Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ hậu WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.85 KB, 83 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Lời nói đầu
Xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào,
kể cả những nước phát triển và những nước đang phát triển vì đây là một
kênh tiêu thụ sản phẩm quan trọng của quá trình sản xuất. Và đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam thì xuất khẩu càng có ý nghĩa đặc biệt
hơn ở chỗ nhờ có ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu mà chúng ta có
thể nhập khẩu được nguyên liệu chúng ta chưa có khả năng sản xuất và các
máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho việc sản xuất hàng hoá.
Đồng thời, nó cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán - một trong bốn
đỉnh của “tứ giác mục tiêu”. Với cả tác động cả đầu vào và đầu ra, xuất khẩu
đã đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế trong một thời gian dài, nhằm
thực hiện mục tiêu tổng quát thoát ra khỏi nước kém phát triển trước năm
2010, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Song đối với những ai quan tâm một chút đến thương mại quốc tế thì sẽ thấy
mọi việc không đơn giản như vậy. Xuất khẩu Việt Nam đang phải đối mặt với
những thách thức lớn về cơ cấu, năng lực cạnh tranh, nguồn cung và nhu cầu
của thị trường. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là xuất khẩu của chúng ta
trong thời gian vừa qua chỉ phát triển theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu
với lợi thế chủ yếu dựa trên tài nguyên thiên nhiên. Do đó, muốn xuất khẩu
hàng hoá đi vào chiều sâu, mang lại giá trị kinh tế cao cho hàng hoá xuất khẩu
của Việt Nam thì việc thực hiện tốt quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu là con đường đúng đắn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO vấn
đề này càng trở nên cấp thiết hơn. Do vậy, nhìn nhận lại thực trạng xuất khẩu,
đặc biệt là cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta trong thời gian vừa qua để có
được những giải pháp hợp lý là một vấn đề có tính cấp thiết trong điều kiện
hiện nay.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn


Từ việc quan sát thực tiễn, nghiên cứu thực tế trong quá trình thực tập
ở Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với sự tham
khảo ý kiến của thày giáo hướng dẫn, em đã quyết định chọn đề tài: “Chuyển
dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ hậu WTO” làm chuyên
đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề thực tập này bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn của xuất khẩu hàng
hoá và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ở Việt
Nam
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam thời kỳ hậu WTO

Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Chương 1: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn của xuất khẩu
hàng hoá và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
1.1 Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế xã hội
1.1.1. Cơ sở lý luận của hoạt động thương mại quốc tế
Hoạt động thương mại quốc tế, hay còn gọi là ngoại thương, là hoạt
động mua bán, trao đổi hàng hoá (hữu hình hay vô hình) và dịch vụ giữa các
quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.
1.1.1.1. Mô hình của chủ nghĩa trọng thương
Những người thuộc trường phái trọng thương cho rằng: Hoạt động
nông nghiệp và công nghiệp không thể là nguồn gốc của mọi của cải (trừ
công nghiệp khai thác vàng và bạc), chỉ có hoạt động ngoại thương mới là
nguồn gốc thực sự của mọi của cải”. Theo những học giả này thì xuất khẩu là
hoạt động quan trọng đối với một quốc gia vì nó kích thích sản xuất trong
nước phát triển và tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm quốc gia. Ngược lại

nhập khẩu là “gánh nặng” đối với một quốc gia vì nó làm giảm của cải của
quốc gia.
Chủ nghĩa trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền, cho rằng tiền mới
là tiêu chuẩn căn bản của của cải quốc gia, hàng hoá chỉ là phương tiện để
tăng thêm tiền. Từ đó, họ coi những hoạt động nào mang lại tiền tệ cho quốc
gia là những hoạt động tích cực (hoạt động ngoại thương), còn hoạt động nào
không mang lại lợi ích cho quốc gia là hoạt động tiêu cực.
Hạn chế trong lập luận của học thuyết đó là coi vàng bạc như là hình
thức của cải duy nhất của quốc gia. Đồng thời học thuyết này cũng không giải
thích được cơ cấu hàng hoá trong thương mại quốc tế, chưa thấy được lợi ích
của chuyên môn hoá trong việc phân công lao động hợp tác quốc tế.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Khả năng ứng dụng: Đối với những nước mà khả năng sản xuất trong
nước vượt quá mức cầu tiêu dùng trong nước thì cần thực hiện chính sách
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Đồng thời đối với những nước gặp khó khăn
trong việc thanh toán quốc tế cũng nên sử dụng chính sách xuất khẩu để bù
đắp những thiếu hụt trong cán cân thanh toán. Học thuyết trọng thương cũng
có ý nghĩa đối với những quốc gia chưa có nhu cầu ngoại tệ trong hiện tại thì
cũng có thể mong muốn tích luỹ ngoại tệ càng nhiều càng tốt để đề phòng
những bất trắc trong tương lai.
1.1.1.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Nội dung: “Nếu một quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành sản
xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí
hiệu quả hơn nước khác” (Bùi Xuân Lưu - Nguyễn Hữu Khải, 2007, tr.26).
Quan niệm: A.Smith cho rằng thương mại có thể làm tăng khối lượng
sản phẩm và tiêu dùng của toàn thế giới do mỗi nước thực hiện chuyên môn
hoá sản xuất mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối.
Khả năng ứng dụng: Lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các quốc gia xác định

hướng chuyên môn hoá và trao đổi buôn bán các mặt hàng. Mô hình này sẽ
giải thích các quốc gia có những điều kiện tự nhiên thích hợp để phát triển
trồng trọt thì sẽ trồng trọt các loại cây như lúa, cà phê, cao su… thì sẽ xuất
khẩu các mặt hàng này, còn những quốc gia có khả năng sản xuất tốt các mặt
hàng điện tử, linh phụ kiện thì sẽ xuất khẩu chúng. Theo quan điểm này thì cơ
cấu hàng hoá được hình thành. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của những nước có
điều kiện tự nhiên thuận lợi chủ yếu gồm những mặt hàng nông sản còn cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu của những nước có công nghệ phát triển chủ yếu là
những sản phẩm có hàm chứa lượng công nghệ cao.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Tuy vậy, lý thuyết này vẫn không giải thích được tại sao có những
nước không có lợi thế tuyệt đối về tất cả các mặt hàng. Câu trả lời sẽ có được
khi chúng ta xem xét lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo dưới đây.
1.1.1.3. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo
Nội dung: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá trị thấp
hơn một cách tương đối so với quốc gia khác. Nói cách khác, một quốc gia sẽ
xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất một cách tương đối
so với quốc gia khác.
Cụ thể, quốc gia A sẽ xuất khẩu sản phẩm X khi và chỉ khi:
P
XA
/P
XB
< P
YA
/P
YB
Trong đó:

P
XA
: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá X ở quốc gia A
P
XB
: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá X ở quốc gia B
P
YA
: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá Y ở quốc gia A
P
YB
: chi phí lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá Y ở quốc gia B
Như vậy, quốc gia A sẽ xuất khẩu hàng hoá X và nhập khẩu hàng hoá Y;
ngược lại, quốc gia B sẽ nhập khẩu hàng hoá X và xuất khẩu hàng hoá Y.
Việc lựa chọn một cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu như trên sẽ đảm
bảo hai nước đều có lợi trong hoạt động ngoại thương.
Gottfried von Haberler đã vận dụng khái niệm chi phí cơ hội vào giải
thích lý thuyết lợi thế so sánh. Theo ông, chi phí cơ hội của hàng hoá X là số
lượng hàng hoá Y cần được cắt giảm để sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá
X. Trong hai quốc gia, quốc gia nào có chi phí cơ hội của mặt hàng nào thấp
hơn thì quốc gia đó có lợi thế so sánh của mặt hàng đó. Xác định lợi thế so
sánh dựa trên khái niệm chi phí cơ hội thì ưu việt hơn so với phương pháp của
Ricardo vì không phải dựa trên giả định về lao động.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Ưu điểm: Mô hình này giải thích nguyên nhân thương mại quốc tế của
một quốc gia bất lợi tuyệt đối trong tất cả các mặt hàng và nó đem lại lợi ích
cho tất cả các quốc gia trong thương mại quốc tế.
Nhược điểm: Mô hình này dự đoán chuyên môn hoá một cách hoàn

toàn, tức là chuyên môn hoá về một mặt hàng mà quốc gia mình có lợi thế
tương đối. Tuy nhiên trên thực tế, trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của một
quốc gia có nhiều mặt hàng chứ không chỉ riêng một loại mặt hàng.
1.1.1.4. Lý thuyết Heckscher – Ohlin
Lý thuyết này được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là hàm
lượng các yếu tố (factor intensity) và mức độ dạt dào của các yếu tố (factor
abundance).
Định lý H – O: “Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc
sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất của quốc
gia đó” (Bùi Xuân Lưu - Nguyễn Hữu Khải, 2007, tr.50)
Theo lý thuyết này thì quốc gia A được coi là dồi dào lao động nếu
L
A
/K
A
> L
B
/K
B
Trong đó:
L
A
, K
A
tương ứng là lao động và vốn của nước A
L
B
, K
B
tương ứng là lao động và vốn của nước B

Khi đó, nước A sẽ xuất khẩu những mặt hàng chế biến sử dụng nhiều lao
động; ngược lại nước B sẽ xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều vốn.
Cấu trúc cân bằng chung của lý thuyết H – O: Tất cả các yếu tố quyết
định giá của hàng hoá cuối cùng
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Hình 1.1: Cấu trúc cân bằng chung của lý thuyết H – O
Nguồn:Giáo trình kinh tế ngoại thương, 2007
1.1.2. Các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hoá
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập: Ngày nay, quá trình toàn cầu hoá
và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ với đặc trưng là liên kết chặt chẽ các loại thị
trường, thông qua việc cắt giảm tiến đến xoá bỏ rào cản giữa các quốc gia về
thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá được giao
lưu tự do giữa các nước. Đây cũng là một thuận lợi lớn cho việc xuất khẩu
hàng hoá vì hàng hoá khi xuất ra bên ngoài sẽ càng ngày càng được giảm
những rào cản về thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, khi hội nhập với xu
hướng mậu dịch tự do thì điểm bất lợi lớn nhất trong thương mại quốc tế là
hàng hoá chịu sức cạnh tranh cao. Hàng hoá không còn chịu các rào cản về
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
Mô hình thương mại quốc tế
Giá cả sản phẩm so sánh cân bằng nội địa
Giá sản phẩm
Giá yếu tố sản xuất
Cầu về yếu tố sản xuất
Cầu về sản phẩm
Công
nghệ
Cung về yếu
tố sản xuất

Cầu về sản
phẩm
Thị hiếu
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
thuế nữa mà hàng hoá sẽ bị cạnh tranh về giá sản xuất và chất lượng sản
phẩm và dịch vụ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ: Chính khoa học –
công nghệ hiện đại đã giúp cho sẽ giúp cho các quốc gia tiết kiệm được
nguyên vật liệu, sản xuất các nguyên liệu thay thế và cho phép tái sử dụng
nguyên vật liệu, từ đó góp phần làm giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi
trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Trước đây, các nhà kinh
tế học cổ điển thường xác định lợi thế so sánh dựa trên những lợi thế về tài
nguyên, nguồn lao động, nhưng trong giai đoạn hiện nay, lợi thế cạnh tranh
còn phụ thuộc rất lớn vào cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ năng của lao động.
Nhờ đó, mà chúng ta nâng cao được năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất
khẩu và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lý.
Tiềm lực của quốc gia: Đây là yếu tố quan trọng trong việc xác định
phương hướng xuất khẩu của một quốc gia. Nguồn lực bên trong này của một
nền kinh tế gồm nhiều yếu tố: dân số và lao động, tài nguyên thiên nhiên, cơ
sở hạ tầng, vị trí địa lý… Nó tạo điều kiện thuận lợi cho một quốc gia xuất
khẩu mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế
Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một
bộ phận quan trọng, nó quyết định đến lợi thế của quốc gia trên trường quốc
tế. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và đẩy
mạnh việc xuất khẩu nói riêng là một mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia.
Thực tế đã chứng minh những nước có dự trữ ngoại tệ lớn như Mỹ, Nhật,
Singapore, Đài Loan… là những nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất trên thế
giới. Do vậy, xuất khẩu hàng hoá có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.

Cụ thể:
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Một là, xuất khẩu để thu ngoại tệ cho quốc gia, cải thiện cán cân thanh
toán. Kết quả của hoạt động ngoại thương sẽ được phản ánh trong cân đối thu
chi ngoại tệ dưới hình thức “Cán cân thanh toán xuất - nhập khẩu”, kết quả
này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của một nước nên nó tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế. Do đó, tăng xuất khẩu có thể làm tăng GDP của một
nước.
Hai là, xuất khẩu hàng hoá tạo điều kiện cho mỗi quốc gia có thể khai
thác tối đa lợi thế so sánh của mình. Khi tận dụng các lợi thế so sánh đó,
nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn nên khiến cho sự cạnh
tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Ba là, xuất khẩu hàng hoá tạo ra nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu công
nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu khác phục vụ cho việc công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là con
đường tất yếu giúp cho các nước đang phát triển có thể thoát ra khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian
ngắn, các nước đang phát triển phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy
móc, thiết bị, công nghệ tiến tiến.Và nguồn vốn phục vụ cho việc nhập khẩu
này có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đó là: (1) Xuất khẩu
hàng hoá; (2) Vốn đầu tư nước ngoài; (3) Viện trợ, vay nợ… Trong đó thì các
nguồn đầu tư nước ngoài hay viện trợ vay nợ là nguồn mà chịu ràng buộc
không những về kinh tế mà còn về chính trị và khá bị động, chỉ có nguồn xuất
khẩu là nguồn quan trọng nhất là nguồn thu chính để quyết định quy mô và
tốc độ tăng của nhập khẩu.
Bốn là, xuất khẩu hàng hoá đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của
xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó là: (1) Xuất

khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do dư cung nội địa (sản xuất
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
trong nước vượt qua nhu cầu nội địa). Tuy nhiên, đối với các nước đang phát
triển thì việc sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước còn chưa đủ chứ chưa
nói gì đến việc “thừa ra” để xuất khẩu. Do đó, sản xuất khẩu và thay đổi cơ
cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. (2) Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu thị
trường thế giới để tổ chức sản xuất. Theo đó, các nước theo quan điểm này
cần coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này
sẽ tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khi đó, xuất khẩu sẽ
tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ như
ngành dệt may xuất khẩu phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành sản xuất
nguyên liệu như bông, sợi, thuốc nhuộm phát triển… Đồng thời, xuất khẩu sẽ
tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ và khả năng cung cấp đầu vào cho
sản xuất.
Năm là, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân. Một mặt, khi xuất khẩu tăng mạnh kéo theo đó là
sự tăng lên của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất
khẩu. Đây chính là nơi thu hút một lực lượng lao động không nhỏ với thu
nhập khá. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vậ phẩm
tiêu dùng để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng hơn,
xuất khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất làm tăng quy mô và tốc độ sản
xuất, khi đó có sự khôi phục ngành nghề cũ và sự gia tăng thêm ngành nghề
mới sẽ thức đẩy quá trình phân công lao động, tăng năng suất lao động và đời
sống nhân dân được cải thiện.
Sáu là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cường vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Hoạt động kinh tế đối
ngoại của một quốc gia bao gồm: (1) hoạt động ngoại thương, đó là hoạt động
xuất - nhập khẩu hàng hoá; (2) hoạt động hợp tác: hợp tác đầu tư và hợp tác

khoa học - công nghệ; (3) hoạt động dịch vụ: hoạt động vận tải, bảo hiểm,
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
ngân hàng, du lịch… Trong đó, xuất khẩu có sớm hơn các hoạt còn lại nên nó
có tác dụng thúc đẩy cho các quan hệ này phát triển.

1.2 Cơ sở lý luận về cơ cấu xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Cơ cấu xuất phát từ “Strucere” trong Latinh có nghĩa là xây dựng. Nó
phản ánh việc lắp ghép các bộ phận thành một cấu trúc hoàn chỉnh. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu. Tuy nhiên, chúng ta thiên về quan
điểm cho rằng cơ cấu là sự tương quan giưa các bộ phận trong tổng thể, nó
thể hiện mối quan hệ hữu cơ và tương tác giữa các bộ phận trong tổng thể đó.
Dưới góc độ nhìn nhận cơ cấu như vậy chúng ta có thể định nghĩa về cơ cấu
hàng hoá xuất khẩu như sau:
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là sự tương quan giữa các mặt hàng trong
tổng thể các mặt hàng xuất khẩu, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động
qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các mặt hàng xuất khẩu với nhau.
1.2.2. Phân loại một số loại cơ cấu
Theo cơ cấu kế hoạch của nhà nước chia ra thành 6 loại cơ cấu sau:
 Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
 Hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp
 Hàng nông sản và nông sản chế biến
 Hàng lâm sản
 Hàng thuỷ sản
 Hàng khác
Nếu chia hàng hoá xuất khẩu theo cơ cấu này, chúng ta sẽ biết được vai
trò của từng ngành trong nền kinh tế quốc dân đóng góp bao nhiêu phần trăm
giá trị hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu

Theo Danh mục tiêu chuẩn ngoại thương (SITC) mã cấp 1:
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
 Nhóm 0: Lương thực, thực phẩm và động vật sống
 Nhóm 1: Đồ uống và thuốc lá
 Nhóm 2: Nguyên liệu thô không dùng để ăn trừ nhiên liệu
 Nhóm 3: Nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và động vật có liên quan (nhóm
này chủ yếu gồm các mặt hàng năng lượng)
 Nhóm 4: Dầu mỡ, chất béo, sáp động, thực vật
 Nhóm 5: Hoá chất và sản phẩm có liên quan
 Nhóm 6: Hàng chế biến phân loại chủ yếu theo nguyên liệu (nhóm
này chủ yếu gồm các mặt hàng công nghiệp nhẹ)
 Nhóm 7: Máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng
 Nhóm 8: Hàng chế biến khác (nhóm này chủ yếu gồm các mặt hàng
thủ công nghiệp)
 Nhóm 9: Hàng hoá không thuộc những nhóm trên
Trong đó, từ nhóm 0 đến nhóm 4 là nhóm hàng thô hay mới so chế;
còn từ nhóm 5 đến nhóm 8 thuộc nhóm hàng chế biến hay đã tinh chế.
Với sự phân loại cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo phương thức của
SITC, chúng ta có thể biết được hàm lượng công nghệ chứa trong từng nhóm
sản phẩm là ít hay nhiều. Điều này có ý nghĩa trong việc đánh giá trình độ
phát triển của một quốc gia. Nếu quốc gia đó là nước phát triển thì tỷ trọng
hàng hoá xuất khẩu là hàng chế biến sẽ có tỷ trọng lớn; ngược lại nếu quốc
gia đó là nước đang phát triển thì tỷ trọng hàng hoá thô hay mới sơ chế phục
vụ cho xuất khẩu sẽ chiếm tỷ trọng lớn.
Theo châu lục:
 Châu Á
 Châu Âu
 Châu Mỹ

 Châu Phi
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
 Châu Đại Dương
Nhìn cào cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo thị trường chúng ta có thể
biết được thị trường nào là thị trường truyền thống, thị trường nào là thị
trường tiềm năng để từ đó có chiến lược phát triển thị trường cho hợp lý, đạt
hiệu quả cao.
Theo giá trị đóng góp của mặt hàng xuất khẩu:
 Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực
 Nhóm mặt hàng xuất khẩu quan trọng
 Nhóm mặt hàng xuất khẩu thứ yếu
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu này cũng giúp chúng ta đánh giá được trình
độ phát triển của một quốc gia, lợi thế so sánh của quốc gia và trình độ tham
gia phân công lao động quốc tế của quốc gia đó. Đồng thời thông qua cơ cấu
hàng hoá xuất khẩu này, Nhà nước có được những định hướng đầu tư nhằm
tập trung vào mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước.
1.2.3. Vai trò của cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Xác định đúng cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp cho mỗi quốc gia
khai thác tối đa nguồn lực và lợi thế của quốc gia đó. Trước đây, khi chưa có
một tư duy về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu rõ ràng thì chúng ta chỉ dừng lại ở
việc xuất khẩu một cách “mò mẫm” và “bị động”. Tuy nhiên, hiện nay nhận
thức rõ được vai trò của cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chúng ta đã có được
những định hướng rõ nét hơn và từ đó mới có được những chiến lược cho
hoạt động thương mại quốc tế.
Xác định được cơ cấu hàng xuất khẩu trong dài hạn sẽ giúp chúng ta có
những định hướng trong việc phát triển những ngành sản xuất các mặt hàng
quan trọng phục vụ cho xuất khẩu. Căn cứ vào cơ cấu hàng xuất khẩu mà
chúng ta có thể biết được mặt hàng xuất khẩu nào là chủ lực trong cơ cấu các

mặt hàng để từ đó có những chiến lược phát triển các ngành chủ lực để xuất
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
khẩu đạt hiệu quả cao nhất. Từ đó, có thể có được những chiến lược khai thác
tối đa nguồn lực trong và ngoài nước.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp cho việc nâng cao trình độ khoa học
- kỹ thuật của quốc gia. Để phát triển được mặt hàng chủ lực cần nâng cao
trình độ khoa học - kỹ thuật, nhờ đó mà chất lượng sản phẩm được nâng cao,
giá thành sản phẩm giảm và có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm khác
trên thị trường quốc tế. Thực tế cho thấy cơ cấu kinh tế là yếu tố quyết định
cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên, chính cơ cấu hàng hoá xuất khẩu lại
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách nhanh chóng và có hiệu
quả vì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp nâng cao trình độ khoa học - kỹ
thuật, mà đây là yếu tố quan trọng và cần thiết để thực hiện công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sẽ giúp cho mỗi quốc gia có thể có những
định hướng trong việc marketing sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế.
Khi mỗi quốc gia xác định được một cơ cấu hàng hoá xuất khẩu hợp lý cho
mình thì cũng chính là lúc quốc gia đó cần xác định một chính sách chủ động
tổ chức thị trường xuất khẩu và thực hiện các chhính sách khuyến khích xuất
khẩu nhằm phát triển các mặt hàng chủ lực xuất khẩu của quốc gia.

1.3 Cơ sở lý luận của việc chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
1.3.1. Một số mô hình lý thuyết và thực tiễn về việc chuyển dịch cơ cấu hàng
hoá xuất khẩu
1.3.1.1. Mô hình đàn nhạn bay của Kaname Akamatsu
Mô hình này được một giáo sư Nhật Bản là Kaname Akamatsu đưa ra
vào năm 1932, nhằm phát triển nền kinh tế Nhật Bản lúc bấy giờ là một nước
đang phát triển.

Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Nội dung: Các nước đang phát triển có thể đuổi kịp các nước phát triển
và quá trình đuổi kịp đó được chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Các nước đang phát triển nhập hàng hoá công nghiệp chế
biến của các nước phát triển và xuất khẩu sản phẩm thủ công đặc biệt.
Giai đoạn 2: Các nước đang phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các
nước phát triển để phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng trong nước (đây là
hàng hoá phải nhập khẩu ở giai đoạn 1). Công nghiệp hàng tiêu dùng sẽ phát
triển mạnh trong giai đoạn này và thay thế sản phẩm nhập khẩu.
Giai đoạn 3: Các nước đang phát triển có thể tự sản xuất các sản phẩm
đầu tư để mở rộng sản xuất khi công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã phát
triển. Và đây là giai đoạn các nước này xuất khẩu sản phẩm trong ngành công
nghiệp tiêu dùng.
Giai đoạn 4: Các nước này đã có thể đạt ngang bằng trình độ khoa học
- kỹ thuật và công nghệ với những nước phát triển. Khi đó, các nước này sẽ
giảm xuất khẩu sản phẩm trong công nghiệp tiêu dùng và xuất khẩu hàng hoá
đầu tư. Đây là giai đoạn cho phép các nước này có thể chuyển giao một số
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng sang các nước kém phát triển hơn.
Mô hình này đã được áp dụng khá thành công ở Nhật Bản, các nước
NICs, Trung Quốc và ASEAN. Theo đánh giá, Việt Nam đang ở giai đoạn 1
và 2 của mô hình. Từ lý thuyết của mô hình và sự thành công của mô hình ở
các nước nói trên chúng ta tin tưởng ở sự thành công của Việt Nam, chỉ có
điều chúng ta cần chuẩn bị các điều kiện để thực hiện việc chuyển giai đoạn.
1.3.1.2. Mô hình vòng đời sản phẩm
Chu kỳ sống của sản phẩm được chia thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Sản phẩm được giới thiệu T
0
– T

1
Giai đoạn 2: Sản phẩm được xuất khẩu với chi phí cao do có lợi thế so
sánh hơn các quốc gia khác T
1
– T
2
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Giai đoạn 3: Nước phát minh sản phẩm ban đầu giảm sức cạnh tranh so
với trước đây do công nghệ được tiêu chuẩn hoá và phát triển rộng rãi T
2
– T
3
Giai đoạn 4: Sản phẩm chín muồi và mất dần lợi thế so sánh T
3
– T
4
Giai đoạn 5: Các nước trước kia xuất khẩu thì giờ nhập khẩu lại các sản
phẩm của các nước đi sau và chuyển giao công nghệ cho các nước đi sau.
Hình 1.2: Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế

Nguồn:Giáo trình kinh tế ngoại thương, 2007
1.3.1.3. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô
Nội dung: Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô là chiến lược dựa chủ
yếu vào việc sử dụng rộng rãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và các
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
T
1
T

2
T
3
T
4
Nước phát minh
Các nước kém phát triển
Các nước phát triển khác
XK-NK
T
0
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
điều kiện thuận lợi của đất nước để tạo ra được những mặt hành xuất khẩu
chủ yếu là nông sản và sản phẩm khai thác.
Điều kiện áp dụng chiến lược: Chiến lược này được áp dụng đối với
hầu hết các quốc gia có tài nguyên thiên nhiên phong phú: đất, nước, khí hậu,
khoáng sản… và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá với
trình độ sản xuất còn thấp và khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế.
Tác dụng của chiến lược này: Đối với những nước đang phát triển thì
việc áp dụng chiến lược này sẽ phát huy được tiềm năng của đất nước, tạo
thêm công ăn việc làm, tận dụng được ưu thế lao động quốc gia và tạo ra
được nguồn vốn ban đầu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.
Tuy nhiên, khi áp dụng chiến lược này cũng có một số cản trở:
(1) Cung sản phẩm thô thường không ổn định vì phụ thuộc nhiều vào thời
tiết, hơn nữa tính chất của người nông dân sản xuất ra sản phẩm thô
thường tự phát gây ra xáo trộn trong việc cung cấp sản phẩm.
(2) Cầu sản phẩm thô thường có xu thế giảm vì: (a) Dựa trên Quy luật
Tiêu dùng sản phẩm của Anghen, khi thu nhập tăng lên thì cầu sản

phẩm thô giảm xuống.
(3) Hệ số trao đổi hàng hoá phản ánh sức mua của hàng hoá xuất khẩu có
xu hướng giảm nhanh. Điều này gây đến sự bất lợi cho các nước sản
xuất sản phẩm thô trong quan hệ thương mại.
(4) Do cầu sản phẩm thô ít co giãn nên mỗi sự thay đổi của cung sản phầm
thô có tác động rất lớn đến sự thay đổi thu nhập của các nước xuất
khẩu sản phẩm thô.
Vì vậy, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô thường được áp dụng ở các
nước đang phát triển, ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá cần rất
nhiều vốn đầu tư trong khi trình độ sản xuất lại hạn chế. Tuy nhiên, do những
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
hạn chế nêu trên, các quốc gia cần nhanh chóng chuyển sang chiến lược tiếp
theo khi đã tranh thủ thu hút được nguồn vồn nhất định và công nghệ đạt
được trình độ tiên tiến nhất định.
1.3.1.4. Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu
Nội dung của chiến lược: Khuyến khích các nhà sản xuất trong nước
hướng vào sản xuất các ngành hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường
trong nước, trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các
ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất hàng nội địa thay thế sản phẩm nhập
khẩu.
Điều kiện thực hiện chiến lược:
 Thị trường đủ lớn vì chiến lược này chỉ có thể phát huy được ở
những nước có dân số đông.
 Các ngành công nghiệp trong nước phải làm chủ được công nghệ sản
xuất.
 Phải có sự bảo hộ hữu hiệu từ phía Chính phủ bằng các biện pháp
bảo hộ: thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp, trợ giá, bù lỗ cho các nhà sản xuất.
Ưu điểm của chiến lược:

 Áp dụng chiến lược này các doanh nghiệp trong nước sẽ tránh được
cuộc cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp nước ngoài, được nhà nước
tạo điều kiện để hỗ trợ sản xuất.
 Mở rộng phân công lao động trong nước, giải quyết công ăn việc
làm.
 Nền kinh tế trong nước tránh được những ảnh hưởng xấu từ thị
trường thế giới.
Nhược điểm của chiến lược:
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
 Chiến lược này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước. Do có những biện pháp bảo hộ bằng thuế quan và phi thuế
quan, các doanh nghiệp không năng động và thiếu cơ hội tìm kiếm ưu thế
cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp, ảnh
hưởng đến tiềm năng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
 Thực hiện chiến lược này làm nảy sinh nhiều tiêu cực, bảo hộ bằng
thuế sẽ dẫn đến tình trạng trốn thuế, lậu thuế, hối lộ các cán bộ thuế.
 Chiến lược này cũng hạn chế xu hướng công nghiệp hoá của đất
nước.. Chiến lược này thường được bắt đầu từ công nghệ sản xuất hàng tiêu
dùng, sau đó tạo thị trường cho phát triển sản xuất các sản phẩm trung gian.
Tuy nhiên, thị trường trong nước đối với các sản phẩm trung gian như: luyện
kim, hoá chất thường nhỏ hơn thị trường tiêu dùng nên ít đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất hàng trung gian do đó nhà nước phải bảo hộ cho lĩnh vực này. Khi
đó, làm tăng giá đầu vào đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Để có
được lợi nhuận, các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn phải phụ
thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, dẫn đến các ngành sản xuất nguyên liệu
trong nước không phát triển được.
 Cán cân thương mại ngày càng thiếu hụt. Điều này là một trở ngại
cho việc mở cửa với bên ngoài và phát triển kinh tế.

1.3.1.5. Chiến lược hướng về xuất khẩu (chiến lược hướng ngoại)
Nội dung của chiến lược: khuyến khích sản xuất trong nước phát triển
những hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường bên ngoài, trước hết là các
sản phẩm tiêu dùng. Đây là chiến lược ngược lại với chiến lược thay thế hàng
nhập khẩu. Với chiến lược này thị trường hoà nhập với thị trường quốc tế.
Điều kiện áp dụng chiến lược:
 Dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm đưa thị trường
trong nước xích gần với thị trường quốc tế.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
 Nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước nhằm mục tiêu xuất khẩu.
 Tuy nhiên, Chính phủ cũng vẫn cần phải có những chính sách về tài
chính tiền tệ và các chính sách tỷ giá hối đoái và các chiến lược để áp dụng
đối với nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Ưu điểm của chiến lược:
 Nhờ áp dụng chiến lược này mà nhiều nước trong vài ba thập kỷ qua
đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, một số ngành công nghiệp chủ yếu là
công nghiệp chế biến xuất khẩu đã đạt được trình độ tiên tiến, có khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
 Tận dụng được những lợi thế của thị trường thế giới về vốn, công
nghệ và kinh nghiệm quản lý từ những nước tiên tiến.
Nhược điểm của chiến lược:
 Mất cân đối giữa những ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu và
không sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
 Nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế và dễ bị tác
động bởi sự thăng trầm của những nước lớn.
Nhận thức được các điểm yếu này, một số nước đang tìm tòi, lựa chọn
chiến lược phù hợp với giai đoạn phát triển của mình. Nhiều nước đang phát
triển lúc đầu lựa chọn chiến lược “sản xuất thay thế nhập khẩu”, rồi đến giai

đoạn nào đó chuyển sang chiến lược “sản xuất hướng về xuất khẩu”. Trong
những giai đoạn nhất định có những nước trong cùng một thời gian thực hiện
dung hoà được cả hai chiến lược này.
Tuy nhiên, khó có thể rút ra nguyên tắc chung cho việc áp dụng những
chiến lược nào, trong giai đoạn nào và thời gian bao lâu. Điều quan trọng nhất
là xây dựng chiến lược dựa trên các yếu tố có thể phát huy được. Dù có thể là
sự pha trộn của chiến lược thay thế hàng nhập khẩu hay chiến lược hướng về
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
xuất khẩu cũng không quan trọng nếu chiến lược đó đưa đất nước phát triển
lên và thực hiện được các mục tiêu của mình.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
1.3.2.1. Các nhân tố trong nước
Hình 1.3: Các nhân tố trong nước ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu
hàng hoá xuất khẩu
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Vị trí địa lý: đây là yếu tố tạo nên thuận lợi hay gây ra khó khăn đối với
hoạt động trao đổi thương mại giữa các quốc gia với nhau. Rõ ràng chi phí
vận chuyển là một chi phí khá lớn và luôn được tính đến trong các hoạt động
giao dịch buôn bán. Một quốc gia nằm ở khu vực trung tâm của châu lục, giao
thông đường biển, đường bộ, đường hàng không dễ dàng sẽ thuận tiện cho
việc giao lưu buôn bán với các quốc gia khác, thúc đẩy thương mại quốc tế
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
Nước
Khí
hậu
Đất
Biển
Sinh

vật
Khoáng
sản
Dân
số &
lao
động
Vốn
Chính
sách
Thị
trường
Khoa
học và
kỹ
thuật
Các nhân tố trong nước
Vị trí địa lý
Điều kiện tự nhiên
Điều kiện kinh tế - xã hội
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
trong đó có xuất khẩu. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài đầu
tư vào nhiều hơn. Yếu tố vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu hàng hoá.
Điều kiện tự nhiên:Yếu tố về điều kiện tự nhiên này gắn chặt với việc
hình thành và phát triển cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Đối với một nước đang
phát triển trong khi đó có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp thì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của quốc gia đó gồm chủ yếu là các sản
phẩm thô, hay sơ chế như lúa gạo, cà phê, cao su hay thuỷ sản.

Yếu tố về kinh tế - xã hội: Đây là yếu tố quyết định đến sự hình thành và
chuyển dịch của cơ cấu hàng hoá xuất khẩu.
Những quốc gia có lợi thế so sánh về nguồn lao động nhưng lại không
có lợi thế về vốn và công nghệ so với các quốc gia khác thì khi sản xuất hàng
hoá xuất khẩu sẽ có thiên hướng phát triển những ngành nghề mà tận dụng
được nguồn lao động ít kỹ năng, rẻ và dồi dào, trong khi đó lại không cần
phải có nhiều vốn hay yêu cầu cao về khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Khi
đó, hàng hoá trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các quốc gia đó là các sản
phẩm của ngành may mặc, giày dép hay các sản phẩm lắp ráp điện tử…
Ngược lại, đối với những quốc gia có lợi thế so sánh về vốn và công nghệ sẽ
ưu tiên phát triển những mặt hàng chế biến và chế biến sâu. Do vậy, cơ cấu
hàng hoá xuất khẩu của các quốc gia đó bao gồm các sản phẩm: xăng dầu,
linh kiện, phụ kiện…
Bên cạnh đó, chính sách của nhà nước cũng góp phần thúc đẩy nhanh
chóng quá trình chuyển dịch. Khi một quốc gia đã định hướng được việc cơ
cấu xuất khẩu cũng như quá trình chuyển dịch của mình trong dài hạn, Chính
phủ của quốc gia đó sẽ có những chính sách ưu tiên phát triển và các chương
trình đầu tư phát triển nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch diễn ra nhanh
chóng và hiệu quả.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
1.3.2.2. Các nhân tố bên ngoài
Thị trường thế giới: Xét cho cùng chúng ta sản xuất rồi xuất khẩu là để
phục vụ thị trường thế giới. Chính vì vậy cần phải đáp ứng nhu cầu thị trường
thế giới mới có khả năng thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu, đem ngoại tệ về trong
nước. Do đó, việc thay đổi trong thói quen tiêu dùng của các công dân toàn
cầu có ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của mỗi
quốc gia. Ví dụ, xu hướng hiện nay, tỷ lệ thu nhập của người dân ở các nước
phát triển dành cho hàng hoá thiết yếu có xu hướng giảm mạnh, mà thay vào

đó, họ chi tiêu nhiều hơn cho hàng hoá xa xỉ hay để hưởng các dịch vụ như du
lịch, ngân hàng, bảo hiểm… Vì vậy, các quốc gia có các mặt hàng thô và
hàng sơ chế chiếm chủ yếu trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của mình nên có
xu hướng chuyển dịch cho phù hợp với xu hướng thế giới vì các sản phẩm thô
và sơ chế không những chứa hàm lượng giá trị thấp mà cầu tiêu dùng của
chúng ngày càng giảm.
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập: Hiện nay xu thế hội nhập diễn ra sôi
nổi và mạnh mẽ, chúng ta cần làm quen dần với việc thị trường là thị trường
thế giới, cạnh tranh cũng là cnạh tranh quốc tế. Do đó, để tăng khả năng cạnh
tranh ở trong nước thì cần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu nhanh chóng.
Yếu tố khoa học – công nghệ: Với sự phát triển khoa học – công nghệ
hiện nay cho phép những nước đi sau tiếp thu thành quả của những nước đi
trước, sử dụng công nghệ đó để thực hiện chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất
khẩu của mình. Khoa học – công nghệ là yếu tố quan trọng giúp chúng ta
nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu từ những hàng thủ công
và sơ chế sang những hàng hoá có chất lượng cao và chứa nhiều giá trị gia
tăng.
1.3.3. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
1.3.3.1. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam
Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ tháng 1 – 1995. Và đến ngày
11/1/2007, chúng ta mới chính thức nhận tấm thẻ thành viên của WTO. Đây
là một cuộc đàm phán thương mại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Nếu như
để gia nhập vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, chúng ta chúng
ta chỉ mất khoảng 2 năm đàm phán, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ chúng ta mất khoảng 4 năm đàm phán thì để gia nhập vào Tổ chức thương
mại thế giới WTO chúng ta phải mất 11 năm.

Sau 11 năm, chúng ta đã trải qua 14 phiên đàm phán đa phương, hơn
100 cuộc đàm phán song phương với sự tham gia của tất cả các bộ, ngành
kinh tế, bộ, ngành tổng hợp, Văn phòng quốc hội, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, trả lời trên 2000 câu hỏi của các thành viên Ban công tác WTO về
chính sách kinh tế thương mại của Việt Nam.
Cùng với đó là việc xây dựng các chương trình hành động của Việt
Nam để đảm bảo khi gia nhập WTO có thể thực hiện các cam kết của mình
như: Chương trình xây dựng pháp luật, Chương trình thực hiện Hiệp định trị
giá Hải quan (CVA), Chương trình thực hiện Hiệp định về các rào cản Kỹ
thuật (TBT), Chương trình thực hiện về đầu tư (Trims), Chương trình thực
hiện Hiệp định về sở hữu trí tuệ (Trips), Chương trình thực hiện Hiệp định về
kiểm dịch động thực vật (SPS), Chương trình thực hiện Hiệp định kiểm tra
trước khi xếp hàng (PSI), Thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP), Quy tắc xuất xứ
“ROO”…
Như vậy, tiến trình đàm phán để trở thành thành viên chính thức của
WTO rất khó khăn, tuy nhiên gia nhập WTO sẽ đem lại những thuận lợi to
lớn cũng như những thách thức lớn lao đối với sự phát triển kinh tế của quốc
gia. Vì vậy, cần phải hiểu rõ cơ hội cũng như những thách thức mà WTO đem
lại để chủ động nắm bắt cơ hội và ứng phó kịp thời với những thách thức.
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:TS. Nguyễn Ngọc Sơn
1.3.3.2. Tác động của WTO đối với sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam
Tác động tích cực:
Gia nhập WTO, chúng ta có được thị trường xuất khẩu rộng lớn gồm
150 thành viên với mức cam kết về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm
cùng với các biện pháp phi thuế quan cũng sẽ được loại bỏ theo nghị định thư
gia nhập của các thành viên mà không bị phân biệt đối xử. Đây là cơ hội cho
các doanh nghiệp nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu.

Hàng hoá xuất khẩu của chúng ta được hưởng ưu đãi và đối xử công
bằng hơn. Khi chúng ta có những tranh chấp trong thương mại quốc tế như:
vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp tôm, cá tra, cá ba sa, xe đạp, giày
dép… chúng ta được quyền đưa ra WTO để được giải quyết công bằng hơn.
Trong thực tế, Braxin đã thắng kiện Hoa Kỳ trong vụ trợ cấp bông nhờ vào
phán quyết của WTO.
Gia nhập WTO sẽ có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
cùng với đó là sự chuyển giao công nghệ từ những nước tiên tiến sang Việt
Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nhanh
chóng.
Để thực hiện tốt các cam kết với WTO, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ
phải nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến của mình bằng cách nâng cao
hàm lượng giá trị trong các sản phẩm chế biến để từ đó góp phần chuyển dịch
cơ cấu hàng xuất khẩu.
Tác động tiêu cực:
WTO đã đề ra các luật lệ điều chỉnh hệ thống thương mại quốc tế mà
khi tham gia các nước phải triệt để tuân thủ trong đó có Việt Nam. Đó là
những luật lệ đòi hỏi chúng ta phải thay đổi luật pháp và chính sách của mình
thậm chí đôi khi còn phải sửa đổi hoặc bổ sung luật pháp cho phù hợp với các
Lớp: Kế hoạch 46B SVTH: Nguyễn Thị Hồng Trang
25

×