1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
BÁO CÁO
Đề tài
THỰC NGHIỆM KÍCH THÍCH CÁ TRÊ VÀNG SINH SẢN
VỚI LIỀU LƯỢNG LHRH-A KHÁC NHAU
Giáo viên hướng dẫn
Ts. Nguyễn Văn Kiểm
Ks. Nguyễn Thành Tâm
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Kim Yến
Lớp Nuôi Trống Thủy Sản – K1
2
CHƯƠNG I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Một số loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL) đã được nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật đến người nuôi như quy
trình sinh sản nhân tạo cá tra, cá rô đồng, cá sặc rằn, cá mè vinh, Tuy nhiên, ở
ĐBSCL còn nhiều loài cá có phẩm chất thịt ngon, giá phù hợp, tiêu thụ phổ biến ở
thị trường nội địa, nhưng chưa được nuôi rộng rãi, đặc biệt là cá Trê vàng. Cá Trê
vàng phân bố khá rộng trên thế giới, ở Đông Nam Á được phân bố nhiều ở Thái
Lan, Lào, Campuchia và ĐBSCL. Nhiều người dân cho biết cách đây khoảng 20
năm cá Trê vàng có nhiều ở ĐBSCL, nhưng ngày nay còn gặp rất ít. Nguyên nhân
vì sao có hiện tượng này vẫn chưa có câu trả lời (Trần Thị Thúy An, 2009).
Nhiều nguyên nhân dẫn đến việc nuôi cá Trê vàng chưa phát triển mạnh như sinh
trưởng chậm, quy trình nuôi chưa hoàn chỉnh, số lượng cá giống ít, hiện nay đã mở
nhiều cơ sở sản xuất giống nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Đặc biệt, nguồn cá
Trê vàng ngoài tự nhiên ngày càng giảm, nếu không can thiệp kịp thời thì trong
tương lai không xa, loài cá có giá trị kinh tế này có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Với mục tiêu lâu dài là góp phần trong việc chủ động đàn cá nuôi, bảo vệ nguồn
lợi cá tự nhiên và nhằm tăng cường nguồn giống cho các mô hình nuôi. Vì vậy đề
tài “Thực nghiệm kích thích cá Trê vàng (Clarias macrocephalus) sinh sản với
liều lượng LHRH-a khác nhau ” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu cụ thể của đề tài
Nhằm xác định tác dụng của chất kích thích LHRH-a ở liều thấp nhất tới sự sinh
sản của cá Trê vàng.
1.3 Nội dung của đề tài
So sánh một số chỉ tiêu sinh sản của cá Trê vàng dưới tác dụng của chất kích thích
LHRH-a.
3
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học cá Trê vàng
2.1.1 Hệ thống phân loại
Theo Nguyễn Tường Anh (2005) có thể phân biệt 3 loài cá Trê hiện đang nuôi ở
Nam bộ qua hình thái bên ngoài của gốc xương chẩm: cá Trê vàng (Clarias
macrocephalus) gốc xương chẩm có hình cánh cung, cá Trê trắng (Clarias
batrachus) gốc xương chẩm hình chữ V, cá Trê phi (Clarias gariepinus) gốc
xương chẩm hình chữ M. (Hình 2.1)
Hình 2.1: Phân biệt cá Trê vàng, cá Trê trắng, cá Trê phi.
(1):Trê vàng (2):Trê trắng (3): Trê phi (Nguồn: Nguyễn Tường Anh, 2005).
Ngoài ra ở gốc vi đuôi cá Trê vàng có một vạch thẳng đứng mà các loài cá Trê
khác không có (Từ Thanh Dung và ctv, 1994).
Theo hệ thống phân loại của T.S. Rass và G.T. Lindberg, 1972 (trích bởi Trần Thị
Thúy An, 2009), cá Trê vàng thuộc:
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopteryqii
Bộ: Siluriformes
Họ: Clariidae
Giống: Clarias
Loài: Clarias macrocephalus Gunther, 1864.
4
Tên tiếng anh: Yellow catfish
Tên địa phương: Cá Trê vàng
Ở Việt Nam hiện nay có 3 loài cá Trê địa phương và 1 loài cá Trê nhập nội:
Clarias macrocephalus: Phổ biến ở Nam Bộ
Clarias batrachus: Phổ biến ở Nam Bộ
Clarias fuscus: Phổ biến ở Bắc Bộ
Clarias gariepinus: nhập nội vào miền Nam vào khoảng cuối năm 1974 (Trương
Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
2.1.2 Đặc điểm phân bố
Cá Trê phân bố ở thủy vực nước ngọt của Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan,
Mã Lai, Lào, Campuchia, Philippin, và ĐBSCL Việt Nam (Trương Thủ Khoa và
Trần Thị Thu Hương, 1993).
Cá Trê vàng có cơ quan hô hấp phụ nên chịu được môi trường sống khắc nghiệt
như ao, hồ, nơi có lượng oxy hòa tan thấp. Trong tự nhiên, cá thích rúc dưới bùn,
chui trong các hang hốc (Đoàn Khắc Độ, 2008)
2.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
Cá Trê vàng có tập tính ăn tạp nhưng thiên về động vật đáy, cá rất thích ăn mồi là
xác động vật đang thối rữa. Khả năng sử dụng thức ăn chế biến cũng rất cao
(Nguyễn Văn Kiểm, 2004). Sức lớn của cá phụ thuộc vào mật độ cá thả nuôi, số
lượng và chất lượng thức ăn, điều kiện ao nuôi (Từ Thanh Dung và ctv, 1994).
Cá có tốc độ sinh trưởng tương đối chậm. Giai đoạn cá hương, cá giống thì tăng
nhanh về chiều dài, sau đó từ cỡ 15 cm trở đi tăng trọng nhanh hơn. Cá một năm
tuổi trong tự nhiên có trọng lượng trung bình 400 - 500 g/con (Phạm Văn Khánh
và ctv, 2004; trích bởi Trần Thị Thúy An, 2009)
2.1.4 Đặc điểm sinh sản
Ngoài tự nhiên cá có thể sinh sản quanh năm, cá đạt từ 8 - 10 tháng tuổi mới thành
thục và đủ khả năng sinh sản. Cá có 2 mùa vụ sinh sản chính là tháng 3 - 6 và
tháng 7 - 8 hàng năm. Sức sinh sản tương đối của cá Trê là 30.000 - 50.000
trứng/kg cá cái, nhiệt độ thích hợp cho sinh sản của cá 28 - 30
o
C (Đoàn Khắc Độ,
2008).
Vào mùa sinh sản, cá bố mẹ thường tìm đến nhiều nơi có điều kiện làm tổ như bờ
kênh, mương. Quá trình sinh sản kéo dài trên 20 giờ, cá có tập tính đẻ trứng, bảo
vệ trứng và con. Trứng được đẻ trên nền đất và dính nguyên ở đó. Ở nơi nước
5
nông, cá đẻ trứng dính vào cây cỏ thủy sinh. Trứng cá có màu vàng nâu, cá thường
đẻ vào ban đêm và thường đẻ rộ nhất vào lúc gần sáng (Huỳnh Kim Hường, 2005).
2.2 Vài nét về nghề nuôi cá trê trên thế giới
Trong số các loài cá nuôi nước ngọt và nước lợ trên thế giới, các loài cá da trơn
(tiếng Anh gọi chung là Catfish) đứng thứ 5 về sản lượng hàng năm, khoảng
350.000 tấn, với nhiều hình thức nuôi khác nhau như nuôi đơn, nuôi ghép hoặc
nuôi xen với trồng lúa và các vật nuôi khác. Mặc dù có tới hơn 2.600 loài cá da
trơn nhưng hiện chỉ có 3 họ đang được nuôi với số lượng lớn, đó là họ cá Nheo Mỹ
(Ictaluridae), họ cá Trê (Clariidae) và họ cá Tra (Pangasidae) (Huỳnh Kim Hường,
2005).
Ở Thái Lan, cá Trê trắng và Trê vàng là hai loài được nuôi phổ biến, chúng phân
bố rộng ở các vùng nước ngọt và là thực phẩm phổ biến, có giá trị kinh tế. Nuôi cá
Trê hàng năm cho thu nhập cao hơn các loài khác (Huỳnh Kim Hường, 2005).
2.3 Tình hình sản xuất giống cá Trê ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
Ở ĐBSCL, phong trào nuôi cá Trê phát triển mạnh, phổ biến là cá Trê lai (con lai
của cá Trê vàng cái và cá Trê phi đực). Việc nuôi cá Trê lai đem lại thu nhập đáng
kể cho gia đình.
Vào khoảng những năm 1982 - 1987, ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh
thuộc khu vực ĐBSCL đã sản xuất ra một lượng cá Trê phi giống khá lớn đủ cung
cấp cho người nuôi và việc nuôi cá Trê phi đã đem lại nguồn thu đáng kể cho
người nuôi cá. Do sự hiện diện của cá Trê phi ở các tỉnh Nam Bộ mà từ đó biện
pháp kỹ thuật lai tạo giữa cá Trê phi với cá Trê vàng ra đời. Vấn đề lai tạo giữa cá
Trê phi với Trê vàng đã thu được những kết quả đáng khích lệ (Nguyễn Văn Kiểm,
1999). Cá Trê phi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất cả về chiều dài và trọng lượng,
cá Trê vàng có tốc dộ tăng trưởng chậm nhất, cá Trê lai có tốc độ tăng trưởng
mang tính chất trung gian giữa cá Trê vàng và cá Trê phi (Lê Tuyết Minh, 2000)
Kết quả nuôi vỗ cá Trê tại trường Đại Học Cần Thơ cho thấy với thức ăn hàm
lượng protein là 35%, cho ăn 4 - 5% trọng lượng thân thì sau khoảng 60 ngày nuôi
vỗ cá có thể tham gia sinh sản. Khối lượng trung bình có thể tham gia sinh sản của
cá Trê vàng là 250 - 300g và 350 - 400g đối với cá Trê trắng (Huỳnh Kim Hường,
2005).
Nguyễn Văn Kiểm và Huỳnh Kim Hường (2006), đã đưa ra kết luận sử dụng kích
thích tố HCG, LHRH-a, não thùy đều có thể gây chín và rụng trứng trên cá Trê
trắng sau khi tiêm liều sơ bộ 0,6 mg não thùy cá cho 1 kg cá cái. Liều kích thích tố
đơn có hiệu quả là đối với sự sinh sản cá Trê trắng: HCG 2000 UI/kg, não thùy 5
mg/kg và LHRH-a 50 µg/kg cá cái.
6
Trong sinh sản nhân tạo, kích thích tố được dùng phổ biến nhất là LHRH-a hoặc
HCG. Sử dụng phương pháp tiêm 1 lần 50 - 70 µg LHRH-a và 10 mg
Domperidone hoặc HCG liều lượng 2500 UI cho 1kg cá cái; 20 - 30 µg LHRH-a
hoặc 500 UI cho 1kg cá đực (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Một số nghiên cứu thành công khi cho cá Trê đẻ tự nhiên trong ao với kích tố
(DOCA, LH, HCG, não thùy nhóm cá chép) kích thích cá đẻ. Thời gian phát triển
phôi 24 - 26 giờ, ở nhiệt độ 26 - 28
o
C (Huỳnh Kim Hường, 2005).
Theo Nguyễn Văn Triều và Phạm Văn Mạnh (1999) kết luận 3 kích thích tố với
liều lượng DOCA: 11.25 mg/kg cá cái, HCG: 3500 UI/kg cá cái, LHRH-a: 60
µg/kg cá cái đều có thể gây chín và rụng trứng hiệu quả nhất trên cá Trê vàng sau
khi tiêm liều sơ bộ 0,8 mg não thùy cá chép Hungary sấy khô cho 1 kg cá cái.
7
CHƯƠNG III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu thực hiện
3.1.1 Nguồn cá
Cá Trê vàng bố mẹ được mua từ trại sản xuất giống cá Trê vàng lai thuộc Cái sơn -
Hàng Bàng và chợ Cái Răng.
3.1.2 Dụng cụ và trang thiết bị
- Thau, xô nhựa
- Khung lưới ấp trứng
- Kích thích tố
- Hóa chất cần thiết cho thí nghiệm
- Kính hiển vi
- Máy sục khí
- Và các dụng cụ cần thiết trong trại sản xuất giống cá
3.1.3 Thời gian và địa điểm
Thời gian: Từ tháng 3/2010 đến tháng 4/2010
Địa điểm: Trường Đại Học Tây Đô
3.2 Phương pháp thực hiện
3.2.1 Chọn cá bố mẹ
Hình 3.1. Phân biệt đực cái ở cá Trê: cá đực bên trái có đoạn cuối của ống dẫn tinh
hình gai nhọn (Nguồn: Nguyễn Tường Anh, 2005 ).
8
Cá cái: cá có sức khỏe tốt không bệnh tật, ngoại hình cân đối, cơ thể nguyên vẹn,
khi thành thục có bụng to tròn mềm. Lỗ sinh dục hơi lồi, có màu hồng (Nguyễn
Tường Anh, 2005).
Cá đực: cá có sức khỏe tốt không bệnh tật, ngoại hình cân đối, cơ thể nguyên vẹn,
khi thành thục tốt thì gai sinh dục dài và nhọn, thân thon dài (Nguyễn Tường Anh,
2005).
3.2.2 Kích thích cá trê vàng sinh sản với LHRH-a và Motilium
Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở tham khảo kết quả thí nghiệm của Nguyễn
Văn Triều và Phạm Văn Mạnh (1999), Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm
(2009).
Trong thí nghiệm được thực hiện với liều lượng theo bảng 3.1
Bảng 3.1: Liều lượng LHRH-a kích thích cá Trê vàng sinh sản.
Loại kích thích tố
Liều lượng hormon
Nghiệm thức I Nghiệm thức II Nghiệm thức III
LHRH-a + Motilium
(µg/kg) (mg/kg)
40 + 5
mgMotilium
50 + 5
mgMotilium
60 + 5
mgMotilium
Tất cả các nghiệm thức thí nghiệm được lặp lại 3 lần, tỷ lệ đực/cái cho mỗi nghiệm
thức là 2/3.
3.2.3 Kỹ thuật vuốt trứng và giải phẫu lấy tinh sào
Do cá Trê vàng là loài không tự đẻ trứng, mặc dù cá được tiêm kích tố nên phải
dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo.
Sau khi tiêm cá 14 - 16 giờ tùy theo nhiệt độ nước tiến hành kiểm tra mức độ rụng
trứng của cá để xác định được thời điểm vuốt trứng, có thể lấy mẫu trứng để khảo
sát. Cá cái đã thành thục tốt phải có những hạt trứng đạt kích thước tới hạn, rời rạc,
các mao mạch trên nang trứng nhỏ hoặc không còn thấy được và đạt khoảng 70 -
80% tế bào trứng có nhân lệch tâm (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm,
2009).
Khi cá cái rụng trứng, quấn cá trong khăn bông và lau khô cá, giữ cá và chút đuôi
xuống thấp, vuốt nhẹ bụng cá từ phía đầu xuống thau hứng trứng (thau phải được
lau khô ráo), khi thấy trứng rụng khô ra hoặc trứng lẫn máu thì ngừng vuốt.
Trước khi vuốt trứng phải bắt cá đực giải phẫu lấy tinh sào, đem tinh sào cắt nhỏ
và nghiền trong cối sứ hoặc dùng vải thưa túm lại rồi vắt tinh trực tiếp vào thau
9
chứa trứng đã vuốt hoặc vào nước muối sinh lý, dùng lông gia cầm khuấy đều
trong 1 phút để trứng và tinh dịch hòa lẫn vào nhau. Sau khi gieo tinh 6 - 7 giờ tiến
hành xác định tỷ lệ thụ tinh (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Hình 3.2: Kỹ thuật vuốt trứng và giải phẫu lấy tinh sào
3.2.4 Kỹ thuật ấp trứng
Trứng cá Trê vàng có tính dính nhưng không dính chắc như trứng cá Trê phi, cá
Tra hay trứng cá Chép. Trứng sau khi thụ tinh 1 - 2 phút được rãi đều lên khung
lưới ấp trứng được chuẩn bị trước trong bể chứa nước sạch. Khi cá nở xong thì vỏ
trứng vẫn còn dính trong giá thể (Nguyễn Tường Anh, 2005).
10
Hình 3.3: Hệ thống ấp trứng cá Trê vàng
3.2.5 Sự phát triển phôi
Ngay sau khi trứng thụ tinh, sự phát triển phôi được quan sát dưới kính hiển vi có
độ phóng đại 40 lần, theo dõi sự phát triển của phôi và xác định thời gian nở của
trứng.
3.2.6 Một số chỉ tiêu theo dõi
- Tỷ lệ rụng trứng (TLRT)
Số cá cái đẻ trứng
TLRT (%)= x 100
Số cá cái cho đẻ
- Thời gian hiệu ứng thuốc
Tính từ lúc tiêm kích thích tố lần 2 đến khi cá bắt đầu rụng trứng.
- Sức sinh sản thực tế (S)
Số trứng thu được
S =
Khối lượng cá cái (kg)
- Tỷ lệ thụ tinh (TLTT)
Số trứng thụ tinh
TLTT (%) = x 100
Số trứng quan sát được
11
- Tỷ lệ nở (TLN)
Số trứng nở
TLN (%) = x 100
Số trứng thụ tinh
- Ghi nhận một số yếu tố môi trường
+ Oxy: dùng máy đo oxy
+ Nhiệt độ: dùng nhiệt kế (từ 0 - 100
o
C)
+ pH: test đo pH
+ NH
4
+
/NH
3
: test đo NH
4
+
/NH
3
+ NO
2
-
: test đo NO
2
- Một ngày đo 1 lần vào lúc trước khi thay nước
3.2.7 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu ghi nhận được sử dụng phần mềm SPSS để xử lý thống kê.
12
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả theo dõi một số yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng có thể gây ảnh hưởng đến kết quả
thí nghiệm.
Bảng 4.1: Kết quả theo dõi một số yếu tố môi trường
Kết quả xác định một số yếu tố môi trường đã cho thấy nhiệt độ ở các nghiệm thức
dao động từ 24 - 30
o
C, oxy hòa tan: 4 - 5 mg/l. Như vậy nhiệt độ và oxy hòa tan ở
các đợt cho sinh sản trên là tương đối thích hợp cho quá trình sinh sản và quá trình
phát triển phôi. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) hầu hết các
loài cá phân bố ở ĐBSCL thì nhiệt độ thích hợp cho phôi phát triển từ 27 - 30
o
C,
phôi phát triển bình thường khi hàm lượng oxy từ 3 mg/l trở lên.
Độ pH trong quá trình làm thí nghiệm dao dộng từ 7,5 - 8 và NH
4
+
/NH
3
: 0,25 là
phù hợp cho quá trình nở của hầu hết phôi cá nước ngọt. Theo Phạm Minh Thành
và Nguyễn Văn Kiểm (2009) độ pH thích hợp cho phôi của hầu hết các loài cá
nuôi từ 7 - 8.
4.2 Kết quả thí nghiệm kích thích cá Trê vàng sinh sản
4.2.1 Đặc điểm hình thái buồng trứng của cá Trê vàng trước và sau khi tiêm
kích thích tố
4.2.1.1 Trước khi tiêm kích thích tố
Quan sát bên ngoài buồng trứng cá Trê vàng gồm 2 nhánh, có dạng hình túi, màu
nâu nhạt, buồng trứng đạt kích thước lớn, chiếm tới hơn 2/3 thể tích xoang bụng.
Bên trong buồng trứng gồm nhiều vách ngăn gọi là tấm trứng, trên tấm trứng có
nhiều mạch máu, số lượng mạch máu lớn còn rất ít, chỉ còn mạch máu chính.
Buồng trứng gồm 3 dạng trứng khác nhau, hầu hết là những trứng ở giai đoạn IV
với khoảng 50% trứng đã phân cực. Ngoài ra, còn bắt gặp những trứng ở giai đoạn
Thời gian Nhiệt độ
(
o
C)
Oxy pH NO
2
NH
4
+
/NH
3
Sáng 24 - 25 4 - 5 7,5 0 0,25
Chiều 27 - 30 4 - 5 8 0 0,25
13
III và những trứng ở giai đoạn II. Khi thăm trứng thì độ nhớt trong buồng trứng
vừa, trứng rời rạc, nhìn thấy được noãn khổng ở những trứng có màu nâu nhạt.
Hình 4.1: Buồng trứng cá Trê vàng trước khi tiêm kích thích tố
4.2.1.2 Sau khi tiêm kích thích tố
Buồng trứng đạt kích thước lớn nhất, bề mặt buồng trứng căng phồng và mềm,
vuốt nhẹ bụng cá, trứng chảy ra thành dòng. Sau khi vuốt trứng, buồng trứng teo
nhỏ lại và mềm nhão, mạch máu xung huyết có màu đỏ tím, ngoài những trứng đã
rụng trong buồng trứng còn nhiều tế bào trứng ở các giai đoạn khác nhau.
Hình 4.2: Buồng trứng cá Trê vàng sau khi tiêm kích thích tố
14
4.2.2 Kích thích cá trê vàng sinh sản với LHRH-a và Motilium
Kết quả thu được cho từng nghiệm thức được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4.2: Kết quả kích thích cá Trê vàng sinh sản bằng LHRH-a + Motilium
Ghi chú: Các giá trị mang cùng ký tự (a, b) trên cùng một cột thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Qua bảng 4.2 cho thấy tỷ lệ rụng trứng tăng dần theo liều lượng LHRH-a. Về mặt
thống kê, tỷ lệ rụng trứng ở nghiệm thức liều 60 µg/kg khác biệt (p<0,05) so với tỷ
lệ rụng của 2 nghiệm thức còn lại. Nếu xét theo từng nghiệm thức có thể khẳng
định rằng nếu cá đã thành thục (tế bào trứng đã hoàn thành quá trình thành thục
sinh lý) thì với liều 50 µg/kg LHRH-a là đã có khả năng gây ra sự rụng trứng ở cá.
Tuy nhiên ở liều lượng trên thì mới chỉ có tác dụng tới những trứng đã ở trạng thái
sinh sản, những tế bào trứng chưa hoàn thành quá trình thành thục về mặt hóa học
thì LHRH-a chưa có tác dụng rõ ràng.
Vai trò của LHRH-a trong thí nghiệm này thể hiện khá rõ tác dụng trong quá trình
làm tăng số lượng trứng rụng thông qua quá trình kích thích não thùy tiết kích tố.
Trong khi đó vai trò của Motilium ở 2 nghiệm thức liều 40 µg/kg và liều 50 µg/kg
chưa rõ ràng vì với 5 mg chưa đủ khả năng của một antidopamin - một chất ức chế
não thùy tiết kích thích tố. Tuy nhiên nếu cá đã hoàn toàn thành thục thì chỉ cần 5
mg Motilium đã đủ để khống chế vùng Hypothalamus tiết Dopamin, do đó ở
nghiệm thức liều 60 µg/kg cá rụng trứng 100%.
Sức sinh sản của cá ở các nghiệm thức dao động từ 60 ± 1 - 78 ± 1 trứng/kg cá cái.
Nếu so sánh giữa 3 nghiệm thức thì sức sinh sản của cá ở nghiệm thức liều 60
µg/kg thấp nhất (60 ± 1 trứng/kg). Mặc dù cá bố mẹ ở nghiệm thức liều 60 µg/kg
được nuôi vỗ, khối lượng của cá khá lớn (300 g/con) nhưng độ béo của cá còn cao,
các chất dinh dưỡng chưa chuyển hóa hết cho quá trình thành thục, hơn nữa thời
điểm cho cá đẻ là đầu mùa sinh sản nên sức sinh sản của cá ở nghiệm thức liều 60
µg/kg thấp là hợp lý. Tuy nhiên nếu so sánh sức sinh sản của cá Trê ở thí nghiệm
Liều
lượng
LHRH-a
(µg/kg)
Tỷ lệ rụng
trứng
(%)
Sức sinh sản
thực tế
(số trứng/kg)
Tỷ lệ thụ
tinh
(%)
Tỷ lệ nở
(%)
Thời gian
hiệu ứng
thuốc
40 33,3
a
± 15.3 71
ab
± 1 3,4
a
± 3.7 0
a
14,4
a
± 0.5
50 37
a
± 25.7 78
b
± 1 7,5
a
± 5.2 1,6
a
± 0.2 14,5
a
± 0.4
60 100
b
60
a
± 1 52,7
b
± 3 76,7
b
± 1.5 12,5
a
± 0.4
15
này với các kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thúy An (2009) có thể chấp nhận
được vì theo Trần Thị Thúy An (2009) sức sinh sản của cá Trê vàng dao động từ
35.000 - 80.000 trứng/kg.
Tỷ lệ thụ tinh của trứng ở nghiệm thức liều 60 µg/kg khác biệt có ý nghĩa thống kê
so với tỷ lệ thụ tinh của 2 nghiệm thức còn lại (p<0,05). Tỷ lệ thụ tinh của trứng ở
nghiệm thức liều 60 µg/kg có thể do chất lượng cá bố mẹ khi cho đẻ. Xét về nguồn
gốc cá cho đẻ ở nghiệm thức liều 40 µg/kg và nghiệm thức liều 50 µg/kg được
mua ngoài tự nhiên, mặc dù cá cái đã thành thục nhưng do đánh bắt ở tự nhiên nên
sức khỏe của cá bị suy giảm, ngoài ra cũng phải kể đến cá đực ở nghiệm thức liều
40 µg/kg và nghiệm thức liều 50 µg/kg chưa thành thục hoàn toàn, tổng hợp cả 2
nguyên nhân trên cho thấy tỷ lệ thụ tinh của trứng ở 2 nghiệm thức liều 40 - 50
µg/kg không có sự khác biệt trong thống kê và thấp hơn nghiệm thức liều 60 µg/kg.
Cá bố mẹ ở nghiệm thức liều 60 µg/kg được mua ở trại sản xuất giống cá Trê vàng,
cá được nuôi vỗ tốt, cá đực và cá cái đều thành thục và đạt yêu cầu khi cho đẻ. Vì
vậy tỷ lệ thụ tinh của trứng cao (52,7 ± 3) hơn 2 nghiệm thức liều 40 µg/kg và 50
µg/kg.
Tỷ lệ nở của trứng ở nghiệm thức liều 40 µg/kg là 0 và nghiệm thức liều 50 µg/kg
(1,6 ± 0,2) nguyên nhân là do quá trình ấp trứng, quá trình phân hủy những trứng
không thụ tinh diễn ra rất nhanh dẫn đến điều kiện bất lợi cho những trứng được
thụ tinh, kết quả là những trứng tuy được thụ tinh nhưng không nở được hoặc tỷ lệ
nở rất thấp (liều 50 µg/kg). Trứng cá ở nghiệm thức liều 60 µg/kg có tỷ lệ nở cao
hơn ngoài vấn đề chất lượng cá bố mẹ tốt thì biện pháp thay nước kịp thời trong
khi ấp cũng là một trong các nguyên nhân giúp cho tỷ lệ nở của trứng tăng lên
(76,7± 1,5).
4.2.3 Quá trình phát triển phôi
Quan sát phôi dưới kinh hiển vi cho thấy quá trình phát triển phôi cá trê vàng cũng
tương tự như quá trình phát triển phôi của các loài cá nước ngọt khác. Thời gian
phát triển phôi cá trê vàng trong nghiên cứu này là 23 giờ 23 phút ở điều kiện nhiệt
độ nước 24 - 30
o
C. Kết quả ghi nhận sự phát triển của phôi được trình bày ở
bảng 4.3.
16
Bảng 4.3: Các giai đoạn phát triển phôi
Các giai đoạn phát triển phôi Thời gian sau thụ tinh
Đĩa mầm
2 tế bào
4 tế bào
8 tế bào
16 tế bào
Nhiều tế bào
Phôi nang cao
Phôi nang thấp
Đầu phôi vị
Cuối phôi vị
Hình thành đốt sống
Cá nở
8 giờ 45 phút
9 giờ 20 phút
9 giờ 35 phút
9 giờ 45 phút
9 giờ 55 phút
10 giờ 3 phút
10 giờ 40 phút
11 giờ 50 phút
12 giờ 7 phút
15 giờ 50 phút
20 giờ
8 giờ 15 phút (ngày hôm sau)
Đĩa mầm 2 tế bào 4 tế bào
(15 phút) (50 phút) (1 giờ 5 phút)
8 tế bào 16 tế bào Phôi nang cao
(1 giờ 15 phút) (1 giờ 25 phút) (2 giờ 8 phút)
17
Phôi nang thấp Đầu phôi vị Cuối phôi vị
(3 giờ 18 phút) (3 giờ 38 phút) (7 giờ 18 phút)
Hình 4.3: Quá trình phát triển phôi của cá Trê vàng
4.2.4 Sự phát triển của hậu phôi
Cá sau 24 giờ: ấu trùng dài 4,9 - 5,1 mm, có noãn hoàng tròn, đuôi thẳng và vận
động lắc lư qua lại.
Cá sau 48 giờ: ấu trùng dài 5,2 - 5,6 mm, bơi lội chủ động, sống tụ thành đám, chui
rút. Hình thành sắc tố trên đầu và lưng, có điểm mắt, xuất hiện mầm râu trên và
dưới hàm, vây đuôi kéo dài từ thân đến đuôi, ống tiêu hóa màu vàng, tim, lượng
noãn hoàng giảm.
Cá sau 72 giờ: ấu trùng dài 6 - 7,1 mm, xuất hiện hệ thống tuần hoàn, mầm râu dài
ra từ từ, nhiều chấm sắc tố, lượng noãn hoàng giảm nhiều.
Cá sau 96 giờ: ấu trùng dài 7,1 - 7,8 mm, một vài ấu trùng hết noãn hoàng lúc này
có thể thả moina cho ăn.
18
CHƯƠNG V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
Kích thích tố LHRH-a + Motilium có thể sử dụng gây chín và rụng trứng ở cá
Trê vàng. Ở mức liều lượng kích thích tố 40 - 50 µg/kg cá cái cho kết quả các chỉ
số sinh sản không có sự khác biệt trong thống kê (p>0,05). Liều 60 µg/kg LHRH-a
kích thích cho cá Trê vàng sinh sản có hiệu quả và ổn định hơn (tỷ lệ rụng trứng là
100%).
Chất lượng của cá bố mẹ có liên quan rất rõ ràng tới tỷ lệ rụng trứng của cá.
Nếu cá được nuôi vỗ tốt thì kết quả sinh sản nhân tạo sẽ tốt hơn (tỷ lệ rụng trứng,
tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở đều cao hơn) so với cá bố mẹ đánh bắt ngoài tự nhiên.
5.2 Đề xuất
Tiếp tục nghiên cứu thêm về ảnh hưởng của các loại kích thích tố với liều lượng
khác nhau đến sự thành thục và chín trứng lên cá Trê vàng.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Khắc Độ, (2008). Kỹ thuật nuôi cá Trê vàng lai và cá Trê vàng, Trung tâm
học liệu, trường Đại Học Cần Thơ. NXB Đà Nẵng.
2. Huỳnh Kim Hường, (2005). Nghiên cứu sự thành thục sinh dục và thử nghiệm
sinh sản nhân tao cá trê trắng (Clarias batrachus). Tuyển tập công trinh nghiên
cứu khoa học, Khoa thủy sản, trường Đại Học Cần Thơ.
3. Lê Tuyết Minh, (2000). Kết quả ban đầu về mối liên hệ giữa sinh trưởng và thành
phần hóa học trong cơ thể của cá trê vàng (Clarias macrocephaluc), trê phi
(Clarias gariepinus), trê lai (C. Macrocephaluc + C. gariepinus). Tuyển tập công
trình nghiên cứu khoa học, trường Đại Học Cần Thơ.
4. Nguyễn Tường Anh, (1999). Một số vấn đề về nội tiết sinh học sinh sản cá. NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Nguyễn Tường Anh, (2005). Kỹ thuật sản xuất giống một số loài cá nuôi. NXB
Nông nghiệp TPHCM.
6. Nguyễn Văn Kiểm và Huỳnh Kim Hường, (2006). Nghiên cứu sự thành thục và
thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá trê trắng (Clarias batrachus). Tuyển tập công
trình nghiên cứu khoa học, trường Đại Học Cần Thơ.
7. Nguyễn Văn Triều và Phạm Văn Mạnh, (1999). So sánh hiệu quả gây chín và
rụng trứng của HCG, LHRHa và DOCA lên cá trê vàng (Clarias macrocephalus).
Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học, trường Đại Học Cần Thơ.
8. Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, (2009). Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản
xuất cá giống. Khoa thủy sản, trường Đại Học Cần Thơ. NXB Nông Nghiệp.
9. Trần Thị Thúy An, (2009). Ảnh hưởng kích dục tố lên quá trình sinh sản cá trê
vàng đực (Clarias macrocephaluc). Luận văn tốt nghiệp đại học nghành Quản lý
nghề cá, Khoa thủy sản, trường Đại Học Cần Thơ. NXB Nông Nghiệp.
10. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, (1993). Định loại các loài cá nước
ngọt ở ĐBSCL, Khoa thủy sản, trường Đại Học Cần Thơ. NXB Nông Nghiệp.