Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

sử dụng chế phẩm sinh học bio bacter for shrimp trong ương ấu trùng tôm càng xanh theo quy trình nước trong kín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.46 KB, 55 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ NGÀNH: 304


SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC BIO BACTER FOR
SHRIMP TRONG ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH
THEO QUI TRÌNH NƯỚC TRONG KÍN







Sinh viên thực hiện:
HOÀNG GIANG

MSSV: 06803010
LỚP: NTTS K1









Cần Thơ, 7/2010
2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG













LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ NGÀNH : 304



SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC BIO BACTER FOR SHRIMP
TRONG ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH THEO QUI TRÌNH NƯỚC TRONG
KÍN

Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.s TẠ VĂN PHƯƠNG HOÀNG GIANG
MSSV: 06803010
LỚP: NTTS K1












Cần Thơ, 7/2010
3


LỜI CẢM TẠ
Trong suốt thời gian 3 tháng thực tập từ tháng 3 đến tháng 6, áp dụng những kiến thức
đã học kết hợp với kinh nghiệm thực tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Em xin bài tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Tạ Văn Phương - Khoa Sinh Học Ứng
Dụng - Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình động viên, chỉ dạy cho em suốt thời gian
làm đề tài.

Em xin chân thành cảm ơn Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho
em những kiến thức quý báo trong những năm học vừa qua, tạo dựng hành trang để em
bước vào cuộc sống sau này.
Xin cảm ơn tất cả các bạn trong tập thể lớp NTTS K1 đã tận tình giúp đỡ và đóng góp
ý kiến bổ ích để hoàn thành thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học
Tây Đô vui, khỏe, công tác tốt và không ngừng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu thập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt nghiệp
không tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô
và các bạn.



Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ!


HOÀNG GIANG









4

Tóm tắt
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là một trong những đối tượng thủy sản

nuôi quan trọng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tuy nhiên, nâng cao tính ổn định của
các qui trình sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là một yêu
cầu của các trại và qua đó góp phần làm tăng sản lượng tôm bột. Nghiên cứu sử dụng
vi sinh nhằm ổn định môi trường bể ương là một giải pháp ngày càng được quan tâm
nhiều.
Thí nghiệm được tiến hành với mục tiêu chính là tìm ra liều lượng và nhịp sử dụng tốt
nhất của men vi sinh Bio Bacter For Shrimp trong quá trình ương ấu trùng tôm càng
xanh theo qui trình nước trong kín. Nghiên cứu được tiến hành với 2 thí nghiệm mỗi
thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức và được lặp lại ngẫu nhiên 4 lần với các liều lượng và
nhịp sử dụng khác nhau.
Kết quả thí nghiệm cho thấy men vi sinh sử dụng với liều lượng 0,5g/ m
3
với nhịp sử
dụng là 1 ngày/lần cho kết quả tốt nhất. Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, TAN,
NH
3
, NO
2
-
ở các nghiệm thức có sử dụng men vi sinh ổn định và ít biến động hơn các
nghiệm thức không sử dụng men vi sinh. Tương tự, mật độ vi khuẩn tổng cộng cao
(8,50x10
2
-19,0x10
4
CFU/mL) nhưng vi khuẩn Vibrio lại thấp (0,00x10
2
-15x10
2


CFU/mL).
Tỉ lệ sống ấu trùng trung bình là 74%±13% và mật độ Post/L trung bình là 39,4±6,4
Post/L của các nghiệm thức có dùng men vi sinh Bio Bacter For Shrimp đạt kết quá
cao hơn các nghiệm thức không dùng men vi sinh.














5

CAM KẾT KẾT QUẢ

Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
trong khuôn khổ của đề tài “Sử dụng chế phẩm sinh học Bio Bacter For Shrimp trong
ương ấu trùng tôm càng xanh theo quy trình nước trong kín” và các kết quả này chưa
được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.





Ngày 22 tháng 07 năm 2010
Sinh viên thực hiện



HOÀNG GIANG















6

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
CAM KẾT KẾT QUẢ iii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH CÁC BẢNG vii

DANH SÁCH CÁC HÌNH viii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1
CHƯƠNG 2: TỎNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1: Đặc điểm sinh học tôm càng xanh 3
2.1.1: Phân loại và phân bố tôm càng xanh 3
2.1.2: Vòng đời của tôm càng xanh 3
2.1.3: Đặc điểm sinh sản 4
2.1.4: Đặc điểm sinh trưởng 5
2.2: Tình hình sản xuất giống tôm càng xanh ở thế giới và ở
Việt Nam 6
2.3: Một số vấn đề liên quan đến ứng dụng chế phẩm vi sinh
trong nuôi trồng thủy sản và tôm càng xanh 8
2.3.1: Các khái niệm về chế phẩm vi sinh 8
2.3.2: Vai trò và tác dụng của chế phẩm vi sinh 9
2.3.3: Thành phần và cơ chế hoạt động của chế phẩm vi sinh 12
2.3.4: Các lưu ý khi sủ dụng và lựa chọn chế phẩm vi sinh 13
2.3.5: Các nghiên cứu và ứng dụng chế phẩm sinh học
trong nuôi trồng thủy sản 14
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.2: Vật liệu nghiên cứu 17
3.2.1: Dụng cụ nghiên cứu 17
3.2.2: Hóa chất và men vi sinh sử dụng trong phòng thí nghiệm 17
3.3: Phương pháp nghiên cứu 17
3.3.1: Bố trí thí nghiệm 17
3.3.2: Chăm sóc và quản lý 19
7

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 23
4.1: Xác định liều lượng tốt nhất của chế phẩm vi sinh Bio Bacter For Shrimp đến sự
phát triển của ấu trùng tôm càng xanh


4.1.1: Yếu tố nhiệt độ 23
4.1.2: Yếu tố pH 24
4.1.3: Yếu tố đạm 26
4.1.4: Vi khuẩn 28
4.1.5: Tỷ lệ sống 30
4.2: Xác định nhịp sử dụng tốt nhất của chế phẩm vi sinh Bio Bacter For Shrimp đến
sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh 31
4.2.1: Yếu tố Nhiệt độ 31
4.2.2: Yếu tố pH 32
4.2.3: Các yếu tố đạm 34
4.2.4: Vi khuẩn 35
4.2.5: Tỷ lệ sống 36
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 38
5.1: Kết luận 38
5.2: Đề xuất 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
PHỤ LỤC A
Phụ lục A1: Biến động nhiệt độ sáng trong thí nghiệm 1 A
Phụ lục A2: Biến động nhiệt độ sáng trong thí nghiệm 1 B
Phụ lục A3: Biến động pH sáng trong thí nghiệm 1 C
Phụ lục A4: Biến động pH chiều trong thí nghiệm 1 D
Phụ lục A5: Biến động NH
4
trong thí nghiệm 1 E
Phụ lục A6: Biến động NO
2
trong thí nghiệm 1 E
Phụ lục A7: Biến động vi khuẩn tổng cộng trong thí nghiệm 1 E
Phụ lục A8: Biến động vi khuẩn Vibrio trong thí nghiệm 1 F

8

Phụ lục B1: Biến động nhiệt độ sáng trong thí nghiệm 2 G
Phụ lục B2: Biến động nhiệt độ chiều trong thí nghiệm 2 H
Phụ lục B3: Biến động pH sáng trong thí nghiệm 2 I
Phụ lục B4: Biến động pH chiều trong thí nghiệm 2 J
Phụ lục B5: Biến động TAN trong thí nghiệm 2 K
Phụ lục B6: Biến động NO
2
trong thí nghiệm 2 K
Phụ lục B7: Mật độ vi khuẩn tổng trong thí nghiệm 2 L
Phụ lục B8: Biến động vi khuẩn Vibrio trong thí nghiệm 2 M





























9

DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Đặc điểm các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm càng xanh 4
Bảng 2.2: Chu kỳ lột xác của tôm ở các giai đoạn khác nhau 6
Bảng 3.1: Cách bố trí thí nghiệm 1 18
Bảng 3.2: Cách bố trí thí nghiệm 2 19
Bảng 3.3: Công thức ăn chế biến thức ăn 20
Bảng 3.4: Chăm sóc và cho ấu trùng ăn 21































10

DANH SÁCH HÌNH
trang
Hình 4.1: Biến động nhiệt độ sáng suốt thời gian ương thí nghiệm 1 23
Hình 4.2: Biến động nhiệt độ chiều suốt thời gian ương thí nghiệm 1 24
Hình 4.3: Biến động pH sáng trong suốt thời gian ương thí nghiệm 1 25
Hình 4.4: Biến động pH chiều trong suốt thời gian ương thí nghiệm 1 25
Hình 4.5: Biến động hàm lượng TAN trong suốt thời gian ương thí nghiệm 1 26
Hình 4.6: Hàm lượng NH

3
trong suốt quá trình ương thí nghiệm 1 27
Hình 4.7: Hàm lượng NO
2
-
trong suốt thời gian ương thí nghiệm 1 27
Hình 4.8: Tổng vi khuẩn trong suốt thời gian ương thí nghiệm 1 28
Hình 4.9: Vi khuẩn Vibrio trong suốt thời gian ương thí nghiệm 1 29
Hình 4.10: Tỷ lệ sống và mật độ Post trung bình thí nghiệm 1 30
Hình 4.11: Nhiệt độ sáng trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 32
Hình 4.12: Nhiệt độ chiều trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 32
Hình 4.13: pH trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 33
Hình 4.14: pH trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 33

Hình 4.15: Hàm lượng TAN trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 34
Hình 4.16: Hàm lượng NH
3
trong suốt thời gian ương 34
Hình 4.17: Hàm lượng NO
2
-
trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 35
Hình 4.18: Mật độ vi khuẩn tổng cộng trong thời gian ương thí nghiệm 2 36
Hình 4.19: Mật độ vi khuẩn Vibrio trong thời gian ương thí nghiệm 2 36
Hình 4.20: Tỷ lệ sống và mật độ Post/L trong suốt thời gian ương thí nghiệm 2 37









11

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) với giá trị thương phẩm, xuất khẩu cao
và mang lại cho người nuôi những lợi nhuận đáng kể là một trong những đối tượng
đang được quan tâm và chú trọng phát triển ở các nước có điều kiện tự nhiên về diện
tích mặt nước và kỹ thuật quản lý tốt.
Ở Việt Nam nói chung và ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng với hệ thống sông
ngòi, kênh rạch, ao, vườn, ruộng được xem là vùng có tiềm năng rất lớn cho nghề nuôi
tôm càng xanh. Năm 1995, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản của Đồng Bằng
Sông Cửu Long là 189.400 ha, năm 1999 ở ĐBSCL có trên 6.000 ha nuôi TCX, đạt sản
lượng 2.500 tấn (Bộ Thủy sản, 2000) đến năm 2002 TCX cả nước đạt 10.000 tấn
nhưng chủ yếu là từ các tỉnh ĐBSCL (Bộ Thủy sản, 2003). Trong năm 2005, toàn bộ
Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích nuôi tôm càng xanh khoảng 5.680 ha với sản
lượng đạt 6.012 tấn chiếm 57.7% diện tích nuôi và 94% sản lượng tôm càng xanh cả
nước. Trong năm 2006, diện tích nuôi là 9.007 ha với sản lượng 9.514 tấn (Lê Xuân
Sinh, 2008). Do đó Bộ Thuỷ sản đã hoạch định chiến lược phát triển nuôi tôm càng
xanh đến năm 2010 là 60.000 tấn và 32.000 ha nuôi (Quyết định số 224/1999/QĐ-
TTg), với sản lượng tôm giống đạt trên 3,5 tỷ con (Bộ Thuỷ sản, 1999).
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với nghề nuôi tôm càng xanh là vấn đề con giống, việc
sản xuất giống tôm càng xanh trên thế giới đã được phổ biến với 3 qui trình: qui trình
nước trong hở, nước trong kín, nước xanh. Tác giả Ang (1986) đã có một số cải tiến từ
qui trình nước xanh trước đây và đã đạt được những thành công quan trọng; ông gọi
đây là mô hình “nước xanh cải tiến” và đang được ứng dụng khá phổ biến ở Việt Nam
(Nguyễn Thanh Phương và csv., 2003). Tuy nhiên, trong qui trình nước xanh và nước
trong nhưng không thay nước thì việc quản lý môi trường bể ương luôn là vấn đề quan

trọng và có ý nghĩa đến hiệu quả sản xuất. Hiện nay, nhiều loại chế phẩm vi sinh đã và
đang được ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản, nhằm cải tạo môi trường nuôi tốt hơn
cũng như tạo ra nguồn giống có chất lượng cao hơn.
Sử dụng chế phẩm sinh học vào quá trình ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh đang
được quan tâm nhằm nâng cao việc quản lý môi trường bể nuôi và có thể không cần
thay nước trong quá trình ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh. Đề tài “Sử dụng chế
phẩm sinh học Bio Bacter For Shrimp trong ương ấu trùng tôm càng xanh trong
mô hình nước trong kín” được đặt ra để đánh giá sự ảnh hưởng của chế phẩm sinh
12

học trong sản xuất giống tôm càng xanh góp phần cung cấp nguồn giống có chất lượng
tốt phục vụ cho nhu cầu của nông dân.
Mục tiêu nghiên cứu
Sử dụng chế phẩm Bio Bacter For Shrimp vào quá trình ương ấu trùng tôm càng xanh
nhằm cải thiện môi trường cũng như chất lượng con giống, nâng cao tỉ lệ sống, từ đó
góp phần làm cho nghề nuôi tôm càng xanh ở Việt Nam nói chung và Đồng Bằng Sông
Cửu Long nói riêng ngày càng phát triển.
Nội dung nghiên cứu
Xác định liều lượng tốt nhất của chế phẩm vi sinh Bio Bacter For Shrimp đến sự phát triển
của ấu trùng tôm càng xanh.
Xác định nhịp sử dụng tốt nhất của chế phẩm vi sinh Bio Bacter For Shrimp đến sự phát
triển của ấu trùng tôm càng xanh.

















13

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm sinh học tôm càng xanh
2.1.1 Phân loại và phân bố tôm càng xanh
Theo De Man (1879) tôm càng xanh được phân loại như sau:
Nghành: Arthropoda.
Nghành phụ: Crustacea.
Lớp: Malacostraca.
Lớp phụ : Eumalacostraca.
Tổng bộ : Eucarida.
Bộ : Decapoda.
Bộ phụ: Pleocyemata.
Phân bộ : Caridea.
Tổng họ : Palaemonoidea.
Họ : Palaemonidea.
Giống: Macrobrachium.
Loài: Macrobrachium rosenbergii (de Man,1879).
Phân bố Tôm càng xanh phân bố ở tất cả các thủy vực nước ngọt như đầm, hồ, ao, sông
và các vùng nước lợ nhiều vùng trên thế giới. Tôm phân bố tập trung ở Ấn Độ Dương,
Tây Nam Thái Bình Dương (Nguyễn Việt Thắng, 1995). Trong tự nhiên tôm càng xanh

phân bố rộng ở các vùng nhiệt dới, tập trung ở khu vực Ấn độ Dương và Tây Nam Thái
Bình Dương, chủ yếu ở khu vực từ Châu Úc đến New Guinea, Trung Quốc và Ấn Độ
(Nguyễn Thanh Phương và csv, 2003). Ở Việt Nam tôm càng xanh phân bố tự nhiên từ
Nha Trang trở vào đến Đồng Bằng Nam Bộ và tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long. Ở các thủy vực có độ mặn 18‰ đôi khi cả 25‰ vẫn thấy tôm xuất hiện
(Nguyễn Thanh Phương và csv, 2003).
2.1.2. Vòng đời của tôm càng xanh
Theo Ling (1969), ấu trùng trải qua 8 giai đoạn, nhưng theo Uno và Soo (1969), ấu
trùng trải qua 11 lần lột xác tương ứng với 11 giai đoạn biến thái khác nhau trước khi
14

biến thái qua hậu ấu trùng (postlarvae). Mỗi giai đoạn có hình thái và kích thước khác
nhau. Giai đoạn 1 dài khoảng 2mm, giai đoạn 11 dài khoảng 7mm. Giai đoạn hậu ấu
trùng có hình dạng giống như tôm trưởng thành nhỏ, di chuyển chủ yếu bằng cách bò
nhiều hơn là bơi lội tự do. Khi chúng bơi thường theo kiểu mặt lưng ở phía trên và tiến
về phía trước. Chúng có thể lẩn tránh nhanh nhẹn bằng cách co các cơ bụng lại. Các
hậu ấu trùng có khả năng chịu được sự dao động lớn của nồng độ muối.
Bảng 2.1. Đặc điểm các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm càng xanh (Uno và Soo, 1969).
Giai đoạn Ngày tuổi
(ngày)
Chiều dài ấu
trùng (mm)
Đặc điểm
I
II
III
IV

V
VI

VII
VIII
IX
X
XI
Post-
larvae
1
2
3-4
4-6

5-8
7-10
11-17
14-19
15-22
17-24
19-26
23-27
1,92
1,99
2,14
2,50

2,80
3,75
4,06
4,68
6,07

7,05
7,73
7,69
Mắt chưa có cuống.
Mắt có cuống.
Xuất hiện chân đuôi( Uropod).
Có 2 răng trên chủy, chân đuôi có hai nhánh, có
lông tơ.
Telson hẹp và kéo dài ra.
Mầm chân bụng xuất hiện.
Chân bụng có hai nhánh, chưa có lông tơ.
Chân bụng có lông tơ.
Nhánh trong của chân bụng có nhánh phụ trong.

Có 3-4 răng trên chủy.
Răng xuất hiện hết nửa răng trên chủy.
Răng xuất hiện cả trên và dưới chủy, có tập tính
như tôm lớn.
2.1.3. Đặc điểm sinh sản
Dựa vào hình thái bên ngoài có thể phân biệt được tôm càng xanh đực và cái dễ dàng.
Ở tôm trưởng thành, tôm đực thường có kích thước lớn hơn tôm cái cùng tuổi. Đầu
ngực tôm đực to hơn và khoan bụng hẹp hơn so với con cái. Bên cạnh đó, đôi càng thứ
hai dài , to và thô hơn. Tôm đực trưởng thành thường có đôi càng to màu xanh dương
đậm. Các góc chân ngực của tôm đực cũng xếp khít nhau hơn so với tôm cái, cạnh đốt
gốc chân ngực thứ 5 có 2 lỗ sinh dục đực. Ngoài ra, tôm dực còn có nhánh phụ đực
15

nằm kế nhánh trong của chân bụng 2 và điểm cứng ở giữa mặt bụng của đột bụng thứ
nhất.
Tôm cái thường có kích thước nhỏ hơn tôm đực, có phần đầu ngực và đôi càng nhỏ, 3

tấm bụng dầu tiên ở tôm cái rộng và dài tạo thành khoan bụng và lam buồng ấp trứng.
Quá trình nở rộng của các tấm bụng này khi tôm sinh sản lần đầu tiên và đây chính là
đặc điểm quan trọng của tôm cái. Lỗ sinh dục của con cái nằm ở phần ức, ngay gốc
chân ngực thứ 3, có dạng tam giác. Trên các đốt giữa của các chân bơi còn có nhiều
lông tơ hình thành thời kỳ lột xác tiền giao vĩ có tác dụng cho trứng bám vào (Nguyễn
Thanh Phương và csv, 2003)
Trong tự nhiên cũng như trong điều kiện nhân tạo, tôm thành thục và giao vĩ xảy ra
hầu như quanh năm. Mùa đẻ rộ của TCX ở đồng bằng Nam Bộ tập trung từ tháng 4 - 6
và từ tháng 8 - 10 (Nguyễn Việt Thắng, 1993). TCX cái thành thục lần đầu tiên ở
khoảng 3 - 3,5 tháng kể từ hậu ấu trùng 10 - 15 ngày. Kích cỡ tôm nhỏ nhất thành thục
từ 10 -13cm và 7,5g (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
Quá trình lột xác tiền giao vĩ của tôm cái sẽ tiết ra chất dẫn dụ có tác dụng kích thích
tôm đực tìm đến. Sau khi tôm lột xác, thường 3 - 6 giờ, tôm bắt đầu giao vĩ. Toàn bộ
quá trình tiếp xúc và giao vĩ xảy ra trong vòng 20 - 35 phút. Sau khi giao vĩ 2-5 giờ, có
khi 6 - 24 giờ, tôm cái bắt đầu đẻ trứng (Nguyễn Thanh Phương và csv, 2003). Tôm
thường đẻ trứng vào ban đêm. Tôm cái thường di chuyển từ tầng đáy lên tầng giữa hay
tầng mặt để đẻ. Trong quá trình đẻ trứng, trứng được thụ tinh khi đi ngang túi chứa
tinh. Trứng sẽ lần lượt dính từng chùm vào các lông tơ của các đôi chân bụng thứ tư,
thứ ba, thứ hai và thứ nhất. Thời gian đẻ trứng khoảng 10 - 60 phút và thông thường từ
15 - 25 phút. Những tôm cái thành thục chín muồi nhưng không được giao vĩ vẫn đẻ
trứng trong vòng 24 giờ sau khi lột xác. Những trứng này do không được thụ tinh nên
sẽ rụng sau 1-2 ngày (FAO, 1985).
2.1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Theo
Nguyễn

Thanh

Phương


và csv.
(
2003)
thì trong quá trình lớn lên, sự tăng
trưởng về chiều dài và trọng lượng của tôm càng xanh không liên tục mà theo hình
bậc thang. Sự tăng trưởng của tôm tùy thuộc vào nhiều giai đoạn, giới tính điều
kiện ương nuôi như môi trường, mật độ nuôi và dinh dưỡng. Tôm nhỏ có tốc độ
tăng trưởng nhanh hơn tôm lớn, tôm đực lớn nhanh hơn con cái. Tôm lớn lên phải
trải qua nhiều lần lột xác, chu kỳ lột xác của tôm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
kích cỡ của tôm, nhiệt độ, thức ăn, giới tính và điều kiên sinh lý của tôm.
16

Chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng, tình trạng sinh lý, điều
kiện dinh dưỡng, điều kiện môi trường,…. Tôm càng xanh tuân theo qui luật chung của
tôm là tôm nhỏ chu kỳ lột xác ngắn hơn tôm lớn. Chu kỳ lột xác của tôm trình bày
trong bảng sau:
Bảng 2.2. Chu kỳ lột xác của tôm ở các giai đoạn khác nhau (Sandifer và Smith, 1985).
Trọng lượng (g/con). Chu kỳ lột xác (ngày).
2-5
6-10
11-15
16-20
21-25
26-35
36-60
9
13
17
18
20

22
22-24
2.2. Tình hình sản xuất giống tôm càng xanh ở thế giới và ở Việt Nam
Theo New (2008), đầu thập niên 1960, Ling khởi xướng sản xuất giống tôm càng xanh
ở Malaysia, đến năm 1972 Fujimura đã phát triển hàng loạt kỹ thuật sản xuất tôm
postlarvae (PL) theo qui mô thương mại ở Hawaii. Đầu năm 1970, từ hawaii và thái lan
công nghệ sản xuất tôm đã được lan truyền sang các khu vực trên khắp thế giới, năm
1978, FAO thực hiện dự án mở rộng nuôi loài tôm càng xanh đầu tiên ở Thái Lan. Kể
từ đó, nghề nuôi thủy sản đã phát triển ở các lục địa, đặc biệt là ở Châu Á và Châu Mỹ,
đến năm 2005 sản lượng toàn cầu tăng hơn 200.000 tấn/năm (bao gồm cả Việt Nam)
(New, 2008).
Ở Việt Nam, theo New (2005) trong số 15 nước có sản lượng tôm càng xanh đứng đầu
trên thế giới năm 2001 thì Trung Quốc dẫn đầu với 128.300 tấn, Việt Nam đứng thứ
hai với 28.000 tấn. Trong các nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới Việt Nam được coi
là trong những nước có tốc độ tăng trưởng thủy sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng
trung bình trong giai đoạn 1998-2008 đạt 18%/năm. Từ năm 1990 - 2000, Việt Nam
đã trở thành một trong 10 nước có sản lượng cá nuôi lớn nhất thế giới, sau Trung Quốc,
Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Thái Lan, Bangladesh (Bộ Thủy Sản, 2006). Từ đó mà
Bộ Thủy Sản (2006) đã đưa ra kế hoạch đến năm 2010 sản lượng nuôi đạt tương đương
với khai thác (2 triệu tấn) để tổng sản lượng đạt 4 triệu tấn và ước đạt kim ngạch xuất
khẩu 4,5 tỷ USD.
17

Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam chiếm 3,7% thị phần trên thế giới và 0,3 % tổng
kim ngạch của toàn thế giới. Ba khối thị trường chính của xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam là Nhật Bản, Mỹ và EU với khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài
ra, hàng thủy sản Việt Nam cũng đang bắt đầu thâm nhập với thị trường mới phát triển
như: Đông Âu, Trung Đông, Châu Mỹ… Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng,
nghề nuôi tôm với nhiều mô hình nuôi tôm khác nhau như nuôi tôm trong mương
vườn, nuôi tôm trong ao đất, nuôi tôm trong đăng quầng, nuôi tôm luân canh với trồng

lúa,… Mô hình nuôi luân canh trên ruộng lúa đang được chú ý phát triển ở vùng này vì
diện tích đất ngập nước ở Đồng Bằng Sông Cửu Long lầ rất lớn. Theo thống kê năm
2002 của bộ thủy sản thì cả nước đạt khoảng 10.000 tấn tôm càng xanh, mà chủ yếu là
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nghề nuôi tôm hiện phổ biến ở các tỉnh An Giang, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh với các mô hình như nuôi tôm trong
mương vườn, nuôi tôm trên ruộng lúa, nuôi tôm trong đăng quầng. Năng suất tôm đạt
bình quân 184 kg/ha/vụ đối với nuôi tôm kết hợp với trồng lúa, 686 kg/ha/vụ đối với
nuôi tôm luân canh với trồng lúa, 4120 kg/ha/vụ đối với nuôi tôm đăng quầng và 1.200
kg/ha/vụ đối với nuôi tôm ao (Nguyễn Thanh Phương, 2004).
Sản xuất giống tôm càng xanh theo hệ thống nước trong hở
Qui trình nước trong hở được khởi xướng đầu tiên bởi Ling năm 1969 và đã được hoàn
thiện bởi Aquacop từ năm 1977. Qui trình này được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước.
Đây cũng là qui trình được ứng dụng chủ yếu ở nước ta trước đây. Nguyên tắc của qui
trình là đảm bảo môi trường nước trong, sạch bằng cách thay nước hằng ngày. Đặc
điểm quan trọng của qui trình là mật độ ương cao, thay nước và hút cặn hàng ngày. Qui
trình này thường đạt năng suất cao, tuy nhiên, tốn nhiều nước biển để thay, do đó cần
phải đặt trại gần biển. Hơn nữa qui trình cũng tốn nhiều công lao động và chi phí khác.
Sản xuất giống tôm càng xanh theo hệ thống nước trong kín
Qui trình này do một số tác giả như Sandifer và csv (1977), Menasveta và csv (1980),
nghiên cứu và căn bản được hoàn chỉnh để đưa vào sản xuất đại trà năm 1984. Hiện hệ
thống này được ứng dụngở nhiều nơi. Nguyên tắc hoạt động của qui trình là ổn định
môi trường nước ương nhờ hệ thống lọc sinh học. Đặc điểm cơ bản của hệ thống này là
dùng bể lọc sinh học để lọc nước thải ra từ bể ương và tái sử dụng. Đây là qui trình có
kỹ thuật cao, đầu tư cao, thiết bị đồng bộ, phức tạp khi lắp đặt nhưng đơn giản khi vận
hành và tiết kiệm được nước và công lao động. Tuy nhiên khi xay ra sự cố khó sử lý.


18

Sản xuất giống tôm càng xanh theo hệ thống nước xanh

Qui trình nước xanh được bắt đầu nghiên cứu từ năm 1966 do Fujimura khởi xướng và
đã hoàn thiện vào năm 1974. Qui trình này đã được ứng dụng rộng rãi ở nhiều quốc
gia. Nguyên tắc qui trình này là dùng tảo để ổn định môi trường nước ương. Đặc điểm
chính của qui trình này là thường xuyên bổ sung tảo Chlorella thuần vào bể ương để
duy trì màu nước xanh liên tục. Qui trình có ưu điểm là hạn chế thay nươc so với qui
trình nước trong hở và môi trường nước ổn định nhờ có tảo. Tuy nhiên, mật độ ương
thấp hơn nước trong, kỹ thuật nuôi tảo thuần khá phức tạp và tốn kém. Tảo thuần cho
vào bể ương thường không bền và phải được bổ sung liên tục.
Sản xuất giống tôm càng xanh theo hệ thống nước xanh cải tiến
Qui trình nước xanh cải tiến được Ang đề xướng từ năm 1986 trên cơ sở cải tiến mô
hình nước xanh trước đó. Nguyên tắc của qui trình là cho phép vi sinh vật và tảo phát
triển tự nhiên trong bể ương để tự ổn định môi trường nước. Vỏ Artemia được cho trực
tiếp vào bể để làm giá thể cho các vi sinh vật phát triển. Hệ thống này có nhiều ưu
điểm quan trọng là không thay nước, không vệ sinh bể và không bổ sung thêm tảo
trong suốt quá trình ương (tảo chỉ cho vào bể ương một lần đầu trước khi thả ấu trùng),
hệ thống rất đơn giản, chi phí thấp, dễ áp dụng cho nhiều đối tượng và nhiều nơi, cả
những vùng xa biển.
2.3. Một số vấn đề liên quan đến ứng dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi trồng thủy
sản và tôm càng xanh
2.3.1. Các khái niệm về chế phẩm vi sinh
Lily và Stillwell (1965) đã mô tả trước tiên probiotics như hỗn hợp được tạo thành bởi
một động vật nguyên sinh mà thúc đẩy sự phát triển của đối tượng khác. Sau đó định
nghĩa này được hoàn thiện hơn bởi Fuller (1989), ông định nghĩa probiotics như “một
chất bổ trợ thức ăn chứa vi sinh vật sống mà có ảnh hưởng có lợi đến vật chủ bằng việc
cải thiện cân bằng hệ vi sinh vật ruột của nó”.
Khái niệm này sau đó được phát triển xa hơn : “vi sinh vật sống (vi khuẩn lactic và vi
khuẩn khác, hoặc nấm men ở trạng thái khô hay bổ sung trong thực phẩm lên men) mà
thể hiện một ảnh hưởng có lợi đối với sức khỏe của vật chủ sau khi được tiêu hóa nhờ
cải thiện tính chất hệ vi sinh vật vốn có của vật chủ” (Havenaar et al., 1992).
Các nghiên cứu về việc sử dụng probiotics ở động vật thủy sản ngày càng gia tăng theo

nhu cầu thân thiện với môi trường (Gatesoupe, 1999). Hầu hết các probiotics sử dụng
trong nuôi trồng thủy sản là LBC, thuộc loài Bacillus để các vi khuẩn quang hợp, mặc
19

dù các giống hoặc loài khác nhau cũng đã được đề cập (Wang, 2007). Những lợi ích
của các chất bổ xung gồm việc cải thiện dinh dưỡng thức ăn, bổ xung enzym tiêu hóa,
ức chế vi sinh vật gây bệnh, hoạt chất gây đột biến, các yếu tố kích thích tăng trưởng,
và tăng cường đáp ứng miễn dịch (Wang, 2007).
2.3.2 Vai trò và tác dụng của chế phẩm vi sinh
Sản sinh ra các hợp chất ức chế
Có rất nhiều nghiên cứu chứng minh có nhiều dòng vi khuẩn (in vitro). Kìm hãm mầm
bệnh trong nuôi trồng thủy sản. Những nghiên cứu này cũng chứng minh rằng khả
năng kìm hãm vi khuẩn của những dòng vi khuẩn thông thường cũng dễ tìm thấy trong
môi trường (Fuller, 1989). Những quần thể sinh vật này có thể tiết vào môi trường chất
có tính sát khuẩn hoặc kìm khuẩn gây ảnh hưởng đến quần thể sinh vật khác. Mục đích
gián tiếp là cạnh tranh dinh dưỡng và năng lượng có sẵn trong môi trường. Sự có mặt
những vi khuẩn này sản sinh chất kìm hãm, có thể tiết ra trong ruột, trên bề mặt cơ thể
vật chủ hay ra môi trường nước làm rào cản sự nhân lên của vi khuẩn cơ hội gây ức chế
các vi sinh vật gây bệnh. Các chất diệt khuẩn này có thể có tác dụng đơn lẽ hoặc kết
hợp nhau. Trong sản xuất những dòng vi khuẩn có khả năng tiết ra chất kìm hãm mầm
bệnh được ứng dụng trong các nghiên cứu về vi sinh vật hữu ích. Sản phẩm có thể là:
chất kháng sinh, siderophores, men phân hủy, axit hữu cơ, v.v (Sugita và csv.,1997).
Thường khó có thể xác định được thành phần chất tiết ra nên được gọi chung là chất ức
chế. Vi khuẩn lactic từ lâu được biết là tiết ra chất kháng sinh vi khuẩn ( bacteriocin)
chống lại các vi khuẩn gam dương( không chuyên biệt). Đa số các vi khuẩn gây bệnh
trong thủy sản là gam âm;do vậy tác động của vi khuẩn lactic trong nuôi tròng thủy sản
bị hạn chế. Hiện nay chưa biết khả năng ức chế gam âm của vi khuẩn lactic. Vi khuẩn
lactic được biết là vi khuẩn không có hại, cạnh tranh chỗ cư trú. Nhiều vi khuẩn khác
cũng tiết ra chất ức chế chống lại vi khuẩn gây bệnh như Aeromonas hydrophila và
Vibrio parahaemolyticus (Nair và csv, 1985).

Cạnh tranh chất dinh dưỡng và năng lượng
Sự canh tranh chất dinh dưỡng và năng lượng xảy ra khi nhiều quần thể sinh vật cùng
tồn tại trong một hệ sinh thái. Theo lý thuyết sự cạnh tranh dinh dưỡng xảy ra ở trong
hệ tiêu hóa của động vật hữu nhũ, nhưng bằng chứng cho thấy sự xuất hiện này ở hoạt
động của con người và động vật trên cạn là không có lợi (Fuller, 1989). Sự cạnh tranh
trong giới vi sinh vật chủ yếu là xảy ra ở nhóm vi sinh vật dị dưỡng: cạnh tranh cơ chất
hữu cơ, chủ yếu là nguồn carbon và năng lượng. Nếu nắm được yếu tố ảnh hưởng đến
sự cạnh tranh này ta có thể điều khiển được thành phần vi sinh trong môi trường. Rico-
20

Mora (1998), đã đưa một dòng vi khuẩn được chọn lọc có khả năng phát triển trên môi
trường nghèo chất hữu cơ. Cấy vi khuẩn này vào bể nuôi tảo khuê cũng với Vibrio
alginolyticus: vi khuẩn vibrio này không phát triển. Verschuere và csv., (1999) đã chọn
lọc vài dòng vi khuẩn có ảnh hưởng tốt đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của ấu trùng
Artemia để làm thí nghiệm. Những vi khuẩn này được đưa vào môi trường nuôi
Artemia sau khi nước nuôi đã được lọc sạch. Vì vậy những dòng vi khuẩn chọn lọc sẽ
có ưu thế trong việc cạnh tranh năng lượng và chất dinh dưỡng.
Cạnh tranh chất sắt
Tất cả các vi sinh vật đều cần chất sắt cho sinh trưởng (Reid và csv., 1993). Hiện tượng
siderophores là hiện tượng vi khuẩn tiết ra chất kết tủa các ion sắt có trọng lượng phân
tử thấp trong môi trường. Các vi sinh vật này sẽ hấp thu các phân tử Fe kết tủa này và
làm mất Fe trong môi trường. Các vi sinh vật gây bệnh cần nhiều sắt để tăng trưởng, do
vậy dẫn đến hiện tượng cạnh tranh Fe của vi sinh vật trong thủy vực, kết quả làm hạn
chế mầm bệnh trong môi trường (Wooldridge và csv., 1993).
Cạnh tranh chỗ cư trú
Các thí nghiệm cho thấy các vi khuẩn gây bệnh cho tôm cá đều có khả năng bám dính
trên thành ruột. Các vi khuẩn được phân lập trên màng nhầy ruột cạnh tranh tốt hơn các
vi khuẩn từ bên ngoài. Ảnh hưởng có lợi có thể là hỗn hợp giữa cạnh tranh chỗ bám và
tiết ra chất ức chế. Khả năng bám dính và sự tăng trưởng trên bề mặt hay là trong lớp
màng nhầy của thành ruột đã được thử nghiệm trong ống nghiệm đối với vi khuẩn gây

bệnh trên cá như Vibrio anguillarum và Aeromonas hydrophila (Garcia và csv., 1997)
và dòng vi khuẩn hữu ích sử dụng trong thí nghiệm là Carnobacterium K1 (Jöborn và
csv., 1997) và vài dòng vi khuẩn phân lập có khả năng kìm hãm vi khuẩn Vibrio
anguillarum (Olsson và csv., 1992).
Tăng cường các phản ứng miễn dịch
Định nghĩa chất kích thích miễn dịch: là “ Những hợp chất kích thích hệ thống miễn
dịch của động vật và làm cho chúng đề kháng hơn đối với sự cảm nhiễm của virut, vi
khuẩn, nấm hoặc ký sinh trùng” (Raa, 1996).
Phản ứng miễn dịch khác nhau theo loài và theo độ tuổi. Ấu trùng thủy sản có hệ thống
miễn dịch rất kém phát triển. Một số tác giả công bố, những hợp chất tế bào chuyên
biệt hay các vi khuẩn làm chết có thể là chất kích thích miễn dịch trên tôm cá khi cho
ăn. Có một vài nghiên cứu trên động vật máu nóng cho thấy nếu bổ sung vi khuẩn
probiotic (vi khuẩn lactic acid) qua đường thức ăn có thể tăng khả năng đề kháng với
sự nhiễm bệnh về đường ruột (Holzapfel và csv., 1998). Có nhiều báo cáo cho rằng
21

thành phần vi khuẩn đóng vai trò như chất miễn dịch trên cá và tôm, số liệu hiện nay
đã được tổng kết (Sakai, 1999), nhưng chỉ có thành phần tế bào chuyên biệt đã được
áp dụng trong thí nghiệm này. Tuy nhiên ở thời điểm này chưa phân biệt rõ ràng hoặc
vi khuẩn được thêm vào như vi khuẩn hữu ích có ảnh hưởng tốt đến hệ miễn dịch của
những loài thủy sinh.
Tác động qua lại với thực vật phù du
Có khả năng điều khiển sự phát triển ổn định của tảo, vì sản phẩm hoạt động phân hủy
của các vi khuẩn có lợi là CO2 và các loại muối dinh dưỡng, chúng sẽ giúp ổn định hệ
thực vật phù du, đồng thời gián tiếp kìm hãm sự phát triển của tảo đáy. Gần đây các
nghiên cứu tạo ra một số dòng vi khuẩn có khả năng tiêu diệt một số loài tảo gây ảnh
hưởng lớn đến nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tảo gây ra hồng triều (Fukami và csv.,
1997). Tuy nhiên những dòng vi khuẩn này có thể không tốt đối với ương ấu trùng
bằng nước xanh, nhưng chúng sẽ có lợi khi tảo phát triển quá mức trong ao nuôi. Nhiều
dòng vi khuẩn khác còn có khả năng kích thích sự phát triển của tảo dùng để cung cấp

cho nuôi trồng thủy sản (Fukami và csv., 1997).
Cải thiện chất lượng nước
Là một cơ chế tác động của Probiotics trong thủy sản khi đưa vi sinh vật hữu ích vào
nước giúp cải thiện chất lượng nước mà không có tác động trực tiếp lên cơ thể vật nuôi.
Nhóm vi khuẩn tham gia vào quá trình này thường là các nhóm Bacillus. Nhóm vi
khuẩn gam (+) thường phân hủy vật chất hữu cơ thành CO
2
tốt hơn nhóm gam (-)
(Stanier và csv., 1963). Duy trì mật độ vi khuẩn gam dương trong ao nuôi sẽ hạn chế
được sự tích lũy vật chất hữu cơ trong ao trong suốt quá trình nuôi. Ổn định quần thể
tảo nhờ sự sản sinh CO
2
từ quá trình phân hủy. Trong thực tế, việc bón thêm các vi
khuẩn này thường không thấy hiệu quả rõ ràng trừ việc cấy vi khuẩn nitrate hóa. Việc
cấy vi khuẩn nitrate hóa cho lọc sinh học mới có thể làm giảm thời gian khởi động lọc
xuống 30%. Việc cung cấp vi khuẩn nitrate hóa cho ao nuôi hoặc bể nuôi có thể thực
hiện khi hàm lượng amôn tăng đột nghột ( Van Hauteghem và csv., 2000).
Theo Verschuere (2000) vi khuẩn Bacillus sp đóng vai trò quan trọng trong việc cải
thiện chất lượng nước. Lý do là vi khuẩn này đạt hiệu quả cao trong việc chuyển đổi
vật chất hữu cơ trở thành CO
2
. Vì vậy duy trì mức độ vi khuẩn gam dương trong ao có
thể giảm sự tích lũy hữu cơ và các chất hòa tan. Có nhiều tài liệu về probiotics đã xuất
hiện trong nuôi trồng thủy sản vào thập niên qua, hầu hết dựa vào các tranh luận về các
kinh nghiệm thực hành (Verschuere và csv., 2000).
22

Cải thiện chất lượng nước là một trong những vai trò quan trọng của vi khuẩn hữu ích
trong nuôi trồng thủy sản. Chất lượng nước có liên quan mật thiết đến tính chất nền đáy
của thủy vực, quá trình hấp thụ và giải phóng các chất làm biến đổi chất lượng nước,

đặc biệt là sự hấp thụ và giải phóng dinh dưỡng của nền đáy.
Trong vài nghiên cứu về chất lượng nước đã được báo cáo, trong suốt thời gian bổ
sung probiotics, đặc biệt Bacillus sp…nhận thấy rằng Bacillus sp. Vi khuẩn gram
dương thường chuyển vật chất hữu cơ sang CO
2
tốt hơn vi khuẩn gram âm, gram âm
chuyển carbon hữu cơ thành sinh khối vi khuẩn hoặc vôi (Stanier và csv., 1963). Đó là
lý do duy trì mật độ vi khuẩn gram dương hơn trong ao, người nuôi có thể hạn chế tối
đa sự tích tụ chất hòa tan và carbon hữu cơ trong suốt quá trình nuôi, trong khi quan sát
sự ổn định của thực vật thủy sinh bằng cách tăng hàm lượng CO
2
(Scura, 1995).
Vũ Ngọc Út (1999) cho rằng sự tác động của “probiotics” lên vật chủ theo hai hướng
có lợi và có hại. Những tác động có lợi: thứ nhất là ngăn chặn vi khuẩn có hại do tạo
các chất kháng khuẩn, cạnh tranh thức ăn và không gắn với các loại vi khuẩn có hại.
Thứ hai là tương tác với quá trình trao đổi chất của vật chủ hay hệ sinh vật trong cơ thể
vật chủ với quá trình enzym hỗ trợ cho tiêu hoá, giảm lượng ammonia hay những
enzym độc hại và cải thiện chức năng của thành ruột. Thứ ba là cải tiến phản ứng miễn
dịch của vật chủ theo do nồng độ kháng thể gia tăng và tăng số lượng đại thực bào.
Thứ tư là cải thiện môi trường, các vi khuẩn có lợi phân huỷ các chất hữu cơ có từ thức
ăn dư thừa, các chất bài tiết của tôm cá và có thể ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn
gây bệnh trong ao nuôi, giúp giảm ô nhiễm đáy ao. Ngoài những ảnh hưởng có lợi,
những tác động có hại là cạnh tranh các chất dinh dưỡng (glucose và các acid amin)
với vật chủ.
2.3.3 Thành phần và cơ chế hoạt động của chế phẩm vi sinh
Theo Trần Công Bình và csv. (2002) trên thị trường thuốc và hoá chất cho thuỷ sản
hiện nay, các chế phẩm từ “vi sinh vật hữu ích” rất đa dạng với nhiều tên thương mại
khác nhau. Thành phần của các chế phẩm này cũng rất khác nhau, có thể chứa một loài
hay rất nhiều loài vi khuẩn, có thể có bổ sung thêm các men phân giải hữu cơ, các
vitamin hay các chất chiết xuất sinh học,… Về công dụng có thể phân loại một cách

đơn giản các sản phẩm này thành hai nhóm: Nhóm xử lý ao nuôi và nhóm trợ tiêu hoá.
Đối với nhóm xử lý ao nuôi gồm một dòng hay một tập đoàn vi khuẩn, các men phân
huỷ hữu cơ và có thể có cả chất chiết xuất sinh học. Các chế phẩm này giúp giảm ô
nhiễm đáy ao do thức ăn thừa và các chất bài tiết của tôm cá, cải thiện chất lượng nước,
có thể giúp ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh trong ao.
23

Thành phần men vi sinh trong nuôi trồng thuỷ sản gồm những sản phẩm chính là dùng
vi sinh vật sống. Những nhóm thường sử dụng như Bacillus spp, Lactobacillus,
Pseudomonas, Nitrosomonas, Nitrobacter, Saccharomyces,…Và sản phẩm có chứa
acid hữu cơ, vitamin, các chất vi lượng và enzym (Protease, amylase, cellulase, )
(Nguyễn Thanh Phương, 2005).
Theo Nguyễn Đình Trung (2004), các enzym phân huỷ các hợp chất hữu cơ phức tạp
thành các hợp chất hữu cơ đơn giản. Sau đó các chủng loại vi sinh vật phát huy tác
dụng như sau.
Giảm Ammonia (NH
3
)
Vi sinh vật dị dưỡng chuyển hóa các hợp chất hữu cơ đơn giản thành các chất vô cơ.
NH
3
được làm giảm do hai loài vi sinh vật hóa tự dưỡng theo chu trình sau.
NH
4
+
+ 1,5 O
2
 Nitrosomonas  NO
2
-

+ 2 H
+
+ H
2
O.
NO
2
-
+ 0,5 O
2
 Nitrobacter  NO
3
-
.
Giảm tảo
Vi sinh vật thuộc nhóm Bacillus vừa sử dụng trực tiếp chất hữu cơ trong ao, vừa khử
Nitrate (NO
3
-
) thành Nitơ phân tử (N2) dạng khí thoát ra ngoài, làm giảm muối dinh
dưỡng trong ao, từ đó làm hạn chế sự gia tăng mật độ tảo, duy trì độ trong trong ao
nuôi tôm các tháng cuối không nhở hơn 30cm.
Giảm bệnh
Vi sinh vật thuộc nhóm Bacillus sẽ phát triển số lượng rất lớn, cạnh tranh sử dụng hết
thức ăn của nguyên sinh động vật, các vi sinh vật và nhóm vi khuẩn Vibrio có hại,
ngăn cản sự phát triển của chúng. Từ đó làm giảm các tác nhân gây bệnh cho tôm nuôi.
Nhờ đó, hạn chế được việc sử dụng các hoá chất, thuốc kháng sinh, giảm thay nước
trong quá trình nuôi, góp phần cải thiện chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản.
2.3.4. Các lưu ý khi sử dụng và lựa chọn chế phẩm vi sinh
Một chế phẩm vi sinh tốt phải bao gồm: Một nhóm vi khuẩn (vi khuẩn dị dưỡng

Heterotrophin bacteria, vi khuẩn tự dưỡng Nitrosomonas, Nitrobacter). Các men
(Enzym) như: Amylase, Protease, Lipase, Cellulose. Các chất khoáng dinh dưỡng. Có
thể thêm các chất chiết xuất sinh học. Để men vi sinh phát huy hiệu quả cao, người
nuôi thủy sản phải tuân thủ theo một số nguyên tắc sau đây.
Định kỳ sử dụng trong suốt quá trình nuôi, thông thường, từ 7-10 ngày sử dụng một lần
đối với loại xử lý môi trường và luân phiên sử dụng 5 ngày, sau đó ngưng 5 ngày đối
24

với loại trộn vào thức ăn. Lần đầu tiên sử dụng cùng lúc với bón phân gây màu nước
hay khi nước đã lên màu.
Cách dùng và liều lượng dùng: nên theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tuy nhiên chu kỳ
dài, ngắn giữa 2 lần sử dụng phụ thuộc vào chất lượng môi trường nước của từng ao,
từng giai đoạn nuôi khác nhau. Nếu có thể, trước khi dùng chế phẩm vi sinh nên thay
nước mới để tránh ảnh hưởng của kháng sinh và hóa chất đã dùng trước đó tới hiệu quả
của chế phẩm vi sinh. Không dùng chung hoặc ngay trước hay sau khi sử dụng kháng
sinh hay các chất diệt khuẩn như BKC, Formalin, Iodine, thuốc tím… vì nếu như vậy
sẽ làm vô hiệu hoá tác dụng của chế phẩm vi sinh. Phải sử dụng chế phẩm vi sinh theo
định kỳ để duy trì mật độ vi khuẩn có lợi. Nếu bệnh xuất hiện trong các ao nuôi đang
dùng chế phẩm vi sinh, buộc phải dùng thuốc sát trùng hay kháng sinh để xử lý bệnh
thì sau khi tôm đã khỏi bệnh từ 3- 5 ngày cần phải dùng lại chế phẩm vi sinh để khôi
phục lại hệ vi sinh vật ở đáy ao, trong đường ruột ở tôm.
Nếu dùng chế phẩm vi sinh vào các ngày có nhiệt độ nước ao nhỏ hơn 20
0
C, nên nuôi
cấy chế phẩm vi sinh trong nước ấm với nhiệt độ từ 30-35
0
C trước khi dùng. Đa số vi
sinh vật trong các chế phẩm vi sinh thuộc nhóm vi khuẩn hiếu khí. Do vậy, khi đưa
xuống ao nuôi phải tăng cường hàm lượng Oxy hòa tan trong nước, đặc biệt là đáy ao
để quá trình tăng sinh khối và hoạt động phân hủy của các vi khuẩn có lợi được thuận

lợi. Chế phẩm vi sinh là sản phẩm chỉ nên dùng trong hệ thống ao nuôi thâm canh, siêu
thâm canh và bán thâm canh là nơi có nhiều nguy cơ ô nhiễm hữu cơ.
2.3.5. Các nghiên cứu và ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản
Trên thế giới vào những năm cuối của thập kỷ 80, những công bố đầu tiên về kiểm soát
sinh học trong nuôi trồng thủy sản đã được công nhận và từ đó nhiều nghiên cứu về
vấn đề này không ngừng phát triển. Nhìn chung, men vi sinh đã được áp dụng trong bể
nuôi, trong ao để hạn chế sự nhiễm bệnh đối với các vi khuẩn gây bệnh, mặc dù ảnh
hưởng về dinh dưỡng cũng đóng vai trò trong men vi sinh, đặc biệt là việc sử dụng
dinh dưỡng mang lại tác dụng làm sạch môi trường. Hầu hết men vi sinh sử dụng làm
tác nhân kiểm soát sinh học trong nuôi trồng thủy sản là vi khuẩn lactic axít
(Lactobacillus, Carnobacterium ), giống Vibrio (Vibrio alginolyticus ), giống
Bacillus hoặc giống Pseudomonas (Verschuere et al,.2000).
Garriques và Arevalo (1995) đưa dòng Vibrio alginolyticus vào bể ương ấu trùng tôm
(Litopenaeus vannamei) mỗi ngày. Tỷ lệ sống trung bình và trọng lượng thân cao nhất
trong bể có thêm vi khuẩn hữu ích so với bể xử lý bằng kháng sinh oxytetracyline và
đối chứng. Số bể có bổ sung vi khuẩn Vibrio alginolyticus, không thấy xuất hiện vi
25

khuẩn gây bệnh V. parahaemolyticus, trong khi các nghiệm thức còn lại có khoảng 10
% mẫu có mặt vi khuẩn này.
Griffith (1995) cho rằng nhờ đưa men vi sinh vào trong bể ương tôm giống ở Ecuador
trong năm 1992, mà các trại nuôi tôm giống giảm thời gian nghỉ để làm vệ sinh các bể
nuôi, sản lượng tôm giống tăng 35% và giảm sử dụng các chất diệt khuẩn đến 94%.
Rengpipat và Rukpratanporn (1998) cho rằng Bacillus S11 là vi khuẩn hữu ích có thể
bổ sung vào dung dịch giàu hóa Artemia trước khi cho ấu trùng tôm sú ăn. Kết quả tôm
ít bệnh hơn và phát triển nhanh hơn, đạt tỉ lệ sống 100% khi gây cảm nhiễm với Vibrio
harveyi, trong khi kết quả đối chứng chỉ 26%.
Nghiên cứu cho thấy 86% người nuôi tôm ở Thái Lan sử dụng men vi sinh hoặc dẫn
xuất men vi sinh để cải thiện chất lượng nước và bùn đáy ao nuôi (Graslund et al.,
2003 trích bởi Boyd, 2005).

Ở Việt Nam, những nghiên cứu về việc sử dụng các men vi sinh để cải thiện môi
trường nuôi thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng còn tương đối ít (Nguyễn Hữu
Phúc và Nguyễn Văn Hảo, 1998). Trong những năm gần đây Bộ Thủy sản (2002) đã
cho phép lưu hành sử dụng nhiều chế phẩm vi sinh và nhiều nơi đã làm quen với việc
sử dụng các chế phẩm vi sinh này và có kết quả khá tốt. Tuy nhiên, cần có một sự đánh
giá toàn diện về hiệu quả kinh tế và phương pháp sử dụng.
Nghiên cứu của Đặng Thị Hoàng Oanh và csv., (2000), tìm hiểu tác dụng của men vi
sinh Bio-dream lên các yếu tố vô sinh và hữu sinh trong ương nuôi ấu trùng tôm càng
xanh với liều lượng 1g/m
3
(theo hướng dẫn của nhà sản xuất) và nhịp sử dụng khác
nhau. Tác giả cho biết với nghiệm thức không sử dụng, sử dụng hàng ngày và sử dụng
10 ngày 1 lần thì nghiệm thức sử dụng hàng ngày là tốt nhất. Kết quả thử nghiệm ấu
trùng chuyển sang tôm bột ở ngày thứ 18, mật số vi khuẩn Vibrio tổng cũng thấp và các
yếu tố môi trường cũng luôn giữ được ổn định. Điều này cho thấy hiệu quả tích cực của
men vi sinh trong sản xuất giống tôm càng xanh.
Theo Vũ Thị Thứ và csv., (2004),thử nghiệm men vi sinh Biochie để xử lý nước nuôi tôm
sú giống và tôm thịt tại Đồ Sơn, Hải Phòng và Hà Nội cho kết quả khá tốt thông qua môi
trường được cải thiện, đặc biệt rất có hiệu quả đối với nuôi tôm giống như giảm chu kỳ
thay nước và giảm mùi hôi. Tác dụng của chế phẩm lên sự tăng trưởng rất khả quan là tôm
phát triển đồng đều, tăng tỉ lệ sống và tăng trưởng nhanh.
Nghiên cứu sử dụng 3 loại men vi sinh Ecomarine, Bio-dream, BZT trong ương nuôi
ấu trùng tôm càng xanh theo mô hình nước xanh cải tiến, cho thấy các yếu tố môi
trường phù hợp cho sự phát triển của ấu trùng, men vi sinh góp phần hạn chế số lượng

×