đối tượng nghiên cứu trong nuôi trồng thuỷ sản vào
lúc đó (Hirata et al., 1979 và Fukusho, 1989). Các nghiên cứu ban đầu của Ito (1960)
cho thấy B. plicatilis là thức ăn tốt cho ấu trùng cá nước mặn và từ đó các kỹ thuật
nuôi sinh khối luân trùng bắt đầu được nghiên cứu (Trần Công Bình, 2005)
Lần đầu tiên B. plicatilis được nuôi sinh khối ở Nhật vào năm 1964, luân trùng được
cho ăn bằng tảo Nanochloropsis occulata và nuôi theo phương pháp chuyển bể mỗi
ngày (Hirata et al., 1979). Với phương pháp này, chi phí sản xuất lớn, giá thành luân
trùng cao. Năm 1967, Hirata nghiên cứu nuôi luân trùng bằng men bánh mì
(Saccharomyces cerevisiae) nhằm hạ giá thành và đến những năm 1970 việc nuôi luân
trùng bằng men bánh mì đã được ứng dụng rộng rãi.
Ở Mỹ, Theilacker (1971) lần đầu tiên công bố nghiên cứu về chất lượng luân trùng
nuôi bằng các giống loài tảo khác nhau vào năm 1971. Theo Nagata (1989), luân trùng
nước lợ hiện được nuôi làm thức ăn cho ấu trùng của hơn 60 loài cá nước mặn và 18
loài giáp xác trên khắp thế giới.
Ở Trung Quốc, hầu hết các nghiên cứu về luân trùng Brachionus plicatilis làm thức ăn
cho ấu trùng cá biển được tiến hành từ năm 1980, (Chen, 1991; trích dẫn bởi Nguyễn
Văn Hạnh, 2007). Nuôi luân trùng ở Đài Loan đã trở thành nghề nuôi thương phẩm để
phục vụ cho việc sản xuất 11 loài cá biển (Liao, 1991; trích dẫn bởi Dương Thị Hoàng
Oanh, 2005).
2.2 Đặc điểm sinh học và sinh sản của luân trùng
2.2.1 Đặc điểm phân loại - hình thái

Theo Pechenik (2000), hệ thống phân loại của luân trùng như sau:
Ngành : Rotifera
Lớp : Monogononta
Bộ : Ploima
Họ : Brachionidae
14
Giống : Brachionus
Loài : Brachionus plicatilis (Muller)
Luân trùng có kích thước từ 100-340µm (Dhert, 1996) có dạng hình trứng dài, hơi dẹp
theo hướng lưng bụng. Bờ bụng trước có 4 gai dạng u lồi giữa có khe hình chữ V. Cơ
thể có khoảng 1000 tế bào, lớn lên không phải do sự phân chia của tế bào mà do
nguyên sinh chất tăng lên. Luân trùng có cấu tạo gồm 3 phần: đầu, thân và chân.
• Ðầu có vòng tiêm mao có chức năng bơi lội và thu gom thức ăn.
• Thân luân trùng có ống tiêu hóa, hệ bài tiết và hệ sinh dục.
Hệ tiêu hoá: Luân trùng thu thức ăn nhờ vòng tiêm mao sau đó vào trong miệng và
đến hàm nghiền. Thức ăn sẽ được hàm nghiền cắt, nghiền rồi đi vào thực quản, dạ dày,
ruột và hậu môn (Nogrady, 1993).
Hệ bài tiết: Luân trùng bài tiết chủ yếu là chất thải có nguồn gốc đạm (phần lớn là
ammonia)
.
Sự chuyển động của tiêm mao ở các tế bào ngọn lửa (flame cells) tạo nên
dòng chảy nhỏ các chất lỏng bài tiết vào trong các túi và chảy vào bàng quang sau đó
được bài tiết ra ngoài thường xuyên và đều đặn (Nogrady, 1993).
Hệ sinh dục: Cơ quan sinh dục của con cái bao gồm 3 phần: buồng trứng, chất noãn
hoàng và lớp nang. Ngay từ khi mới sinh ra, số lượng trứng đã có sẵn trong buồng
trứng.
• Chân: có dạng vòng đàn hồi, không đốt, ở cuối có 1 hay 4 ngón.

Hình 2.1: Đặc điểm cấu tạo của Brachionus plicatilis (Dhert, 1996)
15

Dựa vào các đặc điểm hình thái khác nhau, người ta phân loại ra 2 dòng Brachionus là
dòng nhỏ (dòng S) và dòng lớn (dòng L).
Luân trùng dòng S là Brachionus rotundiformis, có chiều dài vỏ giáp từ 100-210 µm
(trung bình là 160 µm). Trên vỏ giáp có gai nhọn.
Luân trùng dòng L là Brachionus plicatilis, có chiều dài vỏ giáp từ 130-340 µm (trung
bình là 239 µm). Trên vỏ giáp có các gai góc tù.
Luân trùng dòng S và L sinh trưởng với tốc độ khác nhau, có khả năng chịu đựng
nhiệt độ khác nhau và có nhiệt độ sinh trưởng tối ưu khác nhau (Fushuko, 1989).
Dòng S sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 28-35
o
C. Dòng L đạt sinh trưởng tối ưu ở
nhiệt độ từ 18-25
o
C.
Ngoài ra sự biến đổi về hình thái giữa các loài còn phụ thuộc vào độ mặn hoặc chế độ
cho ăn. Những luân trùng cho ăn bằng men bánh mì thường lớn hơn những luân trùng
được cho ăn bằng tảo tươi (Dhert, 1996).
















Hình 2.2: Hình dạng hai dòng luân trùng S và L (Dhert, 1996).
2.2.2 Đặc điểm sinh sản và chu kì sống
Tuổi đời luân trùng từ 3,4 - 4,4 ngày. Ở nhiệt độ 25
o
C sau 0,5 – 1,5 ngày ấu trùng bắt
đầu trở thành cơ thể trưởng thành và sau đó con cái đẻ liên tục khoảng 4 giờ lại đẻ
trứng 1 lần. Các con cái có thể sinh sản 10 thế hệ con con trước khi chết. Hoạt động
sinh sản của luân trùng phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường (Dhert, 1996).
Con đực có kích thước nhỏ hơn con cái và không có cơ quan tiêu hóa. Cơ quan giao
cấu của con đực chứa đầy tinh dịch. Con cái cũng có 2 dạng là con cái đơn tính và con
cái hữu tính (Dhert, 1996).
Vòng đời của luân trùng có sự luân phiên giữa 2 hình thức sinh sản (hình 2.3)

16
Sinh sản đơn tính: con cái vô tính sẽ sinh ra trứng lưỡng bội (2n) và sẽ phát triển thành
con cái vô tính. Con cái này sinh sản với tốc độ nhanh, nhịp sinh sản khoảng 4 giờ
dưới điều kiện thuận lợi. Tốc độ sinh sản phụ thuộc vào điều kiện nuôi và tuổi của
luân trùng. Đây là hình thức sinh sản nhanh nhất để tăng quần thể luân trùng và là
hình thức quan trọng trong hệ thống nuôi luân trùng.
Sinh sản hữu tính: Trong vòng đời của luân trùng, khi có sự biến động đột ngột của
điều kiện môi trường như nhiệt độ, nồng độ muối, … luân trùng sẽ chuyển sang hình
thức sinh sản hữu tính. Trong quá trình này xuất hiện cả con cái vô tính và con cái hữu
tính, chúng đều có hình thái giống nhau, khó phân biệt tuy nhiên con cái hữu tính sẽ
sinh ra trứng đơn bội (1n). Con cái hữu tính có 3 kiểu sinh sản:
- Con non sinh ra từ những trứng đơn bội không thụ tinh sẽ phát triển thành con đực.
Con đực có kích thước bằng 1/3 kích thước con cái. Chúng không có ống tiêu hoá và
bàng quang nhưng có tinh hoàn đơn với nhiều tinh trùng thành thục.
- Trứng nghỉ: là trứng đơn bội đã thụ tinh. Trứng nghỉ có vách tế bào dày giúp nó chịu

đựng qua điều kiện khắc nghiệt và khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ nở thành con cái vô
tính
- Con cái vô tính.




Hình 2.3: Vòng đời của luân trùng (Dhert, 1996)
17
2.2.3 Đặc điểm sinh trưởng
Luân trùng B. plicatilis là loài ăn lọc không chọn lọc, thức ăn có kích thước 20-25µm
mang đến miệng nhờ sự chuyển động của vòng tiêm mao (Dhert, 1996) thông qua
hoạt động bơi lội. Trong tự nhiên, các loại thức ăn thường được luân trùng sử dụng là
tảo, vi khuẩn, nấm men, chất hữu cơ lơ lửng trong nước.
2.2.4 Các điều kiện nuôi luân trùng
2.2.4.1 Độ mặn
Luân trùng Brachionus plicatilis là loài rộng muối, chúng có thể chịu đựng trong
khoảng 1- 67 ppt (Hoff, 1989), đôi khi cả 97 ppt (Trần Ngọc Hải, 2004 ; trích dẫn bởi
Nguyễn Văn Hạnh, 2007). Tuy nhiên, độ mặn từ 10 – 20 ppt

là tốt nhất cho sự tăng
trưởng của luân trùng.
James (1990) cho rằng độ mặn 20 ppt tốt cho luân trùng loại nhỏ (S- type) và 30 ppt
tốt cho luân trùng loại lớn (L- type). Ở độ mặn thấp 5 ppt luân trùng cũng có vỏ bao
dày hơn ở độ mặn 30 ppt (Jame, 1990; trích dẫn bởi Fulks et al., 1991).
2.2.4.2 Nhiệt độ
Luân trùng khá rộng nhiệt, khoảng nhiệt độ thích hợp 15 – 35
o
C. Nhiệt độ dưới 10
o

C
luân trùng sẽ hình thành trứng nghỉ và quần thể tàn lụi (Fukusho, 1989).
Nhiệt độ nuôi luân trùng phụ thuộc vào kiểu hình thái của chúng. Kiểu L được nuôi ở
nhiệt độ (18 - 25
o
C) thấp hơn so với luân trùng kiểu S (28 - 35
o
C). Nói chung khi tăng
nhiệt độ trong pham vi tối ưu thường dẫn đến tăng hoạt động sinh sản. Tuy nhiên nuôi
luân trùng ở nhiệt độ cao sẽ làm tăng chi phí thức ăn. Ở nhiệt độ cao luân trùng sẽ tiêu
thụ rất nhanh nguồn carbonhydrate và chất béo dự trữ (Dhert,1996).
2.2.4.3 pH
Trong tự nhiên luân trùng có thể sống ở pH từ 5 -10 (Fulks et al., 1991), thích hợp
nhất ở 7,5-8,5 (Hoff, 2004). Yu (1986) thì cho rằng luân trùng đạt mật độ cao nhất ở
pH từ 7,3 - 7,8. Theo Winston (1987) thì pH từ 6,5 – 8,5 thì không ảnh hưởng gì lên
sự tăng trưởng của quần thể luân trùng ( Nguyễn Văn Hạnh, 2007).
2.2.4.4 Ánh sáng
Cường độ ánh sáng 2000 lux, chu kỳ chiếu sáng 18 giờ sáng:6 giờ tối mỗi ngày (Hoff,
1989). Fukusho (1989) cho rằng, ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng lên luân trùng thì
chưa rõ. Theo Fulks et al. (1991), ánh sáng kích thích sự phát triển của luân trùng nhờ
vào sự gia tăng phát triển của vi khuẩn quang hợp và tảo trong bể nuôi.
18
2.2.4.5 NH
3

NH
3
gây độc đối với động vật thủy sinh nhưng với nồng độ 1mg/l được xem là an tòan.
Hàm lượng N-NH
3

trong hàm lượng tổng cộng N-NH
4
+
(TAN) có phụ thuộc vào pH
và nhiệt độ nước (Dhert, 1996).
2.2.4.6 N-NO
2
-

Theo Groeneweg et al. (1981), hàm lượng N-NO
2
-
đạt từ 10-20ppm không gây độc
đối với luân trùng Brachionus rubens. Lubzens (1987) cho rằng ở nồng độ 90 - 140
ppm N-NO
2
-
gây độc đối với luân trùng.
2.2.4.7 Oxy
Luân trùng có thể chịu đựng oxy dưới 2ppm. Nồng độ oxy sẽ thay đổi theo nhiệt độ,
độ mặn, mật độ, loại thức ăn và mật độ thức ăn. Nhu cầu tiêu thụ oxy còn phụ thuộc
vào loại thức ăn và nhiệt độ (Fulks et al., 1991).
2.3 Sử dụng luân trùng làm thức ăn cho một số đối tượng thủy sản
Luân trùng là loài động vật có kích thước nhỏ nên thích hợp làm thức ăn cho các loài
cá và giáp xác con có kích cỡ miệng nhỏ. Nhiều loài luân trùng có kích thước nhỏ
như: Brachionus plicatilis, B. calicyflorus, B. rotundiformis, B. angularis,… do đó khi
sử dụng luân trùng làm thức ăn tự nhiên trong quá trình ương nuôi một số loài cá và
giáp xác thì thấy rằng tỷ lệ sống của chúng tăng lên khá cao, cụ thể là khi ương nuôi
cua Aphyosemion gardneri có bổ sung luân trùng làm thức ăn từ 5 đến 35 ngày tuổi thì
tỷ lệ sống của cua đạt 80% (Arimoto và Ofojekwe, 2003) và tỷ lệ sống của loài cá

Lota lota khi ương nuôi có bổ sung luân trùng là 69,2% (Shin và csv., 2003; trích dẫn
bởi Nguyễn Tấn Khương, 2008).
Zheng et al. (1994), nghiên cứu khả năng tiêu hóa hấp thụ và sử dụng các thức ăn
khác nhau gồm luân trùng, Artemia và Platymonas subcordiformis của tôm he Nhật
Bản và ông nhận thấy rằng: luân trùng là một trong những loại thức ăn thích hợp nhất
cho ấu trùng tôm he ở giai đoạn Mysis 3. Tỷ lệ sống và sức tăng trưởng của ấu trùng
tôm Penaeus semisulcatus cho ăn Artemia hoặc luân trùng cũng được Sarmocha
nghiên cứu, ông thấy rằng ấu trùng tôm cho ăn luân trùng có thể đạt tỷ lệ sống cao
nhưng năng lượng lấy vào giảm vì trọng lượng khô của luân trùng thấp hơn. Bên cạnh
đó, luân trùng còn được sử dụng rộng rãi làm thức ăn trong ương nuôi ấu trùng tôm
Penaeus monodon, P. indicus và P. merguiensis cho kết quả tốt (Nguyễn Văn Hạnh,
2007)
Luân trùng có thể cho ấu trùng tôm sú ăn ở giai đoạn Mysis với mật độ 20 con/ml,
điều đó sẽ rất quan trọng nếu chúng được giàu hóa với axit béo cao không no (HUFA)
(Nguyễn Thanh Phương, 2004; trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hạnh, 2007).
19
Khi nghiên cứu về khả năng thay thế Artemia bằng luân trùng Brachionus plicatilis
trong ương ấu trùng tôm càng xanh Macrobrachium rosenbergii, Lovett et al., (1998)
thấy rằng khi bổ sung luân trùng không làm tăng nhanh quá trình phát triển của ấu
trùng tôm (Trích dẫn bởi Trần Thị Thanh Hiền và csv, 2009). Theo tổng hợp của Trần
Thị Thanh Hiền và csv, 2009, Villegas (1991) khi nghiên cứu về sức tăng trưởng và
năng suất của cá măng bột (Chanos chanos) được cho ăn luân trùng dạng tươi và đông
lạnh thì không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai dạng thức ăn này.
Luân trùng là thức ăn phù hợp cho ấu trùng cua biển ở giai đoạn zoae 1 và 2. Sự phối
hợp 3 loại thức ăn là luân trùng, tảo, Artemia kết quả cho tỷ lệ sống cao nhất (Nguyễn
Cơ Thạch và csv, 2004). Theo Trương Trọng Nghĩa (2005) sử dụng luân trùng để
ương ấu trùng cua biển Sylla paramamosain ở các giai đoạn khác nhau từ zoae 1 đến
zoa 5 kết quả cho thấy luân trùng phù hợp cho ấu trùng cua biển Sylla paramamosain
giai đoạn zoae 1 và zoae 2. Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu đều chứng minh rằng
luân trùng là thức ăn rất quan trọng cho ấu trùng cua đặc biệt ở các giai đoạn đầu của

ấu trùng (Trần Thị Thanh Hiền và csv, 2009).
2.4 Các hình thức nuôi luân trùng
2.4.1 Nuôi theo mẻ
Luân trùng nuôi theo mẻ bằng cách cho luân trùng vào bể tảo với mật độ luân trùng và
tảo tương ứng là 100 cá thể/ml và 13- 14x10
8
tế bào/ml. Độ mặn 23 ppt và nhiệt độ
duy trì ở 30
o
C. Ngày đầu tiên, mỗi ngày 2 lần cho men bánh mì vào bể với số lượng
0,25g/ triệu luân trùng. Ngày hôm sau các bể được đổ đầy hoàn toàn bằng tảo với
cùng một mật độ tảo và một ngày hai lần cho một lượng men bánh mì là 0,375 g/triệu
luân trùng vào bể. Ngày kế tiếp tiến hành thu hoạch và cấy tiếp vào bể mới (chu kỳ
nuôi từ 2-3 ngày) (Dhert, 1996).
Snell (1991) cho rằng nuôi luân trùng theo mẻ là phương pháp nuôi quảng canh, thể
tích bể cần nhiều nhưng không sử dụng hết, mất nhiều ngày để thu hoạch, nước nuôi
được loại bỏ, dụng cụ nuôi được tiệt trùng và sau đó luân trùng được thả lặp lại và
sinh trưởng một thời gian ngắn trước khi thu hoạch toàn bộ. So với các phương pháp
khác thì đây là phương pháp ít rủi ro nhưng không có hiệu quả vì hao phí nhân công,
thời gian, dụng cụ và phương tiện lao động (Dương Thị Hoàng Oanh, 2005).
2.4.2 Nuôi theo phương pháp bán liên tục
Theo Lubzens (1987) hệ thống nuôi bán liên tục gồm các bể có thể tích nhỏ từ vài
chục lít đến 200m
3
nhưng nuôi với mật độ cao. Vì vậy, nuôi bằng phương pháp này
môi trường rất mau dơ do thức ăn dư thừa và các chất vẩn nên trong hệ thống này cần
lắp đặt các bộ phận lọc nhằm cải thiện chất lượng nước nuôi (Dương Thị Hoàng Oanh,
20
2005). Bể nuôi luân trùng khi đạt mật độ cao thì được thu hoạch một phần sau đó
thêm tảo và thức ăn vào để nuôi tiếp. Khi mật độ luân trùng cao thì thu hoạch tiếp và

cứ thế tiếp tục.
Đối với phương pháp này luân trùng được giữ trong cùng một bể trong thời gian 5
ngày. Hai ngày đầu tiên mỗi ngày tăng gấp đôi khối lượng nuôi để làm loãng mật độ
luân trùng xuống một nửa. Trong những ngày tiếp theo, tiến hành thu hoạch nửa khối
lượng luân trùng trong bể, sau đó lại đổ luân trùng lại vào bể để làm giảm mật độ luân
trùng xuống còn một nửa. Ngày thứ năm tiến hành thu hoạch và tiến hành lặp lại trình
tự như trên (hệ thống nuôi bán liên tục trong 5 ngày) (Lavens et al., 1996).
2.4.3 Nuôi theo phương pháp liên tục
Nuôi sinh khối luân trùng theo phương pháp liên tục thì qui mô nhỏ hơn phương pháp
nuôi mẻ nhưng hiệu quả thâm canh hơn. Đây là phương pháp có hiệu quả để sản xuất
ra luân trùng chất lượng cao. Mô hình này luôn khép kín chỉ áp dụng trong phòng nên
hạn chế ở qui mô nhỏ và đòi hỏi điều kiện thiết bị máy móc nên chi phí cao.
Theo Dương Thị Hoàng Oanh (2005), mô hình nuôi liên tục tiến bộ nhất là mô hình
kết hợp với bình chemostat. Bình chemostat hoạt động trên nguyên tắc giới hạn hàm
lượng thức ăn và tỉ lệ cho ăn. Hàm lượng thức ăn cho vào và lượng luân trùng thu
hoạch sẽ được tính toán trước và duy trì ổn định. Một lượng luân trùng cố định sẽ
được đem ra và bù vào bằng lượng thức ăn cố định. Như vậy, bình chemostat duy trì
tốc độ sinh trưởng của luân trùng ổn định bằng cách cung cấp đều đặn thức ăn chứ
không duy trì mật độ cá thể.
Theo James (1989) thì thuận lợi của phương pháp này là kiểm soát được lượng chất
vẩn và chất lượng nước, kiểm soát sức sản xuất của luân trùng hằng ngày, tốn ít nước,
ít tảo và tiết kiệm nhân công. Trong phương pháp này luân trùng được cho ăn tảo và
men bánh mì, chúng được cung cấp liên tục theo một tỉ lệ đã xác định trước. Bể nuôi
được pha loãng hằng ngày bằng một thể tích nước nhất định và đồng thời thu hoạch
luân trùng theo thể tích này mỗi ngày (Dương Thị Hoàng Oanh, 2005).
2.4.4 Nuôi luân trùng với mật độ cao
Tuy nuôi luân trùng với mật độ cao sẽ làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường nuôi làm
giảm tốc độ sinh trưởng do bắt đầu sự sinh sản hữu tính nhưng phương pháp này đã
thu được kết quả hứa hẹn trong điều kiện nuôi có kiểm soát.
Kỹ thuật nuôi cũng giống như kỹ thuật áp dụng để nuôi hàng loạt bằng thức ăn

Culture Selco nhưng sau mỗi chu kỳ 4 ngày mật độ luân trùng không phải điều chỉnh
lại. Thức ăn được điều chỉnh 0,25- 0,3g/ triệu luân trùng cho các mật độ giữa 500 và
1500 luân trùng/ml và ở mức 0,2g cho các mật độ trên 1500 luân trùng/ml. Nuôi luân
trùng mật độ cao ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ trứng. Tỷ lệ trứng giảm từ mức độ
21
trung bình 30% ở mật độ 150 luân trùng/ml xuống còn 10% ở mật độ 2000 luân
trùng/ml và dưới 5% ở mật độ 5000 luân trùng/ml. Vì vậy hệ thống này chỉ được sử
dụng trong các điều kiện được kiểm soát tốt (Lavens et al., 1996).
2.4.5 Nuôi luân trùng trong hệ thống tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi
Nghiên cứu thiết lập hệ thống nuôi luân trùng tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi
bước đầu đã thực hiện tại Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Cần Thơ. Hệ thống nuôi
được thiết lập trên cơ sở kết hợp hệ thống nuôi luân trùng tuần hoàn và kỹ thuật sản
xuất nước xanh từ cá rô phi. Thử nghiệm bước đầu của Hàn Thanh Phong (2002), cho
thấy luân trùng có thể phát triển tốt trong hệ thống tuần hoàn kết hợp với bể nước
xanh (tảo Chlorella và cá rô phi) mà không cần cho luân trùng ăn (chỉ sống nhờ tảo
Chlorella từ bể nước xanh), với tỉ lệ thể tích bể nước xanh/bể nuôi luân trùng là 15:1,
mật độ luân trùng cao nhất đạt đến 1,478±96 ct/ml vào ngày nuôi thứ 7.
2.5 Các loại thức ăn sử dụng cho nuôi luân trùng
Luân trùng là loài ăn lọc, thức ăn chủ yếu là tảo phiêu sinh: Chlorella, Nanochloropsis,
… Chúng còn có khả năng ăn nhiều loại thức ăn khác như men, bột đậu nành, thức ăn
nhân tạo. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn quyết định chất lượng của luân trùng. Thức
ăn sử dụng cho luân trùng hàm lượng dinh dưỡng dao động trong khoảng 52 - 59%
protein, trên 13% lipid và 3% n-3 HUFA (Dhert, 1996).
2.5.1 Tảo
Những loài tảo thường làm thức ăn cho luân trùng Chlorella, Tetraselmis,
Chlamidomonas, Dunadiella, Nanochloropsis, Phaeodoaetilum, Nitzchia,…Trong đó
quan trọng nhất là Chlorella, Nannochloropsis vì những loài này chứa nhiều HUFA
tốt cho các đối tượng tôm cá nuôi (Nguyễn Văn Hạnh, 2007).
Ở một số loài tảo có chứa hàm lượng các acid béo thiết yếu rất cao như
Eicosapentaenoic acid (EPA 20:5n-3) và Docosahexaenoic acid (DHA 22:6n-3), vì

vậy chúng được xem là thức ăn tươi sống rất tốt bổ sung hàm lượng acid béo cho luân
trùng (Nguyễn Văn Hạnh, 2007).
2.5.2 Men bánh mì
Men bánh mì là loại thức ăn rất tiện lợi cho nuôi sinh khối luân trùng, nhất là khi nuôi
tảo gặp khó khăn. Men bánh mì là những tế bào nấm men có kích thước 5 - 7µm có
hàm lượng đạm cao từ 45- 52% và rẻ tiền được sử dụng làm thức ăn cho luân trùng
(Komis, 1992).
Tuy nuôi luân trùng bằng men bánh mì sẽ làm nước mau dơ, năng suất không ổn định
như cho ăn bằng tảo (Dương Thị Hoàng Oanh, 2005). Nhưng nuôi bằng men bánh mì
22
sẽ ít tốn công lao động, không tốn nhiều dụng cụ do phải nuôi tảo, chủ động được
nguồn thức ăn. Cho ăn bằng men tươi tốt hơn men khô nhưng lại khó quản lý chất
lượng nước hơn.
Theo Hirayama et al. (1973), tốc độ sinh sản của luân trùng được cho ăn men bánh mì
và tảo Nanochloropsis với tỉ lệ 1:1 thì tương đương với luân trùng được cho ăn đơn
thuần loại tảo này. Vì vậy khi nuôi luân trùng bằng men bánh mì chúng ta nên kết hợp
với cho ăn tảo Nanochloropsis với một tỉ lệ nhất định trong khẩu phần ăn nhằm nâng
cao chất lượng luân trùng ( Nguyễn Văn Hạnh, 2007).
Theo Dương Thị Hoàng Oanh và csv (2006), luân trùng ăn hoàn toàn bằng men bánh
mì tăng trưởng không sai khác gì so với luân trùng nuôi bằng thức ăn đặc chế Culture
Selco 3000 cả về mật độ luân trùng hàng ngày, hệ số trứng trung bình và tốc độ tăng
trưởng đặc thù.
Nuôi luân trùng siêu nhỏ bằng men bánh mì đạt mật độ tương đương với luân trùng
cho ăn bằng tảo Chlorella. Tuy nhiên nếu chọn tảo Chlorella làm thức ăn cho luân
trùng thì gặp một số hạn chế như chi phí sản xuất cao đồng thời tốn nhiều thời gian và
công sức để nuôi cấy tảo, cô đặc tảo và quản lý hệ thống nuôi, chưa kể tới trường hợp
do ảnh hưởng các điều kiện môi trường bên ngoài mà tảo không phát triển được.
Ngoài ra, để có đủ số lượng tảo Chlorella cung cấp cho luân trùng thì cần thể tích bể
gấp 2 – 3 lần cho nên chỉ còn 20 – 30% tổng số bể là dùng để ương cá, vì thế vật dụng
để sản xuất ra tảo làm hạn chế việc ương nuôi cá. Vì vậy, để sản xuất ra một số lượng

lớn luân trùng thì việc chọn men bánh mì làm thức ăn cho luân trùng là phù hợp
(Nguyễn Thị Kim Liên và csv, 2008).
2.5.3 Bột đậu nành
Bột đậu nành được sử dụng làm thức ăn cho động vật thủy sản hiện nay chủ yếu là bột
đậu nành ly trích dầu có hàm lượng protein khoảng 47- 50%, lipid không quá 3%,
giàu muối khoáng và vitamin nhất là các vitamin tan trong chất béo tốt (Trần Thị
Thanh Hiền và csv, 2009). Tuy bột đậu nành thiếu Methionine, Cystine nhưng giàu
Lecithin và acid béo LNA (Linolenic acid 18: 3n-3) một loại tiền chất để tổng hợp nên
EPA và DHA. Vì vậy, bột đậu nành cũng rất thích hợp để nuôi luân trùng.
Bột đậu nành có hai loại:
- Bột đậu nành đã tách chất béo (còn chất béo không quá 3%), được nghiền
mạnh từ khô đậu nành trích ly, là nguồn cung cấp đạm có giá trị dinh dưỡng
cao.
- Bột đậu nành chưa tách béo được nghiền từ hạt đậu nành đã qua xử lý nhiệt, có
chất béo cao (17 – 18%) nhưng đạm lại thấp (37- 38%) (Dương Tấn Lộc, 2007)
23
Giá trị sinh học của đạm đậu nành gần tương đương với đạm động vật. Trong đậu
nành có chứa Lecithin là một loại phospho lipid có tác dụng tăng trưởng và làm tăng
tỷ lệ sinh trưởng. Ngoài ra, bột đậu nành còn giàu các nguyên tố khác như Ca, Mg, Zn,
Mn, Cu. Vì thế, bột đậu nành cũng được xem là nguồn thức ăn tốt cho luân trùng vì
chúng rất giàu đạm và nhất là các acid amin không thay thế: Lysine, Tryptophan và
những acid amin thường bị thiếu trong thức ăn có nguồn gốc thực vật (Dương Tấn
Lộc, 2007). Amino acid trong bột đậu nành rất cao có thể so sánh với tảo Chlorella –
một loại thức ăn được xem là tốt nhất để nuôi luân trùng.

Bảng 2.1 So sánh thành phần amino acid trong đậu nành vài tảo Chlorella (%VCK)
Amino acid thiết yếu Đậu nành nguyên Chlorella vulgaris
Arginine
Histidine
Isoleucine

Leucine
Lysine
Methionine
Phenylalanine
Threonine
Tryptophan
Valine
7,44
2,58
5,31
7,08
6,30
1,29
5,20
4,18
1,44
4,97
6,9
2,0
3,2
9,5
6,4
1,3
5,5
5,3
2,8
7,0
Nguồn: Becker, 1986 (trích dẫn bởi Lê Thanh Hùng, 2008)
2.5.4 Thức ăn nhân tạo với thành phần cơ bản là men
Hiện có nhiều loại thức ăn nhân tạo đặc chế cho luân trùng được bán trên thị trường.

Các thức ăn này có thành phần chủ yếu là men bánh mì được bổ sung dinh dưỡng như
các amino acid và các acid béo thiết yếu, các vitamin và khoáng, nhằm cân bằng dinh
dưỡng và nâng cao sinh trưởng của luân trùng. Các thành phần bổ sung trong thức ăn
nhân tạo này đều nhằm mục đích là nâng cao hoạt tính của men (Hoff, 2004).
Thức ăn nhân tạo thường dùng trong nuôi luân trùng là Selco. Selco có những đặc tính
vật lý thuận lợi cho việc bắt mồi của luân trùng là kích cở hạt nhỏ 7µm, tồn tại lâu
trong nước có sục khí mạnh, luôn trôi lơ lửng trong nước mà không bị hòa tan, thuận
tiện với việc cho luân trùng ăn một cách tự động hoá nhằm tối ưu hoá chế độ cho ăn
thay đổi theo mật độ luân trùng (Nguyễn Văn Hạnh, 2007)
24
Ở Châu Âu, người ta nuôi luân trùng bằng thức ăn Selco ở dạng khô. Thức ăn tổng
hợp này hoàn toàn có thể thay thế tảo với hàm lượng vitamin và acid béo thiết yếu cao
không no. Thành phần hóa học của nó gồm có: 45% protein, 30% carbonhydrate, 15%
lipid với 33% trong đó là n-3 HUFA và 7% là tro (Nguyễn Văn Hạnh, 2007).
Liều lượng selco cho ăn là 0,25-0,3 g/1 triệu luân trùng cho mật độ nuôi từ 500-1.500
luân trùng/mL và 0,2g cho mật độ trên 1.500 luân trùng/mL (Nguyễn Văn Hạnh,
2007).
2.6 Vi khuẩn và Protozoa
2.5.1. Vi khuẩn
Một số vi khuẩn làm thức ăn cho luân trùng như: Pseudomonas, Acinetobacter
nhưng một số loài vi khuẩn gây hại cho luân trùng như Flavobacteria, chúng hạn chế
sự phát triển của luân trùng và Vibrio alginoliticus làm chết luân trùng (Nguyễn Văn
Hạnh, 2007)
2.5.2 Ciliate
Một số loài tiêm mao trùng (ciliate), protozoa,… như: Euplotes và Vorticella. Đây là
hai loài thường xuyên gặp trong nuôi sinh khối luân trùng, chúng cạnh tranh thức ăn
và oxy với luân trùng. Đặc biệt chúng làm giảm chất lượng nước trong môi trường
sống của luân trùng, tạo nhiều hợp chất hữu cơ, làm giảm pH (Nguyễn Văn Hạnh,
2007). Tuy nhiên theo Dhert (1996) chúng có thể làm sạch nước bể nuôi khỏi vi
khuẩn và vật chất hữu cơ.







25
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành tại Khoa Sinh Học Ứng Dụng, Trường Đại Học Tây Đô.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2010.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
- Nguồn nước: Nước mặn (nước ót) có nồng độ muối 100 ppt pha với nước ngọt (nước
máy) để có nồng độ muối 25ppt. Nước 25ppt

được xử lý bằng Chlorine 30ppm và sục
khí liên tục cho đến khi hết Chlorine, sau đó dùng KI để kiểm tra hàm lượng Clo còn
lại, để lắng 24 giờ trước khi sử dụng.
- Giống: luân trùng Brachionus plicatilis được mua tại phòng thí nghiệm thức ăn tự
nhiên Khoa Thủy Sản, Trường Đại học Cần Thơ. Mật độ thả 100 cá thể/ml.
- Dụng cụ:
+ Keo thủy tinh 8 lít.
+ Kính hiển vi, cân điện tử, máy sục khí.
+ Xô nhựa, hóa chất,…
- Thức ăn: men bánh mì, bột đậu nành (liều lượng 1,5g/triệu luân trùng/ngày).
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nuôi theo mẻ: luân trùng được nuôi trong keo thủy tinh có thể tích 8 lít,
mật độ ban đầu 100 cá thể/ml, cho ăn 5 lần/ngày.
Thí nghiệm: Xác định khả năng thay thế men bánh mì bằng bột đậu nành. Thí nghiệm

có 5 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.
Nghiệm thức Men bánh mì Bột đậu nành
1 100% _
2 75% 25%
3 50% 50%
4 25% 75%
5 _ 100%

×