Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

ung thư vũ ở nam giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.39 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
KHOA Y
BỘ MÔN UNG BƯỚU

CHUN ĐỀ

UNG
THƯ VÚ
Ở NAM
GIỚI

NHĨM THỰC HIỆN: Nhóm 2 – Lớp YAK42
GVHD: ThS.BS Phạm Hoàng Minh Quân
CẦN THƠ – 2021


DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM 2

STT

HỌ TÊN

MSSV

1

Trần Thanh Huy

1653010013

2



Nguyễn Đăng Khoa

1653010014

3

Trần Trọng Kiên

1653010015

4

Nguyễn Quỳnh Lê

1653010016

5

Lê Tỷ Lộc

1653010017

6

Nguyễn Thị Mai Ly

1653010018

7


Nguyễn Thị Tà Mi

1653010019

8

Kha Ngọc Ngân

1653010020

9

Phan Hữu Nghĩa

1653010021

10

Ngô Trần Phước Nguyên

1653010022

11

Võ Minh Hiếu Nhân

1653010023



UNG THƯ
VÚ Ở
Tác giả: William J Gradishar, MD, Kathryn J Ruddy, MD, MPH
Biên tập
phần: Anees B Chagpar, MD, MSc, MA, MPH, MBA, FACS, FRCS (C),
NAM
Daniel F Hayes, MD
GIỚI
Phó tổng
biên tập: Sadhna R Vora, MD
Tất cả các chủ đề đều được cập nhật khi có bằng chứng mới và q trình đánh giá
ngang hàng của chúng tơi đã hồn tất.
Tổng quan tài liệu hiện tại đến: tháng 3 năm 2021. | Chủ đề này được cập nhật
lần cuối: ngày 10 tháng 12 năm 2020.

GIỚI THIỆU
Ung thư vú ở nam giới rất hiếm [1,2]. Mặc dù nó có nhiều điểm tương đồng với
bệnh ung thư vú ở phụ nữ, tuy nhiên cũng có những khác biệt quan trọng [3,4]. Chủ
đề này sẽ xem xét các vấn đề cụ thể đối với nam giới bị ung thư vú. Tổng quan về
ung thư vú ở phụ nữ và các chủ đề liên quan đến điều trị ung thư vú được thảo luận
chi tiết riêng biệt
DỊCH TỄ HỌC VÀ CÁC YẾU TỐ RỦI RO
Ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, ung thư vú ở nam giới chiếm từ 0,5 đến 1 phần
trăm của tất cả các bệnh ung thư vú được chẩn đoán mỗi năm [1,5]. Tại Hoa Kỳ,
ung thư vú ở nam giới chiếm ít hơn 0,5 phần trăm tổng số ca chẩn đoán ung thư ở
nam giới [5]. Ngược lại, trong Tanzania và các khu vực thuộc Trung Phi, ung thư
vú ở nam giới chiếm tới 6 phần trăm tổng số các ca ung thư vú [6]. Tỷ lệ ung thư
vú ở nam giới cao hơn ở miền trung và miền đông châu Phi có thể là liên quan đến
các bệnh truyền nhiễm về gan lưu hành dẫn đến chứng tăng tiết niệu [7,8].
Đối với phụ nữ, tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú ở nam giới tăng theo độ tuổi, và nam

giới có xu hướng lớn hơn phụ nữ khoảng 5 đến 10 tuổi tại thời điểm chẩn đoán
[4,9-14]. Hàng năm tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú ở nam giới dường như đang tăng
lên; một báo cáo cho thấy rằng tỷ lệ mắc bệnh có tăng 26 phần trăm trong 25 năm
qua [15].
1


Ung thư vú ở nam giới dường như có chung một số yếu tố nguy cơ liên quan đến
ung thư vú sau mãn kinh ở phụ nữ [4]. Các đánh giá có hệ thống về tài liệu có
đã tóm tắt các yếu tố liên quan đến ung thư vú ở nam giới và những yếu tố này
được xem xét dưới đây [16,17]. Bất chấp những hiệp hội được báo cáo này, đại đa
số nam giới bị ung thư vú đều khơng có yếu tố rủi ro có thể xác định được
Di truyền và tiền sử gia đình - Cũng như ung thư vú ở phụ nữ, tiền sử gia đình mắc
ung thư vú ở người thân kế một thế hệ có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư
vú ở nam giới. Khoảng 15% đến 20% nam giới bị ung thư vú có tiền sử gia đình
mắc bệnh so với chỉ 7% dân số nam nói chung [11]. Như trường hợp ở phụ nữ, hai
gen ung thư vú/buồng trứng, BRCA1 và BRCA2, được di truyền theo kiểu gen trội
trên NST thường, làm phát sinh phần lớn các trường hợp ung thư vú di truyền đã
biết. (Xem "Kiểm tra di truyền và quản lý các cá nhân có nguy cơ mắc hội chứng
ung thư vú và ung thư buồng trứng di truyền" và "Tổng quan về các hội chứng ung
thư vú và ung thư buồng trứng di truyền liên quan đến các gen khác ngoài
BRCA1/2".)
Nguy cơ ung thư vú của nam giới dường như cao hơn trong đó di truyền BRCA2
nhiều hơn là đột biến BRCA1 [18-23]. Những người đàn ơng thừa hưởng đột biến
BRCA2 dịng mầm có nguy cơ ung thư vú trong suốt cuộc đời ước tính là 6%; điều
này cho thấy nguy cơ cao gấp 100 lần so với dân số nam nói chung [23,24]. (Xem
"Các yếu tố nguy cơ đối với ung thư tuyến tiền liệt", phần ‘Tiền sử gia đình và các
yếu tố di truyền’ và "Nguy cơ ung thư và quản lý người mang gen BRCA1/2 không
bị ung thư" trong phần ‘Bệnh ung thư vú nam’.)
Các gen khác ngồi BRCA có thể liên quan đến khuynh hướng ung thư vú ở nam

giới: đột biến ở gen ức chế khối u phosphatase và tensin tương đồng ( PTEN ) (hội
chứng Cowden), protein khối u p53 ( TP53 ; hội chứng Li-Fraumeni), đối tác và
chất định vị của BRCA2 ( PALB2 ), và
các gen sửa chữa khơng phù hợp (hội chứng Lynch) đều có liên quan đến việc tăng
nguy cơ ung thư vú ở nam giới [ 36-38]. Tuy nhiên, trong khi những phát hiện như
vậy có thể làm tăng nguy cơ tương đối của ung thư vú ở nam giới đã xác định được
đột biến (so với nam giới khơng có đột biến này), nguy cơ tuyệt đối của ung thư vú
ở nam giới vẫn khá thấp. Do đó, chúng tơi sẽ khơng tư vấn chụp nhũ ảnh tầm sốt
hoặc cắt bỏ vú dự phịng ở những nam giới bị ảnh hưởng. (Xem "Hội chứng khối u
PTEN hamartoma, bao gồm hội chứng Cowden" và "Hội chứng Li-Fraumen"
2


và "Tổng quan về vú di truyền và hội chứng ung thư buồng trứng có liên quan các
gen khác ngồi BRCA1 / 2", phần trên 'MSH1, MLH1, MSH6, PMS2 và EPCAM
(hội chứng Lynch) ' và "Tổng quan về các hội chứng di truyền ung thư vú và ung
thư buồng trứng liên quan đến hcác gen khác ngoài BRCA1 / 2", phần trên
'PALB2'.)

Sự thay đổi của tỷ lệ estrogen và androgen – Sự kích thích q mức estrogen có
thể là do các liệu pháp nội tiết tố (ví dụ, các hợp chất chứa estrogen hoặc
testosterone), rối loạn chức năng gan, béo phì, sử dụng cần sa, bệnh lí tuyến giáp
hoặc một tình trạng di truyền, chẳng hạn như: Hội chứng klinefelter.
Hội chứng Klinefelter là một tình trạng di truyền hiếm gặp do thêm một nhiễm sắc
thể X [9,39-41]. Hội chứng Klinefelter bao gồm teo tinh hồn, nữ hóa tuyến vú,
nồng độ gonadotropins trong huyết thanh cao (hormone kích thích nang trứng,
hormone tạo hoàng thể), và nồng độ testosterone trong huyết thanh thấp; kết quả
dẫn đến một tỷ lệ cao giữa estrogen với testosterone.
(Xem "Nguyên nhân của thiểu năng sinh dục nguyên phát ở nam giới".)
Rất ít nghiên cứu dịch tễ học được tiến hành cẩn thận để tập trung vào mối liên

quan này do sự hiếm gặp của cả hội chứng Klinefelter và ung thư vú ở nam giới.
Nghiên cứu thuần tập lớn nhất trên 3518 nam giới được chẩn đoán di truyền tế bào
mắc hội chứng Klinefelter cho thấy tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư vú tăng lần
lượt 19 và 58 lần so với dân số chung [42]. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để
làm rõ những người đàn ơng nào mắc hội chứng Klinefelter có nguy cơ cao phát
triển ung thư vú và xác định sự đóng góp của các yếu tố khuynh hướng có thể xảy
ra, bao gồm cả các hormone nội sinh bị thay đổi.
Vai trị của tầm sốt ung thư vú ở nam giới mắc hội chứng Klinefelter là không rõ
ràng. Mặc dù chụp nhũ ảnh định kỳ không được ủng hộ cho tất cả nam giới bị ảnh
hưởng, nhưng tầm quan trọng của việc giáo dục bệnh nhân, tự kiểm tra và khám
bác sĩ thường xuyên vẫn được nhấn mạnh [42]. (Xem "Bất thường nhiễm sắc thể
giới tính", phần '47, hội chứng Klinefelter XXY'.)
Các tình trạng tinh hồn ngun phát - Các bệnh lý ở tinh hồn có liên quan đến
nguy cơ tang mắc ung thư vú ở nam giới bao gồm viêm tinh hồn, tinh hồn khơng
to (bệnh đái tháo đường) và chấn thương tinh hoàn [9,13,43]. Trong khi suy đoán,
3


có thể những tình trạng này có thể liên quan đến việc sản xuất androgen thấp hơn,
dẫn đến tỷ lệ estrogen với androgen cao hơn bình thường.
TRÌNH BÀY
Đặc điểm lâm sàng - Ung thư vú ở nam thường được chẩn đoán ở giai đoạn nặng
hơn ung thư vú ở nữ, có thể do sự thiếu nhận thức rằng nam giới cũng có thể bị ung
thư vú và khơng khám sàng lọc định kỳ [44]. Tuy nhiên, một phân tích cho thấy
rằng phần lớn nam giới được chẩn đoán mắc bệnh giai đoạn đầu (95%) và chỉ 3,8%
mắc bệnh di căn [45,46].
Hầu hết nam giới bị ung thư vú thường biểu hiện với một khối cứng chắc, không
đau, thường là ở dưới quầng vú, bao gồm núm vú trong 40-50% các trường hợp
[11,47]. Ung thư vú bên trái cao hơn so với bên phải, và ít hơn 1% trường hợp là
mắc hai bên. Có thể có các thay đổi về da liên quan, bao gồm co rút núm vú, loét

hoặc cố định khối vào da hoặc các mô bên dưới. Hạch nách thường có thể sờ thấy
được trong những trường hợp nặng.
Đặc điểm bệnh lý - Mặc dù hầu hết các phân nhóm mơ học của ung thư vú gặp ở
phụ nữ cũng có ở nam giới, nhưng nam giới bị ung thư vú hiếm khi được chẩn đoán
là ung thư biểu mô tiểu thùy.
ung thư biểu mô [48].
Khoảng 85-90% ung thư vú ở nam giới là ung thư biểu mô ống dẫn trứng xâm lấn
[15,45]. Ngược lại, ung thư tiểu thùy chiếm 1,5% các trường hợp ở một loạt 2000
nam giới [15] và chỉ 0,5% trong một loạt các trường hợp khác [46], trong khi chúng
chiếm tới 15% các trường hợp ở phụ nữ [49]. Việc thiếu phân loại mô học tiểu thùy
là do thiếu nang tuyến và tiểu thùy ở vú nam bình thường, mặc dù chúng có thể
được tạo ra trong bối cảnh kích thích estrogen. (Xem "Bệnh lý của ung thư vú".)
Ngoài sự khác biệt về ung thư biểu mơ xâm lấn, cịn có sự khác biệt về tỷ lệ mắc và
đặc điểm lâm sàng của ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) (xem "Ung thư
biểu mô tuyến vú tại chỗ: Dịch tễ học, biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán" và "Bệnh
Paget vú (PDB) "và" Ung thư vú dạng viêm: Đặc điểm lâm sàng và điều trị "):
 DCIS chiếm tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ cao hơn đáng kể so với nam giới (tương ứng
khoảng 20 so với 7-11%) [15,50,51].
 DCIS ở nam giới có xu hướng xảy ra ở độ tuổi muộn hơn, biểu hiện thường xuyên
hơn ở dạng nhú trong ống dẫn và thường ở mức độ thấp [51,52]
4


Bệnh Paget và ung thư vú dạng viêm hiếm khi được mơ tả ở nam giới [53-56]
Phân nhóm ung thư vú: Như ở phụ nữ sau mãn kinh, phân nhóm phổ
biến nhất của ung thư vú ở nam giới là thụ thể hormone dương tính
[11,14,15,57]. Một nỗ lực của tập đoàn trên thế giới đã đánh giá hồi cứu
các đặc điểm của gần 1500 bệnh nhân ung thư vú nam có sẵn mơ và thấy
rằng 99% là thụ thể estrogen dương tính, 81% là thụ thể progesterone
dương tính và 97% là thụ thể androgen dương tính [45]. Các đánh giá

hóa học miễn dịch từ nghiên cứu này cho thấy 42% là Luminal A, 42% là
Luminal B, 8,7 % là thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô con người 2
(HER2) dương tính và 0,3 % là âm tính cả ba thụ thể trên. Có sự khác
biệt trong đặc điểm phân tử của ung thư vú liên quan đến cả tuổi tác và
dân tộc, mặc dù những điều này dường như khơng ảnh hưởng đến kết
quả sống sót. Điều này đã được thể hiện trong một nghiên cứu có đăng
ký liên quan đến 829 người đàn ông bị ung thư vú nguyên phát (71,11 và
7% là người da trắng không gốc Tây Ban Nha, gốc Tây Ban Nha hoặc
người da đen khơng gốc Tây Ban Nha) [57]. Phát hiện chính:
-Thụ thể hormone dương tính/ HER2 âm tính, HER2 dương tính và âm
tính cả ba được xá định trong 82, 15 và 4% tổng số các trường hợp
tương ứng.
-Những bệnh nhân trẻ tuổi có nhiều khả năng được chẩn đốn mắc khối u
HER2 dương tính.
-Những người da đen khơng gốc Tây Ban Nha có nhiều khả năng mắc
ung thư vú với âm tính cả ba thụ thể so với người da trắng không gốc Tây
Ban Nha và người Tây Ban Nha ( tương ứng là 9% so với 3% và 6%).
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ GIAI ĐOẠN
Cách tiếp cận đối với bệnh nhân nam có khối u vú đáng ngờ tương tự như
ở phụ nữ bao gồm chụp nhũ ảnh và sinh thiết. (Xem "Clinical
manifestations, differential diagnosis, and clinical evaluation of a
palpable breast mass" và "Diagnostic evaluation of women with
suspected breast cancer" và "Clinical features, diagnosis, and staging of
newly diagnosed breast cancer".)

5


Chụp nhủ ảnh: nhũ ảnh bất thường ở 80-90% nam giới mắc ung thư vú
và thưởng có thể phân biệt giữa khối u ác tính với nữ hóa tuyến vú giới

[58-60]. Trong một nghiên cứu, tỷ lệ độ nhạy và độ đặc hiệu được báo
cáo của chụp nhũ ảnh lần lượt là 92% và 90% [58]. Các đặc điểm
Xquang gợi ý của khối u ác tính bao gồm lệch tâm đến núm vú, bờ lỏm
nhỏm, vi vơi hóa. Ngược lại, nữ hóa tuyến vú thường xuất hiện dưới
dạng một khu vực trịn hoặc hình tam giác với mật độ dày được nằm đối
xứng ở vùng retroareolar (bán kính 2cm tính từ núm vú). Trong một số ít
trường hợp, nữ hóa tuyến vú đồng thời có thể che giấu tổn thương ác tính
[59, 60]. (Xem "Breast imaging for cancer screening: Mammography and
ultrasonography").
Sinh thiết: bất kỳ khối đáng ngờ nào cũng cần sinh thiết để xác nhận
chẩn đoán và xét nghiệm thụ thể HER2. Mặc dù chọc hút tế bào bằng
kim nhỏ (FNA) có thể cung cấp bằng chứng chẩn đốn đầy đủ trong
nhiều trường hợp, tránh sinh thiết mở hoặc phẫu thuật [61-63], có tới 1/4
mẫu khơng đủ để chẩn đốn [61]. So với FNA, sinh thiết lõi kim cung
cấp chẩn đốn mơ học dứt khốt hơn, tránh các mẫu khơng đầy đủ và
thường phân biệt giữa ung thư xâm lấn so với ung thư tại chỗ. Nếu thu
được mô không đầy đủ, cần thực hiên sinh thiết mở. (Xem "Breast
biopsy").
CHẨN ĐỐN PHÂN BIỆT
Chẩn đốn phân biệt khối vú ở nam giới bao gồm [64]:
Nữ hóa tuyến vú: nữ hóa tuyến vú thường biểu hiện dưới dạng mở rộng
vú hai bên, đối xứng với các đường ranh giới không rõ. Không giống như
ung thư vú , thường khơng có vị trí cố định bên dưới thành ngực và nó
khơng liên quan đến thay đổi da hoặc hạch nách. (Xem "Epidemiology,
pathophysiology, and causes of gynecomastia"
Nữ hóa tuyến vú giả: trái ngược với nữ hóa tuyến vú, nữ hóa tuyến vú
giả đại diện cho sự gia tăng chất béo ở vú chứ không phải mơ tuyến,
thường có thể đánh giá qua thăm khám lâm sàng. (Xem "Clinical
features, diagnosis, and evaluation of gynecomastia in adults", phần trên
'Pseudogynecomastia').


6


Nhiễm trùng: điều này bao gồm áp xe vú hoặc các bệnh nhiễm trùng da
khác liên quan đến thành ngực. thơng thường, nó biểu hiện dưới dạng
viêm cục bộ và cơn đau tại chỗ, thường liên quan đến các triệu chứng
tồn thân (vi dụ: sốt và khó chịu) (Xem "Primary breast abscess").
Lipoma : đây là những khối vú hình trứng thành phần là chất béo.
Lipoma là khối u mềm lành tính phổ biến nhất và hiếm khi gây ra các
triệu chứng. (Xem "Overview of benign lesions of the skin", section on
'Lipoma').
Mô đệm tăng sản giả mạch (PASH) được đặc trưng như một tăng sinh
lành tính của tế bào stromal. Nó biểu hiện dưới dạng một khối hoặc dày
lên và trên hình ảnh học được đặc trưng như một khối rắn bờ rõ khơng
vơi hóa. (Xem "Overview of benign breast diseases", phần trên
'Pseudoangiomatous stromal hyperplasia').
Khối u tế bào dạng hạt: khối u tế bào dạng hạt thường là khối u lành
tính, dưới niêm mạc phát sinh từ các tế bào Schwann. Chúng thường xảy
ra ở hầu họng, da, mô dưới da hoặc vú. Biểu hiện lâm sàng và đánh giá
hình ảnh của các khối u này có thể phản ánh ung thư vú xâm lấn. Do đó,
chẩn đốn thường địi hỏi phải phân tích mơ và làm sinh thiết lõi kim.
(Xem "Benign lesions of the esophagus", phần trên 'Granular cell
tumors').
Xơ hóa: xơ hóa (hoặc khối u Desmoid) là các khối u tiến triển cục bộ mà
khơng có tiềm năng di căn hoặc phân hủy. chẩn đoán yêu cầu kiểm tra kết
quả sinh thiết mô. (Xem "Desmoid tumors: Epidemiology, risk factors,
molecular pathogenesis, clinical presentation, diagnosis, and local
therapy")
Di căn : mặc dù hiếm gặp, di căn từ một bệnh ung thư nguyên phát khác

có thể biểu hiện dưới dang khối ở vú. Sinh thiết là cần thiết để loại trừ
tổn thương nguyên phát so với di căn.
Các khối u hiếm gặp khác xảy ra ở nam giới bao gồm: Schwannoma,
myofibroblastoma và hemangiomas. Ngoài ra, các tổn thương vú lành
tính khác thường thấy ở nữ cũng nên được xem xét. Chúng được thảo
luận chi tiết hơn một cách riêng biệt (Xem "Overview of benign breast
diseases"
7


TIẾN ĐỘ CÔNG VIỆC
Hệ thống đánh giá và phân giai đoạn chẩn đoán được sử dụng cho bệnh ung thư vú
ở nam giới giống như cho phụ nữ bị ung thư vú. (Xem "Các đặc điểm lâm sàng,
chẩn đoán và phân loại mới được chẩn đoán ung thư vú ".)
Ung thư vú được phân loại theo ấn bản thứ tám quyển sách mang tên Tumor, Node,
Metastasis (TNM) hệ thống phân giai đoạn được phát triển bởi Ủy ban Hỗn hợp về
Ung thư Hoa Kỳ (AJCC) và được xác nhận bởi Liên minh Kiểm sốt Ung thư Quốc
tế (UICC) [65].
BỆNH KHƠNG DI CĂN
Điểm khác biệt so với phương pháp tiếp cận ở phụ nữ - Nhìn chung, phương pháp
tiếp cận sớm ung thư vú ở nam giới phản ánh điều đó ở phụ nữ. Tuy nhiên, vẫn có
những trường hợp ngoại lệ đáng chú ý. Cụ thể như sau:
- Nam giới bị ung thư vú giai đoạn đầu thường tiến hành phẫu thuật cắt bỏ vú
đơn giản hơn là liệu pháp bảo tồn vú vì khối lượng mơ vú nhỏ. Tuy nhiên, việc ra
quyết định giữa hai lựa chọn nên được tiến hành theo cách tương tự như đối với
phụ nữ. Cụ thể, những người đàn ơng có đủ mơ vú để cho phép bảo tồn vú có thể
tiếp tục với phương pháp này, loại trừ bất kỳ chống chỉ định nào, sau đó là thuốc bổ
trợ sự bức xạ. (Xem "Điều trị phẫu thuật" bên dưới và "Liệu pháp bảo tồn vú",
phần trên
'Chống chỉ định tuyệt đối cho BCT' và "Liệu pháp bảo tồn vú", phần "Tương đối

chống chỉ định cho BCT '.)
- Đối với những người mắc bệnh dương tính với thụ thể hormone, chúng tơi
đề nghị dùng tamoxifen bổ trợ thay vì hơn một chất ức chế men thơm (AI), không
đủ bằng chứng để hỗ trợ liệu pháp AI đơn trị cho nam giới [66], và ít tác dụng phụ
hơn so với AI với hormone giải phóng gonadotropin chất chủ vận (GnRHa). Đối
với những người có chống chỉ định với tamoxifen (ví dụ: trạng thái đơng máu), một
AI với GnRHa có thể được quản lý. (Xem 'Liệu pháp nội tiết' bên dưới.)
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT - Phương pháp phẫu thuật để điều trị ung thư vú ở
nam giới tương tự như của phụ nữ và phụ thuộc vào mức độ bệnh khi biểu hiện.
Điều này được thảo luận dưới đây.

8


Bệnh ở giai đoạn đầu - Mặc dù khơng có thử nghiệm ngẫu nhiên nào, hầu hết nam
giới bị bệnh ở giai đoạn đầu (T1 đến T2, N0 đến N1) trải qua một cuộc phẫu thuật
cắt bỏ vú đơn giản hơn là cắt bỏ vú với cắt bỏ các bó cơ ngực. Đối với những người
đàn ông muốn tránh cắt bỏ vú, hạn chế dữ liệu gợi ý rằng phẫu thuật bảo tồn vú là
một giải pháp thay thế hợp lý, miễn là có đủ mơ vú để đảm bảo có thể thu được đủ
biên độ phẫu thuật.
Dữ liệu từ các nghiên cứu hồi cứu so sánh phẫu thuật cắt bỏ vú triệt để đã sửa đổi
với đối tác (bao gồm cả việc lấy cơ) luôn hiển thị các quy trình dẫn đến kết quả tỷ
lệ tái phát cục bộ tương đương và kết quả sống sót [12,67-69]. Sự hỗ trợ cho việc
cắt bỏ vú đơn giản cũng có thể được rút ra từ các nghiên cứu ở phụ nữ cũng đã
chứng minh điều trị sự tương đương của hai quy trình phẫu thuật này. Kỹ thuật cắt
bỏ núm vú và tiết kiệm da đã nổi lên như một công cụ có giá trị trong bệnh ung thư
vú ở phụ nữ, nhưng chúng chưa được khám phá trong ung thư vú ở nam giới, có
thể do những hạn chế của vị trí khối u và sự liên quan của núm vú. Tuy nhiên, sự lo
lắng về tâm lý xã hội được mô tả dưới đây cho thấy rằng sự chú ý nhiều hơn đến
kết quả thẩm mỹ cho nam giới không nên bỏ qua. Thật vậy, việc tái tạo vú đã được

được thực hiện ở nam giới dường như cho chính xác chỉ định này [70]. (Xem "Cắt
bỏ vú".).
Mặc dù hầu hết đàn ơng có một lượng nhỏ mơ vú, nhưng một số lại có đủ mơ vú để
cho phép liệu pháp bảo tồn vú [71]. Khi xem xét dữ liệu từ Cơ quan giám sát, Dịch
tễ học và Chương trình Kết quả Cuối cùng (SEER), 1541 trường hợp ung thư vú
nam giới là được xác định, và gần 20 phần trăm được điều trị bằng bảo tồn vú [72].
Trong khi nghiên cứu này không báo cáo kết quả, một phân tích cơ sở dữ liệu
SEER tiếp theo cho thấy phẫu thuật bảo tồn vú là một giải pháp thay thế có thể
chấp nhận được cho việc cắt bỏ vú ở một số bệnh nhân nam ( bảng 2) [73]. Hơn
nữa, một nghiên cứu hồi cứu về bảy người đàn ông được điều trị bằng liệu pháp
bảo tồn vú được theo dõi trong thời gian trung bình là 67 tháng báo cáo rằng không
ai trải qua bệnh tái phát [71]. (Xem "Liệu pháp bảo tồn vú".)
Đối với hầu hết nam giới chọn tiến hành phẫu thuật bảo tồn vú, xạ trị bổ trợ (RT)
được cho là rất cần thiết. Điều này dựa trên kết quả nhất quán cho thấy RT bổ trợ
sau phẫu thuật bảo tồn vú cho phụ nữ mang lại lợi thế sống sót. Tuy nhiên, ngoại
suy từ dữ liệu ở những phụ nữ lớn tuổi bị ung thư vú âm tính về mặt lâm sàng, nhạy
cảm với thụ thể hormone được điều trị bằng liệu pháp nội tiết bổ trợ, chúng tôi
cung cấp cho những người đàn ông tương tự tình trạng lâm sàng lựa chọn bỏ qua
9


RT. Dữ liệu về ung thư vú ở phụ nữ cho thấy điều này phương pháp tiếp cận mang
lại tỷ lệ sống sót tổng thể và tỷ lệ di căn xa tương tự nhau, mặc dù tái phát thường
xuyên hơn. (Xem "Xạ trị bổ trợ cho phụ nữ mới bị ung thư vú được chẩn đốn,
khơng di căn ", phần 'Loại bỏ RT cho phụ nữ lớn tuổi bị ung thư vú dương tính với
ER'.)
Quản lý các nút khu vực - Đánh giá các nút khu vực là một việc quan trọng khía
cạnh quản lý ung thư vú bằng phẫu thuật, cũng như ở phụ nữ. Chúng tôi đồng ý với
một hội đồng chuyên gia được triệu tập bởi Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ
(ASCO) và cảm thấy rằng bạch huyết lính gác sinh thiết nút (SLNB) cho nam giới

bị ung thư vú âm tính trên lâm sàng là "chấp nhận được" [74], và chúng tôi đề xuất
phương pháp này trên phương pháp mổ toàn bộ vùng nách trong bối cảnh này.
Mặc dù vai trò của SLNB được xác định ở phụ nữ bị ung thư vú âm tính về mặt
lâm sàng, vai trị đã được chứng minh của nó ở nam giới kém mạnh mẽ hơn do sự
hiếm gặp của ung thư vú ở nam giới. Mặc dù lớn nghiên cứu xác định độ nhạy và
độ đặc hiệu của SLNB ở nam giới âm tính về mặt lâm sàng ung thư vú đã không
được thực hiện, các báo cáo nhỏ hơn cho thấy nó là khả thi và chính xác [75,76]. Ví
dụ, như được báo cáo trong một cuộc đánh giá hồi cứu 32 bệnh nhân, 19% có một
nút canh gác liên quan và khơng có sự tái phát ở nách khi theo dõi trung bình là 30
tháng [75]. SLNB ở nam giới đang được áp dụng rộng rãi hơn. (Xem "Tổng quan
về bạch huyết trọng điểm sinh thiết nút trong ung thư vú ".)
Nam giới có SLNB âm tính khơng cần phẫu thuật thêm. Tuy nhiên, vai trò của một
Việc mổ xẻ hạch nách cho nam giới có SLNB dương tính vẫn cịn nhiều tranh cãi.
Do thiếu dữ liệu để thông báo vấn đề này, phương pháp tiếp cận bệnh nhân với một
tấm gương SLNB tích cực cho phụ nữ. (Xem "Tổng quan về sinh thiết hạch bạch
huyết trọng điểm trong ung thư vú".)
Bệnh tiến triển tại chỗ - Nam giới mắc bệnh tiến triển tại chỗ (T3N0 hoặc giai
đoạn Bệnh III) hoặc ung thư vú dạng viêm được điều trị tương tự đối với những
phụ nữ mắc bệnh này đường. Chúng tôi cung cấp cho những bệnh nhân này hóa trị
liệu bổ trợ vì các thử nghiệm ngẫu nhiên về hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật so với
phẫu thuật chính, sau đó là bổ trợ hóa trị, chủ yếu được thực hiện ở phụ nữ, chứng
minh rằng hóa trị liệu bổ trợ có liên quan đến tỷ lệ đáp ứng lâm sàng cao và cao
hơn khả năng cho phép phẫu thuật thẩm mỹ được chấp nhận mà không ảnh hưởng

10


đến sự sống còn kết quả. (Xem "Nguyên tắc chung về quản lý chất bổ trợ mới của
ung thư vú".)
Ngoài ra, những bệnh nhân mắc bệnh ở giai đoạn sớm hơn có thể là ứng cử viên

thích hợp cho thuốc bổ trợ tân sinh liệu pháp điều trị nếu họ bị ung thư vú âm tính
ba lần hoặc thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì ở người. Các khối u dương tính 2
(HER2), vì những bệnh nhân này thường được hóa trị tại một số thời điểm dù sao
thì quá trình điều trị của họ, và những kiểu phụ này có liên quan đến khả năng cao
phản ứng. (Xem "Nguyên tắc chung về quản lý chất bổ trợ mới của ung thư vú",
phần trên 'Lựa chọn bệnh nhân'.)
Sau khi hồn thành hóa trị, chúng tơi tiến hành phẫu thuật cắt bỏ vú ở hầu hết các
bệnh nhân, miễn là họ có đủ phản ứng để làm cho phẫu thuật khả thi. Đối với
những bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ, nên thực hiện một phác đồ thay thế. (Xem
"Tổng quan về điều trị ung thư vú mới được chẩn đốn, xâm lấn, khơng di căn ",
phần 'Địa phương ung thư vú giai đoạn cuối 'và "Ung thư vú dạng viêm: Đặc điểm
lâm sàng và cách điều trị" và "Các nguyên tắc chung về quản lý chất bổ trợ mới đối
với ung thư vú", phần "Phản ứng kém hoặc tiến triển trong liệu pháp bổ trợ tân sinh
'.)
Liệu pháp bổ trợ - Như ở phụ nữ, các điều trị bổ trợ có thể bao gồm RT, liệu pháp
nội tiết, hóa trị và liệu pháp chống HER2. Chúng được thảo luận dưới đây.
Xạ trị - Trong trường hợp khơng có dữ liệu chất lượng cao, các chỉ định RT cho
nam giới bịgương ung thư vú cho phụ nữ. Những người này bao gồm bệnh nhân
(xem "Xạ trị bổ trợ dành cho phụ nữ bị ung thư vú mới được chẩn đoán, chưa di
căn "): Người đã trải qua phẫu thuật bảo tồn vú.
Những bệnh nhân như vậy thường được điều trị bằng bức xạ tồn phần và cũng có
thể nhận được sự thúc đẩy vào giường khối u và, nếu các hạch ở nách liên quan,
bức xạ nách
Người đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ vú vì bệnh T4 hoặc T3 (đặc biệt nếu kết hợp
với dương tính lề phẫu thuật hoặc liên quan đến nút bệnh lý).
Những người có từ bốn hạch bạch huyết liên quan trở lên.
Ngoài các chỉ định trên, chúng tôi cũng đề nghị xạ trị cắt bỏ hậu môn cho nam giới
với một đến ba nút liên quan, mặc dù cách tiếp cận này là chủ đề của một số cuộc
tranh luận, cả ở nam và nữ. Khuyến nghị này được ngoại suy từ dữ liệu ở phụ nữ
11



với cùng một mức độ của bệnh nốt sần, trong đó các thử nghiệm chỉ ra rằng RT làm
giảm nguy cơ tái phát và có khả năng cải thiện khả năng sống sót của bệnh cụ thể.
Tuy nhiên, cũng như ở phụ nữ. Vị trí địa lý khiêm tốn và lợi ích sống cịn tiềm năng
từ điều trị phải được cân nhắc chống lại nguy cơ nhiễm độc liên quan đến điều trị.
(Xem "Xạ trị bổ trợ cho phụ nữ bị ung thư vú mới được chẩn đoán, chưa di căn ".)
Có dữ liệu hạn chế về chỉ định RT sau phẫu thuật cắt bỏ hậu môn ở nam giới được
điều trị ung thư vú. Trong loạt bài hồi cứu, RT sau phẫu thuật cắt bỏ hậu phẫu
dường như làm giảm vị trí vùng tái phát ở nam giới bị ung thư vú, nhưng ảnh
hưởng đến khả năng sống sót không rõ ràng [12,53,77-80]. Trong sự vắng mặt của
dữ liệu chất lượng cao, những khuyến nghị này được ngoại suy từ quản lý phụ nữ
bị ung thư vú.
Liệu pháp toàn thân
Hóa trị liệu-Những thử nghiệm tương lai đánh giá lợi ích của hóa trị liệu bổ
trợ đặc biệt ở nam giới với chẩn đoán ung thư vú sớm chưa được vv.Do vậy, các
khuyến cáo tương tự của liệu pháp toàn thân này ở phụ nữ ở giai đoạn ung thư vú
sớm nhìn chung là ít lợi ích hơn ở nam giới.
 ( Đọc “Lựa chọn và chỉ định của hóa trị liệu bổ trợ cho ung thư vú HER2- âm
tính”)
 (Đọc “Hóa trị bổ trợ liệu pháp ở ung thư vú HER2-âm tính”)
Suy ra từ tài liệu ở nữ giới, chúng ta sử dụng 21-gene Recurrence Score( tạm dịch:
Bảng điểm tái diễn gen-21) hướng dẫn quyết định xem xét hóa trị bổ trợ liệu pháp ở
nam giới với hóc mơn thụ thể dương tính, ung thư vú HER2 âm tính và khơng có
hoặc hạch lympho tối thiểu có liên quan. (Xem “Quyết định khi nào sử dụng hóa trị
bổ trợ liệu pháp với hóc mơn thụ thể dương tính, ung thư vú HER2 âm tính”, phân
loại dựa trên Recurrence Score (Bảng điểm tái diễn)”.)
Dữ kiện có giới hạn ở nam giới cho rằng RS (Bảng điểm tái diễn) có thể phát hiện
được người nam ung thư vú có hóc mơn thụ thể dương tính với yếu tố nguy cơ tái
phát đủ thấp bằng hóa trị bổ trợ liệu pháp khơng chắc có lợi. Trong một nghiên cứu

hồi cứu ở 38 bệnh nhân nam ung thư vú có ER (thụ thể estrogen) dương tính/
HER2 âm tính, tất cả đã được điều trị bằng phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú (và một
trong số họ được điều trị thêm hóa trị liệu pháp), và 90% được điều trị thêm bằng
nội tiết liệu pháp, RS (Bảng điểm tái diễn) thấp (< = 17 điểm) có 26 ca (chiếm
68%), trung bình (18-30 điểm) có 9 ca (chiếm 24%), cao (>=31 điểm) có 3 ca
12


( chiếm 13%) [82]. Hóa trị liệu pháp khơng chỉ định cho bệnh nhân điểm RS thấp,
được chỉ định cho 3 bệnh nhân (67%) điểm RS trung bình, và 1 bệnh nhân (33%)
điểm RS cao. Trong tồn bộ nhóm, có 1 trường hợp tái phát, ở bệnh nhân điểm RS
trung bình và có bệnh hạch lympho dương tính đã được điều trị cả liệu pháp hóa trị
và nội tiết.
Khả năng độc hại của điều trị ung thư vú bằng hóa trị liệu pháp tiêu chuẩn có rất ít
nghiên cứu ở nam giới, vì vậy chiên lược điều trị và dự phịng (như buồn nơn và
giảm bạch cầu hạt trung tính) được suy ra từ nghiên cứu nữ giới. Độc tính tại tim
tăng trong suốt liệu trình anthracycline và HER2 trực tiếp kể cả sau đó nên đặc biệt
cần có những nghiên cứu bổ sung ở nam giới.
Liệu pháp nội tiết- Chúng ta sử dụng liệu pháp nội tiết sau phẫu thuật hơn là
chỉ theo dõi ở bệnh nhân nam ung thư vú có hormon thụ thể dương tính, được ghi
nhận có lợi ích bằng việc theo dõi các nghiên cứu ở nữ giới bị ung thư vú có
hormon thụ thể dương tính cũng như bằng chứng hồi cứu ở nam giới. Dữ liệu sử
dụng nội tiết liệu pháp trên nữ giới ung thư vú có hormon thụ thể dương tính với
phương pháp chẩn đoán mới được tranh luận riêng rẽ (Đọc “Điều trị bổ trợ nội tiết
trên phụ nữ thời kỳ hậu mãn kinh có hocmon thụ thể dương tính”.)
Giua các thuốc có sẵn, chúng tơi thích dùng tamoxifen hơn AI ( trường hợp khơng
có chống chỉ định với tamoxifen (ví dụ như tình trạng tăng đơng), phù hợp với
khuyến cáo của ASCO [83], mặc dù AI với GnRHa có thể chấp nhận thay thế được.
Khả năng độc hại của điều trị được thảo luận trong các tài liệu sau. (Đọc “Điều trị
bổ trợ nội tiết trên phụ nữ thời kỳ hậu mãn kinh có hocmon thụ thể dương tính”,

phần tác dụng phụ và “Điều trị bổ trợ nội tiết trên phụ nữ thời kỳ hậu mãn kinh có
hocmon thụ thể dương tính”, phần tác dụng phụ.)
Bằng chứng hồi cứu cho thấy sự cải thiện tỉ lệ sống cịn nói chung ở nam giới ung
thư vú có hocmon thụ thể dương tính khi điều trị bằng tamoxifen. Cụ thể, trong 1
nghiên cứu đăng ký bao gồm 392 bệnh nhân nam có hocmon thụ thể dương tính
(84% chưa có di căn), việc điều trị bổ trợ bằng tamoxifen cho thấy cải thiện tỉ lệ
sống còn (HR 0.4, 95% CI 0.1-0.99) [84]. Tương tự, trong 1 nghiên cứu hồi cứu ở
135 bệnh nhân nam ung thư vú chưa di căn, 115 trong nhóm có ER(+) và 38 trong
nhóm được điều trị bằng phương pháp nội tiết bổ trợ, đã cho thấy việc cải thiện tỉ lệ
sống còn (HR 0.45, 95%CI 0.25-0.84) [85]. 35 trong số 38 người nam đã được điều
trị bằng tamoxifen.

13


Giai thích cho sự khác nhau trong hiệu quả nhóm thuốc AIs ở nam so với nữ hậu
mãn kinh là do sự sản xuất estrogen ở tinh hồn khơng bị ức chế bởi thuốc AI. Sử
dụng GnRHa có thể ngăn chặn sự sản xuất này và cải thiện kết cục khi sử dụng
thuốc AIs ở nam giới. Thử nghiệm Male-GBG54 ở 50 bệnh nhân hồi cứu ngẫu
nhiên pha II so sánh hai liệu pháp tamoxifen có hay khơng có GnRHa với một
thuốc AI có GnRHa ở nam ung thư vú [86]. Kết quả sơ bộ cho thấy, sử dung AI với
GnRHa có 64% ngăn chặn được nồng độ estradiol (so với 35% chỉ sử dụng AI dựa
trên số liệu hồi cứu). Mặc dù khơng có trường hợp đơn trị liệu bằng AI trong
nghiên cứu này, song vẫn có sự ủng hộ việc dùng GnRHa, trong trường hợp AI có
dự tính sử dụng.
Dựa trên nền tảng Tamoxifen: thử nghiệm ATLAS ở nữ, đã ủng hộ việc sử dụng
tamoxifen kéo dài 10 năm hơn là 5 năm, nam giới có ung thư vú nguy cơ cao dựa
vào đặc điểm khối u (ví dụ như điểm ung thư cao, liên quan hạch vùng, kích thước
khối u lớn) và tất cả có khả năng được điều trị thích hợp bằng tamoxifen mở rộng.
Bên cạnh đó, quyết định điều trị thêm 5 năm nữa đã được cá nhân hóa dựa trên tác

dụng phụ ( ví dụ như bốc hỏa, rối loạn chức năng sinh dục). Kết cục nghiên cứu
được chia ra như sau. (Đọc “Chia dưới nhóm ung thư vú” ở trên.)
Mặc dù có lợi về khả năng sống còn khi sử dụng tamoxifen, nhưng vài nghiên cứu
chỉ ra rằng một tỉ lệ lớn nam giới khơng tiếp tục điều trị trước đó 5 năm, dẫn đến
kết cục xấu hoen [87,88]. Trong một nghiên cứu ở 116 nam, tỉ lệ tiếp tục điều trị
giảm từ 65% ở năm thứ 1 xuống còn 18% ở năm thứ 5 [88]. So với người nam vẫn
tiếp tục điều trị bằng tamoxifen, nhóm người khơng tiếp tục điều trị có tiên lượng tỉ
lệ tử vong do ung thư sau 10 năm (DFS; 42% so với 73%, nghiên cứu tách đôi;
p=0.007) và tử vong chung (50% với 80%; p=0.008) thấp hơn có ý nghĩa thống kê.
Các yếu tố ảnh hưởng việc không thể tiếp tục điều trị bao gồm:
 Tuổi <=60 (HR 1.10, 95% CI 1.01-1.21)
 Thiếu trợ cấp xã hội (HR 2.45, 95% CI 1.32-4.55)
 Xuất hiện tác dụng phụ (HR 2.19 95% CI 1.57-3.04), bao gồm mệt mỏi (21%), rối
loạn lo âu (20%), rối loạn giấc ngủ (19%), giảm ham muốn tình dục (11%) và tăng
cân( 10%).
Dựa trên các kết quả này, cần biện pháp can thiệp để cải thiện khả năng tiếp tục
điều trị tamoxifen lâu dài

14


Bisphosphonates (nhóm thuốc phịng ngừa và điều trị lỗng xương)- ung thư
vú ở nam giai đoạn sớm không nên điều trị bằng thuốc ảnh hưởng xương để ngăn
ngừa tái phát, nhưng vẫn có thể sử dụng thuốc ngăn ngừa hoặc điều trị loãng xương
theo khuyến cáo ASCO [83].
Mặc dù các lợi ích cải thiện sống cịn ở các thuốc ảnh hưởng chức năng xương đã
được thấy ở nữ giới, song đặc biệt ở nhóm nữ hậu mãn kinh sử dụng AIs, chắc chắn
sự cải thiện là rất nhỏ đôi khi còn mâu thuẫn và thử nghiệm chưa bao giờ thực hiện
ở nam giới. (Xem “sử dụng thuốc ức chế tế bào hủy xương trên ung thư vú giai
đoạn sớm”.)

Tiên lượng - Hiện có nhiều nghiên cứu đã đưa ra được tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân
nam mắc ung thư vú [4,15,48,72,89-93].
Trong phân tích gộp gồm 1500 bệnh nhân nam mắc ung thư vú trên toàn cầu được
đề cập ở trên, liên tục trong trung bình 8,2 năm, tỷ lệ tử vong sau 5 năm của bệnh
nhân mắc ung thư vú đã được cải thiện, giảm từ 15,1% (giai đoạn 1990 – 1995)
xuống 7,6% ( giai đoạn 2006-2010) [45]. Thêm vào đó, thời gian sống trung bình
của bệnh nhân ung thư vú nhóm Luminal A là 9,5 năm, nhóm Luminal B- like/ âm
tính với HER2 là 8,8 năm và ở nhóm Luminal B-like/ dương tính với HER2 là 10
năm.
Một phân tích từ cơ sở dữ liệu SEER về những bệnh nhân nam đã được chẩn đoán
ung thư vú giai đoạn 2005 đến 2009 đã cho thấy rằng, bệnh nhân nam mắc bệnh
ung thư vú có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân nữ, với tỷ lệ tử vong ở nam giới cao
hơn 41% so với nữ giới trong cùng giai đoạn [94]. Tương tự, tỷ lệ sống sót sau 5
năm và 10 năm ở bệnh nhân nam (tương ứng 85% và 73%) thấp hơn bệnh nhân nữ
(90% và 85%). Kết quả cũng tương tự khi so sánh trong các chủng tộc và các phân
nhóm. Các phân tích khác đã chỉ ra rẳng tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân nam mắc ung
thư vú thấp hơn ở bệnh nhân nữ [95,96]. Cũng như ở phụ nữ, kích thước của khối
u, sự xuất hiện và số lượng của hạch lân cận là những yếu tố tiên lượng quan trọng
nhất trong ung thư vú ở nam [12,15,53,90,97-103].
Dưới đây lần lượt là tỷ lệ người bệnh sống sót sau 10 năm theo từng trường hợp
(dựa trên kết quả của 2 báo cáo gồm lần lược 335 và 397 ca bệnh ung thư vú ở nam
giới)
 không phát hiện hạch trên giải phẫu bệnh : 77% và 84%
 Phát hiện 1 đến 3 hạch: 50% và 44%
15


 Từ 4 hạch trở lên; 24% và 14%
Tương tự ở nữ giới, RS là yếu tố tiên lượng ở bệnh nhân nam nhóm dương tính với
thụ thể hormone, cịn gọi là ung thư vú với HER2 dương tính. Trong một nghiên

cứu hồi cứu gồm 3800 bệnh nhân nam mắc ung thư vú nhóm dương tính với thụ thể
hormone, tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 99% ở nam có RS≤17, 96% ở nam có RS từ
18 đến 30, và 81% ở nam có RS ≥31 [95].
Sự khác biệt chủng tộc - Như ở nữ giới, bệnh nhân nam da đen mắc ung thư vú có
tiên lượng xấu hơn bệnh nhân nam da trắng [10,104]
Điều này được mô tả trong một báo cáo gồm 510 nam giới tuổi từ 65 trở lên (456
da trắng, 34 da đen) mắc ung thư vú từ giai đoạn I đến giai đoạn III lấy từ cơ sở dữ
liệu Medicare/SEER [104]. Quá trình điều trị gồm phẫu trị, hóa trị và xạ trị ở lần
lượt 94, 28 và 29% nam giới.
Nam da đen có giai đoạn bệnh cao hơn, kích thước khối u to hơn so với nam da
trắng, ví dụ tỷ lệ nam da đen ở giai đoạn III là 24%, ở nam da trắng là 9%. Sự khác
biệt này có ý nghĩ thống kê. Thêm vào đó, so với nam da trắng, nam da đen thường
có xu hướng mắc nhiều khối u kém biệt hóa hơn (44% ở nam da đen và 32% ở nam
da trắng), nhiều khối u có di căn hạch hơn (45% ở nam da đen và 34% ở nam da
trắng), ít khối u nhóm dương tính thụ thể hormone hơn ( 56% ở nam da đen và 72%
ở nam da trắng), và tỷ lệ có bệnh đồng mắc cao hơn ( 53% so với 38% ở nam da
trắng). Có khoảng 50% nam da đen khơng muốn tham khảo ý kiến của nhà ung thư
học cũng như đồng ý thực hiện hóa trị, nhưng sự khác biệt này khơng có ý nghĩa
thống kê. Sau khi điều chỉnh lâm sàng, thống kê dân số học và yếu tố liên quan đến
điều trị đã được biết đến, nguy cơ tử vong do ung thư vú ở nam da đen tăng gấp 3
lần so với nam da trắng. tỷ lệ sống 5 năm lần lượt là 66% ở nam da đen và 90% ở
nam da trắng.
Những vấn đề sau khỏi bệnh
Theo dõi sau điều trị - một cách tổng quát, bệnh nhân nam được điều trị ung thư
vú nên được theo dõi sau điều trị như ở phụ nữ. Tuy nhiên, vai trò của nhũ ảnh là
chưa được biết rõ. Trong khi đó, một số ít dữ liệu chỉ ra rằng những bệnh nhân này
là những người có khả năng tăng nguy cơ phát triển ung thư vú đối bên [105,106],
nguy cơ tuyệt đối dường như thấp [17]. Dưới đây là cách tiếp cận của chúng tôi về
việc thực hiện sàng lọc, dựa trên hướng dẫn của ASCO:


16


 Chụp nhũ ảnh cùng bên hàng năm nên được thực hiện ở bệnh nhân nam có tiền sử
ung thư vú đã được điều trị nạo hạch, có hay khơng có yếu tố di truyền.
 Chụp nhũ ảnh đối bên hàng năm có thể được thực hiện ở bệnh nhân nam có tiền sử
ung thư vú và có đột biến gen di truyền. Mặc dù chúng tôi không khuyến cáo việc
này cho những bệnh nhân khơng có đột biến gen di truyền, chúng tôi thừa nhận
rằng vấn đề này gây ra sự chia rẽ ý kiến giữa các chuyên gia. Cần nhiều nghiên cứu
hơn về nguy cơ phát triển ung thư vú đối bên ở bệnh nhân nam khơng có những đột
biến gen di truyền.
 Chụp phim cộng hưởng từ tuyến vú không được khuyến cáo thực hiện định kỳ.
Tuy nhiên, vai trò của việc thực hiện sàng lọc ở bệnh nhân nam có tiền sử ung thư
vú vẫn cịn chưa rõ ràng, và việc đưa ra quyết định thực hiện sàng lọc nên được
xem xét dựa trên mong muốn và kinh tế của bệnh nhân.
Cũng như ở phụ nữ, những bệnh nhân này cũng có nguy cơ xuất hiện ung thư ác
tính di căn. Điều này được đưa ra trong nghiên cứu bao gồm hơn 3400 nam giới
khỏi bệnh sau mắc ung thư vú, và 12,5% trong số đó phát triển di căn. Loại ung thư
di căn phổ biến nhất là ung thư ống tiêu hóa, ung thư tụy, ung thư da không
melanom và ung thư tiền liệt tuyến [107].
Tác dụng phụ về mặt thể chất và tâm lí – các nghiên cứu nhỏ cho thấy rằng độc
tính thường phổ biến ở nam giới sử dụng tamoxifen, và đó là một trong những lý
do chính của sự tăng tỉ lệ của liệu pháp ngưng điều trị nội tiết tố ở nam
[87,108,109].

Quản lý tối ưu các tác dụng phụ của liệu pháp nội tiết như bốc hỏa và rối loạn chức
năng tình dục thì khơng được biết đến ở nam giới, do đó các chiến lược thường
được ngoại suy từ những chiến lược đã được chứng minh hiệu quả ở những người
sống sót sau ung thư vú nữ ( đối với những cơn bốc hỏa) và dân số chung của nam
giới (đối với rối loạn chứng năng tình dục).

 Các lựa chọn để quản lí các cơn bốc hỏa bao gồm những sự lựa chọn nonhormonal
giống nhau, cái được cung cấp cho phụ nữ có tiền sử ung thư vú, chẳng hạn như tái
hấp thu chọn lọc serotonin một chất ức chế khơng can thiệp vào chuyển hóa của
taroxifen ( ví dụ: venlafaxine).
(xem phần “ Cơn bốc hỏa trong thời kì mãn kinh, phần “ Phụ nữ bị ung thư vú”)

17


 Nói chung, rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân nam bị ung thư vú được điều
trị tương tự như ở nam không bị ung thư vú , mặc dù chúng tơi tránh sử dụng
testosterone, vì nó đã được đề xuất rằng sự chuyển hóa của testosterone thành các
dẫn xuất của estrogen có thể kích thích mơ vú [ 110]. Thuốc ức chế
phosphodiesterase – 5 có thể được sử dụng chon am giới bị rối loạn cương dương
( Xem “ Điều trị rối loạn chức năng tình dục nam”)
Ít điều được biết về sự trải nghiệm của nam sau khi bị ung thư vú. Tuy nhiên các
vấn đề liên quan đến suy nhược ( emasculation) và đau khổ tâm lý trở nên phổ biến
[ 111-114]. Trong một nghiên cứu bao gồm hơn 160 người đàn ông mắc bệnh ung
thư vú, trung bình là 2,9 năm kể từ khi được chẩn đoán, đau khổ về mặc tâm lý bao
gồm [114]:
 Trầm cảm và lo lắng ( được tính bằng thang điểm Lo âu và trầm cảm) hiện với tỉ
tương ứng là 1% và 6% số người tham gia
 Đau khổ về mặc tâm lý cao hơn đáng kể những người đàn ông trải qua phẫu thuật
cắt bỏ vú, những người có triệu chứng bệnh đi kèm và những người chưa kết hơn
 Tình trạng đau khổ do ung thư có tương quan đáng kể với tuổi trẻ hơn, hình ảnh cơ
thể bị thay đổi, sử dụng thường xuyên hơn việc tham gia và né tránh đối phó, và
nhận thức nhiều hơn căng thẳng do suy giảm khả năng thể chất, đau đớn, sợ hãi và
không chắc chắn về tương lai.
Một cuộc thảo luận chung hơn về việc chăm sóc đã được đề cặp riêng ( thao khảo “
Overview of cancer survivorship care for primary care and oncology providers” và

“ Assuring quality of care for cancer survivors: The survivorship care plpan”)
BỆNH DI CĂN
Phương pháp tiếp cận – Phương pháp tiếp cận đối với nam giới bị ung thu vú di căn
hoặc giai đoạn muộn tương tự như những người phụ nữ bị ung thư vú di căn.
 Hóa trị thực hiện cho nam theo cách tương tự như đối với phụ nữ, phù hợp cho
từng đối tượng ( Xem them “ Systemic treatment for metastic breast cancer:
General principles)
 Đối với nam dương tính với human epidermal growth factor recepter 2 ( HER2),
khuyến nghị kết hợp các tác nhân hướng vào HER2 vào chiến lược điều trị như đối
với phụ nữ ( Xem thêm “Systemic treatment for HER2 – positive metastatic breast
cancer).

18


 Đối với những người di căn, dương tính với thụ thể hormone, âm tính với HER2,
các liệu pháp nội tiết thường được sử sụng. Tuy nhiên trong bối cảnh tiến bộ nhanh
chóng hoặc mở rộng bệnh cơ quan khác, hóa trị liệu được ưu tiên ( Xem “
Treatment approach to metastatic hormone positive, HER2- negative breast cancer :
Endocrine therapy and targeted agents”, section on “ Choosing between ET and
chemotherapy”)
 Mặc dù dữ liệu hỗn hợp về lợi ích sống sót đối với phương pháp điều trị tại chỗ
trong di căn ung thư vú có thể thích hơp với một số nam giới, trong các tình huống
lâm sàng tương tự như phụ nữ ( Xem “ The role of local therapies in metastatic
breast cancer”)
Những lưu ý đặc biệt với bệnh dương tính với thụ thể hormone, HER2 âm tính –
Đối với nam giới ung thư vú tiến triển dương tính với thụ thể hormone, cách tiếp
cận để lựa chọn liệu pháp là phần lớn được ngoại suy từ dữ liệu ở phụ nữ bị ung
thư vú dương tính với thụ thể hormone và thảo luận dưới đây. ( Xem “ Treatment
approach to metastatic hormone receptor – positive, HER2 – negative breast

cancer: Endocrine therapy and targeted agents)
 Đối với những người đàn ơng có biểu hiện de novo, di căn, dương tính với thụ thể
hormone, người ung thư vú âm tính của thụ thể yếu tố tang trưởng biểu bì 2
( HER2), chúng tôi đề xuất sự kết hợp của tamoxifen hoặc chất ức chế aromatase
( AI)/ giải phóng Gonadotropin chất chủ vận hormone (GnRHa) với chất ức chế
kinase ( CKD) 4/6. Palbociclib đã được cục quản lí thực phẩm và Dược phẩm Hoa
Kỳ ( FDA) chấp thuận cho nam giới với tình trạng di căn, ung thư vú dương tính
với thụ thể hormone [115], nhưng Abemaciclib hoặc ribociclib là các sản phẩm
thay thế ngồi nhãn thích hợp. Một sự lựa chọn giữa AI/ GnRHa so với tamoxifen,
trong số những người đang dùng Palbociclib, nên được cân nhắc bởi tình trạng
bệnh nhân đối với độc tính, do thiếu dữ liệu so sánh về hiệu quả. Đối với những
người đàn ông trước đây đã được điều trị bằng tamoxifen bổ trợ, hoặc những người
đã tiến triển trên tamoxifen trong bối cảnh di căn, chúng tôi đề nghị AI/GnRHa kết
hợp với chất ức chế CKD 4/6

Ở một trong hai trường hợp trên, một giải pháp thay thế có thể chấp nhận được là
bỏ qua chất ức chế CKD 4/6 và sử dụng đơn độc liệu pháp nội tiết, đặc biệt là đối

19


với những người có gánh nặng bệnh tật thấp hơn hoặc bệnh đi kèm, hoặc do sở
thích của bệnh nhân.
 Chúng tơi thường chọn một cách điển hình là fulvestrant như là một phần của liệu
pháp tiếp theo sau khi sử dụng AI/ GnRHa. Nếu palbocinab chưa được sử dụng,
chúng tơi kết hợp nó với fulvestrant ( kết hợp hoặc không với GnRHa, phụ thuộc
vào dung nạp của bệnh nhân). Đối với những người có khối u ần náu
phosphatidylinosityol – 4,5- biphosphate 3- kinase xúc tác tiểu đơn vị alpha
( PIK3CA) đột biến và những người đã tiến bộ trong liệu pháp nội tiết, việc bổ
sung đồng vị alpha ức chế phosphoinositide-3 kinase ( PI3K) là một sự lựa chọn

khác
 AI/GnRHa/ everolimus là một lựa chọn cho liệu pháp điều trị tuyến sau, mà chúng
tôi thường dành để sử dụng sau khi tiến triển.
 AI với GnRHa - Vì AI khơng làm giảm sản xuất estrogen của tinh hồn, chúng tôi
quản lý GnRHa đồng thời với AI. Các nghiên cứu điển hình về phản ứng với AI
cộng với GnRHa đã được báo cáo, một trong số đó là ở một bệnh nhân có bệnh di
căn đã tiến triển trên cả AI đơn tác nhân và GnRHa đơn tác nhân trước khi phản hồi
về sự kết hợp [116]. Một báo cáo tổng hợp khác về liệu pháp AI đơn độc hoặc kết
hợp với GnRHa ở 23 nam giới cho thấy đáp ứng một phần trong 26,1% và bệnh ổn
định trong 56,5%.
Các phản ứng đối với AI đơn tác nhân cũng đã được ghi nhận [117-120], mặc dù
chúng tôi muốn tránh sử dụng AI đơn trị liệu vì những lý do đã đề cập ở trên. (Xem
'Liệu pháp nội tiết' ở trên.)
 Tamoxifen - Các nghiên cứu quan sát nhỏ hơn, cũ hơn cho thấy rằng khoảng 40%
nam giới mắc bệnh dương tính với thụ thể hormone đáp ứng với tamoxifen, mặc dù
nhiều bệnh nhân trong các nghiên cứu cũ hơn này đã có các u tinh hồn trước đó,
và tỷ lệ đáp ứng thực sự ở nam ung thư vú có thể cao hơn [11,121-124]. Nam giới
bị ung thư vú âm tính với thụ thể hormone dường như không thu được lợi ích từ
việc điều trị. Tamoxifen có liên quan đến các cơn bốc hỏa, rối loạn chức năng tình
dục, thay đổi tâm trạng, đục thủy tinh thể, chuột rút ở chân và huyết khối tĩnh mạch
(VTE), với một nghiên cứu cho thấy VTE xảy ra ở khoảng 10% nam giới trong
vòng 18 tháng đầu điều trị [125]. (Xem "Quản lý các tác dụng phụ của tamoxifen".)
 Bổ sung các chất ức chế CDK 4/6 - Các chất ức chế CDK 4/6 đã chứng tỏ hoạt
động ở phụ nữ khi kết hợp với liệu pháp nội tiết, nhưng việc sử dụng chúng ở nam
giới chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Một báo cáo trường hợp về letrozole cộng với
20


palbociclib dịng thứ tư ở một người đàn ơng bị ung thư vú di căn với thụ thể
estrogen (ER) dương tính, ung thư vú âm tính với HER2 cho biết bệnh ổn định sau

4 tháng điều trị [126].
 Bổ sung chất ức chế PI3K - Việc bổ sung alpelisib để cải thiện khả năng sống sót
khơng tiến triển cho những người có đột biến PIK3CA khối u trong thử nghiệm
SOLAR-1 pha III. Thử nghiệm chủ yếu bao gồm phụ nữ sau mãn kinh, mặc dù có
một bệnh nhân nam. Chi tiết đầy đủ của thử nghiệm này được thảo luận ở nơi khác.
 Bổ sung mục tiêu cơ học của chất ức chế rapamycin (mTOR) - Hai báo cáo
trường hợp bệnh nhân nam được điều trị trước nặng đang nhận everolimus với một
trong hai tamoxifen hoặc exemestane báo cáo các phản ứng thuận lợi với liệu pháp,
mặc dù một bệnh nhân phải ngừng điều trị sau bốn tháng do viêm miệng [127,128].


Fulvestrant - Dữ liệu về vai trò của Fulvestrant còn hạn chế. Tổng cộng hai trường
hợp báo cáo bảy người đàn ông ghi nhận phản ứng một phần trong hai bệnh và ổn
định (trong một trường hợp kéo dài 22 tháng) ở ba người khác. Một phân tích tổng
hợp của 23 bệnh nhân nam được điều trị toàn diện như điều trị đầu tiên, thứ hai
hoặc thứ ba về bệnh di căn cho thấy tỷ lệ đáp ứng một phần là 26 phần trăm, và
thêm 48 phần trăm có bệnh ổn định [129].



Phương pháp điều trị nội tiết tố sau này - Nam giới đáp ứng với một hình thức
điều trị nội tiết tố có nhiều khả năng đáp ứng với các thao tác nội tiết tố tiếp theo
[ 124 ]. Các liệu pháp nội tiết khác (ví dụ: aminoglutethimide, megestrol axetat ,
androgen, kháng nguyên, corticosteroid, cyproterone acetate , estrogen) có liên
quan đến tỷ lệ đáp ứng từ 50 đến 70% trong ung thư vú dương tính với ER
[123,130-132]. Tuy nhiên, hồ sơ tác dụng phụ có xu hướng ít thuận lợi hơn so với
tamoxifen, và hầu hết đã được nghiên cứu kém ở nam giới. Do đó, chúng được
dành riêng cho liệu pháp điều trị dòng tiếp theo. Mặc dù cắt tinh hoàn hai bên mang
lại tỷ lệ đáp ứng là 32 và 67% [11,122,133-135], chúng tơi thích các lựa chọn y tế
hơn do tác động tâm lý và thể chất của cắt tinh hoàn hai bên.

CÁC NHẬN XÉT ĐẶC BIỆT CẦN THIẾT TRONG DÒNG TIÊU CHUẨN
COVID-19
Đại dịch COVID-19 đã làm tăng mức độ phức tạp của việc chăm sóc bệnh nhân
ung thư. Các vấn đề quan trọng bao gồm cân bằng giữa rủi ro do trì hỗn điều trị so

21


với tác hại từ COVID-19, các cách để giảm thiểu tác động tiêu cực về khoảng cách
xã hội trong quá trình chăm sóc,
và phân bổ một cách hợp lý và cơng bằng hạn chế các nguồn lực chăm sóc sức
khỏe. Những điều này và các khuyến nghị về chăm sóc ung thư trong đại dịch
COVID-19 được thảo luận riêng. (Xem "COVID-19: Tầm soát, chẩn đoán ung thư,
giám sát sau điều trị ở bệnh nhân không bị nhiễm trong đại dịch và các vấn đề liên
quan đến tiêm chủng COVID-19 ở bệnh nhân ung thư".)
LIÊN KẾT HƯỚNG DẪN XÃ HỘI
Liên kết với xã hội và các hướng dẫn do chính phủ tài trợ từ các quốc gia và khu
vực được chọn
trên khắp thế giới được cung cấp riêng biệt. (Xem "Liên kết hướng dẫn xã hội: Vú
di truyền và ung thư buồng trứng" và "Liên kết hướng dẫn xã hội: Ung thư vú".
THÔNG TIN CHO BỆNH NHÂN
UpToDate cung cấp hai loại tài liệu giáo dục bệnh nhân, “Những kiến thức cơ bản”
và “Những kiến thức ngoài cơ bản”. Các kiến thức cơ bản về giáo dục bệnh nhân
được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, ở cấp độ đọc từ lớp 5 đến lớp 6, và chúng trả lời
bốn hoặc năm câu hỏi chính mà bệnh nhân có thể có về một tình trạng nhất định.
Những bài báo này là tốt nhất cho những bệnh nhân muốn có cái nhìn tổng qt và
những người thích tài liệu ngắn, dễ đọc. Các kiến thức ngồi cơ bản về giáo dục
bệnh nhân thì dài hơn, phức tạp hơn và chi tiết hơn. Các bài báo này được viết ở
cấp độ đọc từ lớp 10 đến lớp 12 và phù hợp nhất cho những bệnh nhân muốn có
thơng tin chun sâu và cảm thấy thoải mái với một số thuật ngữ y tế.

Dưới đây là các bài báo giáo dục bệnh nhân có liên quan đến chủ đề này. Chúng tơi
khuyến khích bạn in hoặc gửi e-mail các chủ đề này cho bệnh nhân của bạn. (Bạn
cũng có thể tìm các bài báo về giáo dục bệnh nhân về nhiều chủ đề khác nhau bằng
cách tìm kiếm trên “thơng tin bệnh nhân” và (các) từ khóa quan tâm.)
 Chủ đề cơ bản (xem “Giáo dục bệnh nhân: Ung thư vú (Kiến thức cơ bản)”)
 Các chủ đề ngoài cơ bản (xem “Giáo dục bệnh nhân: Điều trị ung thư vú di căn
(Kiến thức ngoài cơ bản)”)
TÓM TẮT VÀ KHUYẾN NGHỊ

22


 Ung thư vú ít phổ biến hơn ở nam giới so với phụ nữ. Đàn ơng có xu hướng xuất
hiện ở độ tuổi lớn hơn phụ nữ. (Xem ‘Dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ’ ở trên.)
 Sinh thiết được yêu cầu để xác nhận chẩn đoán và xét nghiệm đối với các thụ thể
hormone và biểu hiện của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 (HER2) ở người, cả
hai đều có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp điều trị. (Xem phần
‘Đánh giá và tổ chức chẩn đoán’ ở trên.)
 Hầu hết nam giới bị ung thư vú giai đoạn đầu được điều trị bằng phương pháp cắt
bỏ vú hơn là cắt bỏ khối u do mô vú tạo thành. Tuy nhiên, đối với những người đàn
ơng có đủ mơ vú để bảo tồn vú, phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc liệu pháp bảo tồn vú là
những lựa chọn thích hợp. Đối với nam giới theo tha thiết muốn phẫu thuật bảo tồn
vú, chúng tôi khuyên bạn nên xạ trị bổ trợ (RT) (Lớp 1B). (Xem “Bệnh ở giai đoạn
đầu” và “Xạ trị” ở trên.)
 Như ở phụ nữ, cần đánh giá phẫu thuật các hạch bạch huyết ở nách. (Xem “Quản lý
các hạch khu trú” ở trên.)
 Đối với nam giới có vùng nách dương tính về mặt lâm sàng, cũng như ở nữ giới,
chúng tôi khuyên bạn nên mổ hạch bạch huyết ở nách (Mức 1B). (Xem “Quản lý
các hạch bạch huyết khu trú trong ung thư vú” và “Quản lý các hạch bạch huyết
khu trú trong ung thư vú”, phần ‘Đánh giá các hạch nách’.)

 Đối với những bệnh nhân có vùng nách chưa phát triển về mặt lâm sàng, chúng tơi
đề nghị sinh thiết hạch bạch huyết có chọn lọc (SLNB) thay vì mổ tồn bộ hạch
nách (Mức 2B).
- Nam giới có SLNB âm tính khơng cần phẫu thuật thêm. Tuy nhiên, vai trị của việc
phẫu thuật hồn tồn hạch nách đối với nam giới có SLNB dương tính vẫn cịn
nhiều tranh cãi. Do thiếu dữ liệu để cung cấp thông tin về vấn đề này, phương pháp
tiếp cận bệnh nhân có SLNB dương tính cũng tương tự đối với phụ nữ. (Xem
“Tổng quan về sinh thiết hạch bạch huyết có chọn lọc trong ung thư vú”.)
 Giống như ở phụ nữ, đối với nam giới bị ung thư vú tiến triển tại chỗ (tức là bệnh ở
T3 hoặc T4) và/hoặc bốn hoặc nhiều hơn các hạch ở nách, chúng tôi khuyên bạn
nên chiếu xạ vùng ngực và thành ngực sau phẫu thuật (Mức 1B). Đối với những
người có một đến ba hạch bạch huyết liên quan hoặc các khối u ngun phát có
nguy cơ cao, chúng tơi cũng đề xuất RT dạng hạch khu trú (Mức 2B), như ở phụ
nữ. (Xem phần “Xạ trị” ở trên và “Xạ trị bổ trợ cho phụ nữ bị ung thư vú mới được
chẩn đoán, chưa di căn”.)
 Phương pháp tiếp cận liệu pháp hỗ trợ tồn thân (tức là hóa trị và/hoặc liệu pháp
điều trị theo hướng HER2) cho nam giới bị ung thư vú mới được chẩn đoán tương

23


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×