Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Phân tích tác phẩm “hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.34 KB, 3 trang )

Phân tích tác phẩm “hai đứa trẻ” của nhà văn
Thạch Lam
I. Mở bài :
- Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ông sinh
và mất ở Hà Nội, nhưng khi còn ấu thơ có một thời gian ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông là em ruột hai
nhà văn Nhất Linh và Hoàng Đạo, và là một trong những cây bút chủ chốt của “Tự lực Văn Đoàn”. -
Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa, xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc
biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. + Ông thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân
vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. + Hai yếu tố “Hiện thực và lãng mạn, tự sự
và trữ tình thi vị” luôn luôn đan cài, xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc thù, đặc sắc khó lẫn trong trong
phong cách nghệ thuật của ông. - “Hai đứa trẻ” rút từ tập truyện “Nắng trong vườn” – 1938 là tác phẩm
xuất sắc tiêu biểu cho đời văn và phong cách Thạch Lam.
II. Thân bài:
1. Một bức tranh quê đầy chất thơ. - Đặc điểm của truyện: “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đơn giản hầu
như không có chuyện. + Rất khó tìm được ở đây những sự kiện mang tính chất kịch, bi hài như sáng tác
của Nguyễn Công Hoan, những cuộc vật lộn, đau đớn, giằng xé về mặt nội tâm như những trang văn của
Nam Cao. + Đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ
ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện. + Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ
ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng
vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. + Câu chuyện
đơn sơ như vậy sẽ làm thất vọng cho những ai muốn đi tìm cốt chuyện giàu kịch tính với những chi tiết li
kì, lắt léo. Tuy nhiên, dưới ngòi bút Thạch Lam, “Hai đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh,
thấm thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha. - Tác phẩm mở đầu
bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi
vị: + “Chiều, chiều rồi! Một chiều êm ả như ru”. Lời văn rất nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người
vào thế giới thanh bình của cảnh vật. + Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét
mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị: . “phương
Tây đỏ rực…và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt
hình rõ rệt trên nền trời”. . Giữa những hình ảnh sinh động của cảnh vật vang lên âm thanh “tiếng trống
thu không” gọi buổi chiều xen lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo làn gió nhẹ đưa vào”,
“muỗi bắt đầu vo ve”. + Chỉ bằng mấy câu văn ngắn gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về khung cảnh


đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam
muôn đời. + Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi
ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm
tối. 2. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối. -
“Hai đứa trẻ” ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực về đời
sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch
Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất. - Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt
nhạt” và vắng lặng của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực và được nhà
văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ, từ cảnh vật cho đến
cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn quanh, bế tắc. a. Mở đầu là khung
cảnh ngày tàn. - Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng thời gian
vốn dễ khơi dậy nhiều nỗi niềm trong tâm hồn con người. + Buổi chiều quê lặng lẽ khép lại bằng “tiếng
trống thu không” báo hiệu ngày tàn. + Những ánh sáng yếu ớt của thiên nhiên rồi cũng tắt dần. - Thời
điểm hoàng hôn đã trở thành khoảng thời gian đặc biệt gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc giao thoa
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống náo nhiệt và sự yên lặng lụi tàn luôn gây cho lòng người nỗi buồn
thấm thía. Xuân Diệu, thi sĩ của những vần thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc cũng đã hơn
một lần cảm thấy “Không gì buồn bằng những buổi chiều Mà ánh sáng hoà cùng bóng tối”… “Không
gian xám tưởng sắp tan thành lệ”. b. Cảnh chợ cũng tàn. - Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở đây dường
như được cộng hưởng, được nhân lên với hình ảnh của một buổi chợ tàn: + “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu.
Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi: vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…”. +
Không khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ bán đã lắng xuống, chỉ còn lại sự trống vắng quạnh hiu. Có
gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn là cảnh chợ tàn: Khung cảnh “Chợ tết” trong thơ Đoàn Văn
Cừ náo nhiệt là thế mà cũng không cứu vãn được cảnh tàn tạ, hiu hắt, khi “Những người quê lũ lượt trở ra
về”: “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ” - Giữa khung cảnh chợ tàn
ấy, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị rất riêng của xứ sở. “Cái mùi cát bụi quen thuộc
quá” mà Liên tưởng “là mùi riêng của đất, của quê hương này” chính là mùi vị quen thuộc của nghèo khổ,
lầm than, bế tắc. Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn
ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất Tố…
Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên
nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc. c. Bức tranh về kiếp người tàn. Đi liền với hình

ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh
chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên
chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng
thương biết bao. - Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi
“chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”.
Hình ảnh những đứa trẻ con ngây thơ cúi đầu tìm kiếm những vật dụng nhỏ nhoi vô nghĩa lý đem lại cho
người đọc cảm nhận: dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn
nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện. -
Đó là chị Tý: “Ban ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước”. Cái cửa hàng của chị
cũng nghèo nàn như cuộc đời của chị. Nó chỉ là một cái chõng tre, một ít đồ đạc điếu đóm, tất thảy vừa đủ
một chuyến đội đầu, xách tay của chị và thằng cu bé “chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng
dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”. - Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh
hàng phở leo lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ quà xa xỉ” với người dân phố huyện
cho nên “bóng bác mênh mang ngả xuống một vùng và kéo dài đến tận hàng rào”. Sự kéo dài của cái
bóng dường như cũng là sự kéo dài của nỗi buồn, sự bế tắc tàn tạ trong cuộc đời bác. - Gia đình bác xẩm:
“Ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt… thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn
vùi trong cát bên đường”, thỉnh thoảng “mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng” càng gợi lên cảm giác đơn
điệu hiu hắt. - Hai chị em Liên: + Với “cái cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ
Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. + Hôm nay là phiên chợ “mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì”.
+ Quảng đời ấu thơ ở chốn đô thị náo nhiệt, đầy ánh sáng chỉ là bóng mờ ký ức trong Liên. Cô trở thành
người con gái đảm đang và dường như phải sớm lo toan, già đi trước tuổi. - Hình ảnh bà cụ Thi nghiện
rượu, hơi điên với dáng đi “lảo đảo” lẫn vào bóng tối và “tiếng cười khanh khách”. Đó có lẽ là tiếng cười
duy nhất của các nhân vật trong tuyện. Nhưng tiếng cười ấy không mang lại cho mọi người cảm giác vui
lây. Trái lại, nó gây cho Liên sự sợ hãi. Bởi trong tiếng cười ấy dồn nén, chất chứa bao nỗi đắng cay, tủi
nhục, bế tắc. Vì vậy, bà cụ Thi là hiện thân của kiếp người tàn. => Đi vào những số phận nhỏ bé, những
cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường,
chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo. 3. Tâm trạng của chị em Liên trước bức
tranh đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện. a. Bóng tối làm chủ tất cả: - Khi ánh chiều đã tắt thì
bóng tối ập xuống. Tâm trạng của chị em Liên lại xoay quanh cái quầng sáng thu nhỏ xung quanh ngọn
đèn con trên chõng hàng nước ế ẩm của chị Tý. - Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo

lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua
chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, bên cạnh có gánh phở bác Siêu, ngọn đèn Hoa
Kỳ vặn nhỏ của Liên… - Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy
chẳng thể làm cho đêm sáng ra, mà trái lại càng khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc. b. Một nhịp
sống quẩn quanh, đơn điệu, bế tắc: - Trong bóng tối ấy là những cuộc đời bóng tối quẩn quanh, bế tắc. -
Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là
một hình ảnh có sức gợi tả đặc biệt. Hình ảnh ấy có ý nghĩa như một biểu tượng về kiếp người nhỏ bé, vô
danh, vô nghĩa, sống leo lắt trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ không có hạnh phúc, không có tương
lai. Hình ảnh ấy cũng gợi về nhịp sống lặp đi lặp lại một cách uể oải, đơn điệu, buồn chán, bế tắc ngày
này sang ngày khác không có gì thay đổi. Đúng như Tố Hữu đã viết: “Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” - Những người dân nghèo khổ trong cảnh ấy vẫn mơ hồ bâng quơ
“mong đợi cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. “Một cái gì đó” là cái gì vậy?
Rất mông lung, mơ hồ, điều đó càng nói lên tình cảnh tội nghiệp của những người sống mà không biết
cuộc sống của mình ra sao => Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn nhưng có nhiều trang rất hiện thực.
Bức tranh đời sống nghèo nói trên là một trong những trang tiêu biểu nhất. Nó đã nói lên được một cách
thấm thía và ám ảnh tình trạng cuộc sống âm u, mòn mỏi, bế tắc của người dân nghèo, đồng thời bày tỏ
tấm lòng xót thương bao la của tác giả đối với những kiếp người sống “tù mù” ấy (chữ dùng của Nguyễn
Tuân) 4. Đó là nguyên nhân nảy sinh tâm trạng của Liên, đặc biệt là tâm trạng chờ đợi tàu: Chính số phận
quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây
thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác. a. Liên hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ tươi sáng trước
đây ở Hà Nội . - Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ
quà ngon lạ như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. - Liên bâng khuâng nhớ
về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là
bóng mờ kí ức trong đêm. b. Liên chờ đợi tàu – hướng về tương lai , khao khát sự đổi thay. - Và trong bối
cảnh của bức tranh phố huyện tối tăm, tù túng, vốn là người có trái tim rất nhạy cảm nên Liên đã để lại
cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện thực ngột ngạt, vươn tới một giấc mơ, một khát vọng khác với cảnh
sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc hiện tại. - Liên ngồi chờ đợi đoàn tàu, không phải để đi bán hàng, không
phải vì nhu cầu vật chất, bởi không mong gì ai mua nữa mà vì một lí do khác “muốn được nhìn chuyến
tàu, đó là hoạt động cuối cùng trong đêm”. - Nghĩa là Liên khát khao khắc khoải, háo hức chờ mong một
sự đổi thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh,

tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. - Thực chất đó là nhu cầu khát vọng về tinh thần, nhu cầu được sống dù
trong khoảnh khắc bằng một thế giới khác “với tiếng còi rít lên, tàu chạy rầm rộ với những toa tàu sang
trọng đèn điện sáng trưng. Trong đó có những con người gợi về Hà Nội huyên náo và vui vẻ”. - Con tàu
như đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn
đèn chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện. Liên hân hoan,
ngây ngất ngắm nhìn chuyến tàu đó. c. Niềm vui sướng duy nhất chờ đợi trong một ngày đã đi qua nhanh
chóng, phố huyện lại chìm đi trong đêm tối. - Liên càng cảm thấy buồn hơn khi trở về với hiện tại. -
Trong giấc mơ chập chờn, cô bé phố huyện như cảm thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết,
như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Thế là khát vọng đã trở thành thất vọng.
Liên bâng khuâng, ngậm ngùi, nuối tiếc. 5. Tác phẩm giàu tính nhân đạo: a. Qua tâm trạng của chị em
Liên, Thạch Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín đáo, nhẹ nhàng nhưng thấm thía biết bao cho tâm hồn
người đọc. Đó là tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh,
không bao giờ biết đến ánh sáng, hạnh phúc. - Trong xã hội cũ, có biết bao con người như thế. Họ phải
sống cuộc đời tẻ nhạt vô nghĩa, đến trong mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua
phố huyện tiêu điều, lụi tắt của cuộc đời mình. - Cuộc sống của họ cũng sẽ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục
ra” trong tăm tối đói ngèo, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra là trên đất nước lầm than nô lệ. b. Qua
đó Thạch Lam đồng thời cũng muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn. - Thạch Lam
đã khơi dậy ở họ ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được
thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ. Phải có sự thức tỉnh của “cái
tôi” cá nhân mới có được niềm xót thương và sự lay tỉnh đáng quý ấy. - Ở truyện này, Thạch Lam đã đặt
tất cả trong một cái nhìn già dặn trước tuổi trong đôi mắt trẻ thơ. Điều ấy dường như từ tác phẩm đã vút
lên tiếng kêu hãy cứu lấy những đứa trẻ; trả lại cho chúng sự hồn nhiên, vô tư vốn có, đừng biến chúng
trở thành những kiếp người tàn.
III. Kết bài:
- Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một lời nhận xét rất độc đáo “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật man mác.
Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… - Nơi
cái thế giới của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã trở thành thói quen của
cảm xúc và ước vọng. - “Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn, về một tấm lòng quê hương êm mát và
sâu kín”. Nói theo lời Nguyễn Tuân, ta có thể thêm: đọc tác phẩm Thạch Lam, thấy bận bịu vô hạn về
một ước mơ, một khát vọng tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân bản.

Dưới đây là 1 bài viết mẫu tham khảo viết ra từ câu hỏi:
Phân tích tác phẩm “hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam – bài
mẫu 1

×