Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

top 13 bai phan tich chieu doi do 2022 hay nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.96 KB, 15 trang )

PHÂN TÍCH CHIẾU DỜI ĐƠ
Phân tích Chiếu dời đơ của Lí Cơng Uẩn – mẫu 1
Năm 1010, vua Lí Thái Tổ đã rời từ kinh đơ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long
– Hà Nội ngày nay). Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thời kì phát triển mạnh mẽ
của triều đại phong kiến Việt Nam thời đó. Và nhà vua đã viết lên "Chiếu dời đô" để thông báo
cho quần chúng được biết về sự việc dời đơ đó. Bản chiếu vượt ra khỏi chức năng hành chính
nhà nước thơng thường, trở thành một tác phẩm vừa có giá trị lịch sử lại vừa có giá trị văn học
độc đáo.
Tác phẩm được viết theo thể "Chiếu", một thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh,
được viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi; thể hiện những tư tưởng lớn lao, có ảnh
hưởng lớn đến vận mệnh, triều đại, đất nước. "Chiếu dời đô" phản ánh khát vọng của nhân dân
về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt
đang trên đà lớn mạnh.
Trước hết, đoạn văn đầu nêu lên tiền đề, cơ sở lịch sử và thực tiễn của việc dời đô. Nhà
vua không trực tiếp "áp đặt" mệnh lệnh của mình xuống quần thần mà ngược lại đưa ra những lí
lẽ, dẫn chứng rất tiêu biểu về các triều đại cũ trong lịch sử trước đó của cả Trung Quốc và Đại
Cồ Việt. Nhà Thương năm lần dời đô, nhà Chu ba lần dời đô chỉ nhằm mục đích để "vận nước
lâu dài, phong tục phồn thịnh".
Điều đó là một việc làm hợp lí "trên vâng mệnh trời, dưới theo lịng dân" và cuối cùng
thì việc dời đô của hai triều đại Thương – Chu đều tốt đẹp, mang lại kết quả viên mãn. Ngược
lại, hai triều Đinh – Lê ở nước ta lại cứ đóng đơ tại Hoa Lư, không chịu di dời, vậy là trái ngược
mệnh trời, không chịu noi gương "tiền nhân" dẫn tới hậu quả: triều đại suy vong, không được
cường thịnh...
Cách lập luận so sánh giữa một bên những điều tốt đẹp khi dời đô với một bên là hậu
quả không tốt của việc không chịu di dời, nhà vua đã khéo léo chỉ ra quan điểm ý kiến của
mình: dời đơ là việc nên làm và bắt buộc phải làm. Đó là việc dời đơ khơng chỉ có ý nghĩa noi
theo tấm gương của người đi trước mà còn là việc "tính kế mn đời cho con cháu" mai sau.
Như vậy, ngay ở phần đầu bài chiếu, chúng ta đã thấy hiện lên khát vọng mãnh liệt về một đất
nước độc lập, thống nhất, phát triển giàu đẹp trong tương lai của nhà vua Lí Thái Tổ.



Đoạn văn tiếp theo, nhà vua đưa ra những lý do để chọn thành Đại La là kinh đô mới.
Dưới con mắt của nhà vua, thành Đại La hiện lên thực sự là một vùng đất hội tụ, chung đúc khí
thiêng của mn đời. Xét về vị trí địa lí, đây là nơi trung tâm của cả nước, có thế đất đẹp (rồng
cuộn hổ ngồi) nhìn ra bốn phương nam , bắc, đơng, tây, có núi có sơng, đất đai rộng mà bằng,
cao mà thống, khơng lo lụt lội. Về chính trị, là đầu mối giao lưu của bốn phương, dân cư đông
đúc, đất đai màu mỡ, muôn vật phong phú tốt tươi.
Từ đó, nhà vua đi tới kết luận: khắp cả nước thì đây chính là nơi "kinh đơ bậc nhất của
đế vương muôn đời". Đến đây, chúng ta thấy, vua Lí Thái Tổ thực sự là một vị vua anh minh, có
tầm nhìn xa trơng rộng, biết nắm giữ vận mệnh thịnh suy của triều đại mình và biết chủ động
đáp ứng một nhu cầu cấp thiết của lịch sử, xã hội.
Bởi dời đơ từ nơi có núi non hiểm trở (thích hợp cho việc phịng thủ và chiến đấu)
xuống vùng đồng bằng rộng lớn (khả năng phòng thủ thấp) chứng tỏ dân tộc đã có nội lực phát
triển vững vàng, triều đại mạnh mẽ. Cho nên đây là biểu hiện của một khát vọng tự lực, tự
cường, quyết tâm dựng nước đi liền với việc giữ nước hết sức cháy bỏng, mãnh liệt của dân tộc
Đại Việt.
"Chiếu dời đơ" của Lí Thái Tổ được viết cách đây hơn một nghìn năm nhưng cách lập
luận vẫn có sức thuyết phục mạnh mẽ nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí lẽ và tình cảm. Sau những
cơ sở và lí lẽ ở hai phần trước đó, nhà vua đã kết thúc bài chiếu với câu hỏi: "Trẫm muốn dựa
vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?" vừa có tính chất ban bố, lại
vừa có tính chất đối thoại, thăm dị ý kiến của quần thần.
Chính câu hỏi đó đã xóa nhịa đi khoảng cách giữa bậc quân vương với bách gia trăm
họ, dễ tạo nên sự đồng cảm giữa nhà vua với thần dân. Từ đó mà vua – tơi dễ đồng lòng quyết
tâm xây dựng đất nước cường thịnh, vững mạnh, huy hồng.
Có một câu chuyện mà người xưa vẫn truyền tai nhau, khi dời đô về Đại La, vua Lí Thái
Tổ đã nằm mộng thấy rồng vàng hiển hóa bay lên trời nên nhà vua đã đổi tên Đại La thành
Thăng Long. Điều đó càng cho thấy rằng, việc dời đô của nhà vua càng trở nên đúng đắn,
thuyết phục hơn.
Bởi đây là một sự kiện khơng chỉ có sự hội tụ của địa lợi, nhân hòa mà còn có cả thiên
thời. Và cho tới ngày hơm nay, chúng ta vẫn thấy Đại La – Thăng Long – Hà Nội thực sự là một
mảnh đất địa linh nhân kiệt với nghìn năm văn hiến và mãi trường tồn bất diệt với thời gian năm

tháng trong trái tim của mỗi người dân Việt.


Tóm lại, với nghệ thuật lập luận mạch lạc, chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục,
tình cảm chân thành, bài chiếu đã có sức lay động tới trái tim đồng cảm của hàng triệu triệu
người dân thời bấy giờ. Nguyện vọng dời đô của nhà vua đã được quân thần ủng hộ, cho thấy Lí
Thái Tổ là vị vua thực sự là một bậc minh vương sáng suốt. Đồng thời qua bài chiếu, chúng ta
cũng thấy được khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, phản ánh ý chí tự
cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh, phát triển, sáng tươi huy hoàng.

Sơ đồ tư duy



Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- “Chiếu dời đô” không chỉ là một văn bản chính trị quan trọng của dân tộc mà cịn là áng văn
chính luận đặc sắc của Lý Thái Tổ - vị vua khai sinh ra vương triều nhà Lý.
II. Thân bài:
* Luận điểm 1: Những tiền đề, cơ sở để dời đơ (Lí do phải dời đô)
- Nhắc lại lịch sử dời đô của các triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc:
+ Nhà Thương: 5 lần dời đô ; nhà Chu: 3 lần dời đô
+ Lí do dời đơ của 2 nhà Thương, Chu: đóng đơ ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính
kế mn đời, …hễ thấy thuận tiện thì đổi.
+ Kết quả của việc dời đô: vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh
⇒ Những tấm gương sáng chứng minh dời đô là việc “thường niên” của các triều đại lịch sử.
- Phê phán hai nhà Đinh, Lê:
+ Khinh thường mệnh trời
+ Không biết noi theo các tấm gương sáng của 2 nhà Thương, Chu
+ Hậu quả: triều đại ngắn ngủi, nhân dân không thể phát triển được.

⇒ Những cơ sở thuyết phục để khẳng định dời đô là điều nên làm của các triều đại hưng thịnh,
đặc biệt là trong hoàn cảnh nhà Lý lúc bấy giờ đang rất cần một nơi hội tụ đầy đủ linh khí, sức
mạnh đất trời để phát triển.
* Luận điểm 2: Những lợi thế bậc nhất của thành Đại La
- Thành Đại La có những lợi thế tuyệt vời mà khó nơi nào có được
+ Vị trí địa lý: ở vào nơi trung tâm trời đất, hợp cả 4 hướng nam, bắc, đông, tây, + Thế đất:
“rồng cuộn hổ ngồi”, được coi là thế đất đẹp, có tương lai phát triển thịnh vượng
+ Địa thế: rộng rãi, bằng phẳng, đất cao, thoáng


+ Dân cư: không bị ảnh hưởng của thiên tai ngập lụt
+ Phong cảnh: tốt tươi, tràn đầy sức sống
⇒ Thành Đại La xứng đáng là thánh địa của trời đất, là nơi thích hợp nhất để đóng đơ mn
đời. Qua đó, thể hiện khát vọng của nhà vua về một đất nước thái bình, thịnh trị và ý thức dân
tộc, tự chủ, tự lập, tự cường của một quốc gia phong kiến.
* Luận điểm 3: Lời tuyên bố của vua
- Chiếu là một thể văn chính luận được dùng để nhà vua ban bố mệnh lệnh đến quần thân, thiên
hạ, vì vậy, lời văn trong chiếu thường trang trọng, cứng nhắc và mang sắc thái bắt buộc.
- Lời tuyên bố của vua Lý Thái Tổ lại khác: đầu tiên vua đưa ra mong muốn dời đô của bản
thân, sau đó lại hỏi ý kiến quần thần ⇒ thể hiện sự gần gũi, mang tính dân chủ, khơng ép buộc,
gị bó, xa cách. Đó chính là sự khác biệt của vua Lý Thái Tổ - một vị vua yêu nước, thương dân,
hết lòng muốn cống hiến cho đất nước, cho nhân dân.
* Luận điểm 4: Nghệ thuật
- Lập luận chặt chẽ, logic, chứng cứ xác thực tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ
- Câu văn biền ngẫu tạo nhịp điệu
- Sự kết hợp hài hịa giữa lí và tình
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị tác phẩm: “Chiếu dời đơ” xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Qua đó, ta thấy được tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trơng rộng
và tấm lòng của vua Lý Thái Tổ đối với đất nước, nhân dân.


Các bài văn mẫu khác:
Phân tích Chiếu dời đơ của Lí Cơng Uẩn – mẫu 2
Trong chế độ phong kiến Việt Nam, Lí Cơng Uẩn được biết đến là một trong những vị
minh qn có tầm nhìn xa trông rộng, lo lắng cho vận mệnh đất nước. Điều này đã được thể


hiện rõ thông qua việc ông quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Sự kiện chính trị này gắn với một tác phẩm văn học có giá trị là “Chiếu dời đơ”. Bằng lập luận
chặt chẽ, thuyết phục, bài chiếu chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
Đầu tiên, trong tác phẩm này, giá trị nhân văn thể hiện qua mục đích và dời đơ và nỗi
lịng của tác giả. Mục đích của việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La là vì lo lắng cho vận
mệnh đất nước. Nhận thấy những khó khăn ở nơi đóng đơ hiện tại, cụ thể là địa hình núi hiểm
trở gây ra nhiều khó khăn để phát triển đất nước trong thời bình.
Tác giả nêu ra những tấm gương không ngần ngại dời đô: “Xưa nhà Thương đến đời
Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô” cùng với việc khẳng
định đây là việc tất yếu nếu muốn phát triển đất nước. Vì hai nhà Đinh, Lê khơng nhận ra điều
này nên “cứ chịu n đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn
hao, muôn vật không hợp” khiến cho tác giả lo lắng cho vận nước.
Chứng kiến cảnh nhân dân khổ cực, lầm than, Lí Cơng Uẩn “vơ cùng đau xót”. Lời bộc
bạch chân thành đã làm nổi bật hình ảnh của một ơng vua u nước, thương dân và luôn khắc
khoải về vận mệnh dân tộc. Như vậy, giá trị nhân văn đã được thể hiện qua tấm lòng của bậc
minh quân, một lòng muốn dời đơ để phát triển đất nước, tạo nên thái bình cùng cuộc sống an
vui của con dân.
Giá trị nhân văn của tác phẩm cịn được thể hiện qua lí do chọn Đại La làm kinh đô: “ở
vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi
núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư
không khổ thấp trũng tối tăm, mn vật hết sức tươi”.
Tác giả đã phân tích những ưu điểm về mặt địa lí, phong thủy của vùng đất Đại La. Việc
nhìn nhận địa thế của Đại La không những thể hiện sự hiểu biết sâu rộng mà cịn cho thấy tầm

nhìn xa trơng rộng của sự thấu tình đạt lí trong việc quyết định dời đơ.
Tuy là một bài chiếu nhưng “Chiếu dời đô” lại thấm đẫm giá trị nhân văn bởi một lẽ, Lí
Cơng Uẩn khơng hề ép buộc nhân dân phải làm theo ý mình. Chiếu vốn thuộc thể loại văn học
chức năng, là lời ban bố của vua truyền xuống nhân dân nhưng xuyên suốt bài chiếu, chúng ta
không hề bắt gặp bất cứ từ ngữ mang tính chất khẩu lệnh hay ép buộc nào.
Ngược lại, bài chiếu được viết nên đầy cảm xúc: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định
nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”. Việc dời đô giống như được đưa ra trưng cầu ý dân bằng lập
luận chặt chẽ, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, giọng văn ơn hòa, lời văn chân thật.


Như vậy, tuy thuộc là thể loại văn học chức năng với mục đích ban bố mệnh lệnh nhưng
“Chiếu dời đô” không hề khô khan mà rất giàu cảm xúc. Với tấm lòng yêu nước thương dân, tác
giả- vị vua Lí Cơng Uẩn đã tạo nên một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn.
Từ mục đích dời đơ, lí do chọn Đại La làm kinh đô mới hay đến những lời bộc bạch của
tác giả, chúng ta đều bắt gặp trong đó những giá trị vơ cùng tốt đẹp và vì con người.

Phân tích Chiếu dời đơ của Lí Công Uẩn – mẫu 3
Trước những biến động của nước nhà, hàng loạt các chiếu của nhà vua được ban xuống
để bây giờ trở thành những tác phẩm hay có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Cùng với chiếu
cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta cịn được biết đến chiếu dời đô của vua Lý Công
Uẩn. Bài chiếu khơng chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó cịn mang nhiều nét văn học trong đó.
Lý Cơng Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thơng minh nhân ái có trí lớn và lập được nhiều chiến
công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là
Lí Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày
tỏ ý định dời đơ từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).
Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sơng dưới chân thành thì chợt thấy có rồng
vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lí Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh
nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh
hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng

bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài hịa với tính
chất tâm tình. Ngơn ngữ bài chiếu vừa là ngơn ngữ hành chính vừa là ngơn ngữ đối thoại. Cũng
như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán, gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung
Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây).
Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đơ
của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để
tìm cho hàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hưng thịnh
đất nước. Lí Cơng Uẩn dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên Trung Quốc trước đó.
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba
lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ? Chỉ vì
muốn đóng đơ ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế mn đời cho con cháu; trên vâng
mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục
phồn thịnh. Có thể nói bằng những dẫn chứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề và mở đầu cho bản


chiếu dời đơ của mình. Dời đơ khơng phải là một việc xấu, từ xưa nó đã diễn ra thường xun
rồi. Mục đích của nó cốt chỉ để làm cho việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được
đặt ở trung tâm của đất nước. Dời để hợp ý trời và thuận lịng dân để từ đó đất nước phồn thịnh
kéo dài.
Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đơ
đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan. Ý định dời đơ của Lí Công Uẩn bắt nguồn từ
thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó.
Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.
Tiếp theo tác giả phân tích nhưng thực tế cho thấy kinh đơ cũ khơng cịn thích hợp với
sự mở mang của đất nước nữa cho nền cần thiết phải dời đơ. Ơng khơng ngần ngại phê phán
những triều đại cũ "Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời,
khơng noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại
không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, mn vật khơng được thích nghi.
Trẫm rất đau xót về việc đó, khơng thể khơng dời đổi". tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh
nhà Lê đã khơng nghe theo ý trời nên chỉ đóng đơ ở nơi đây chính vì thế mà triều đại khơng

được lâu dài. Không biết học những cái của thời xưa như nhà Thương, nhà Chu. Vậy nên trái
với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, khơng đi theo quy luật thì sẽ khơng có kết quả tốt. Tóm lại
kinh đơ Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế. Nhưng thực
chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạnh cả thế và lực để tiến hành việc rời đô vùng
đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong,
giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đơ ở Hoa
Lư khơng cịn phù hợp nữa. Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả cịn thể hiện
giãi bày tình cảm của mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy
chính là cảm xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng
hơn, lâu dài và bền vững hơn.
Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định sự đúng đắn hợp quy luật và phù hợp của
việc dời đô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước "Huống gì thành
Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ
ngồi. Đã đúng ngơi nam bắc đơng tây; lại tiện hưởng nhìn sơng dựa núi. Địa thế rộng mà bằng;
đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong
phú tốt tươi. " Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện
của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. tác giả đã nhìn từ góc nhìn của một nhà
phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi đây.
Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa dạng có


núi có sơng, địa thế cao và khống đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho việc phát
triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả
nước. Xét tồn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt.
Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh
vực. có thể nói đây là một mảnh đất lý tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ
phát triển hưng thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây
là thánh địa. Có thể hiểu thánh địa là một nơi đất đai địa hình tốt đẹp hợp với một sự phát triển
mạnh mẽ.
Kết thúc bài chiếu Lí Cơng Uẩn khơng dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô

mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín "Trẫm muốn dựa vào
sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?". Đó như thể hiện sự dân chủ và
công bằng cho tất cả những người bề dưới, quyền quyết định đương nhiên thuộc về nhà vua thế
nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến phía dưới để thấy đồng lịng với người dân. Vì chỉ có hợp với
lịng dân thì nhà vua cũng như đất nước mới trở nên vững bền được.
Như vậy có thể thấy Lí Cơng Uẩn là một vị vua thơng minh, nhân ái hiền từ và rất đổi
hợp lịng dân. Ơng khơng chỉ lấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt
đẹp của địa hình Đại La mà ơng cịn đánh vào tình cảm để thuyết phục. Tuy là một bài chiếu có
ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của Lí Cơng Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó
hợp với lẽ trời, lòng dân. Tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng
điệu mạnh mẽ, khỏe khoắn để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ cho kế hoạch dời đô của
mình.

Phân tích Chiếu dời đơ của Lí Cơng Uẩn – mẫu 4
Lí Cơng Uẩn q ở Kinh Bắc, là võ tướng có tài của Lê Bại Hành, từng giữ chức Tả thân
vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Ông là người tài trí, đức độ, kín đáo, nhiều hi vọng. Năm 1009, Lê
Ngọa Triều chết, Lí Cơng uẩn được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, lấy hiệu là Lí
Thái Tổ và gây dựng nên nhà Lí tồn tại hơn 200 năm. Năm 1010, Lí Thái Tổ viết "Chiếu dời
đơ" để dời đơ từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La. Sau khi dời về Đại La, ông đổi tên địa điểm
này thành Thăng Long, kinh đô của nước Đại Việt, chính là Hà Nội ngày nay.
Chiếu dời đơ của Lí Cơng uẩn là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Chính văn bản này
đã góp phần khai sinh ra kinh đô của nước ta trong quá khứ và hiện nay.
Phần đầu của Chiếu dời đô nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đơ. Đó
là để đóng đơ nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế mn đời cho con cháu; trên theo


mệnh trời, dưới theo ý dân. Nói một cách khác, việc dời đô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời,
vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Việc dời đơ khơng cịn là chuyện xưa nay hiếm, nó đã được thực hiện bởi các vị vua
trước đó ở Trung Hoa. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng cụ thể để thuyết phục mọi người.

Chuyện các vị vua Trung Hoa dời đô để xây dựng đất nước phồn thịnh, chuyện các vị vua Việt
Nam thời Đinh - Lê đóng đô ở Hoa Lư làm cho triều đại không vững bền, nhân dân đói kém...
Lí Cơng uẩn đau xót khi chứng kiến vận số ngắn ngủi của nhà Đinh, nhà Lê và cảm thấy việc
dời đô là một việc làm cấp thiết.
Phần mở đầu của Chiếu dời đơ có lí lệ sắc bén, dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục.
Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên những ấn tượng đẹp: Trẫm rất đau xót về việc
đó, khơng thể khơng dời đổi.
Tác giả đã chỉ ra được những điểm thuận lợi của kinh đô mới so với kinh đơ cũ. Đại La
khơng có gì xa lạ đối với mỗi người dân Việt lúc đó, nó được Cao Biền đời nhà Đường xây
dựng vào thế kỉ thứ IX. Những điểm mạnh của kinh đơ đã được Lí Cơng Uẩn chỉ rõ trong bài
chiếu. Vị trí của nó ở vào nơi trung tâm của trời đất ... đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Địa thế
của Đại La rất đẹp, rất hùng vĩ, là thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sơng dựa núi, địa
thế rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng.
Rõ ràng đây là một vùng đất lí tưởng thích hợp cho việc đóng đơ và quần tụ cư dân. Nó
khơng bị ngập lụt mà muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi.
Tóm lại, Đại La là thắng địa, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Đại La
xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Phần thứ hai của Chiếu dời đô cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị vua mở đầu triều Lí,
một cái nhìn tồn diện, sâu sắc và chính xác về tất cả các mặt. Điều này hồn tồn khơng phải là
một ý kiến chủ quan mà chính là khả năng nhìn nhận và tính tốn một cách chính xác, quyết
đốn. Sau một nghìn năm, Thăng Long xưa nay là Hà Nội đã trở thành kinh đô của hầu hết các
triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây chính là cống hiến vĩ đại của Lí Cơng Uẩn cho
lịch sử Việt Nam như câu nói của ơng lúc dời đơ: mưu toan nghiệp lớn, tính kế mn đời cho
con cháu.
Về mặt văn chương, phần thứ hai của Chiếu dời đơ rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu
hình ảnh và biểu cảm. Vế đối trong các câu rất chuẩn và đạt hiệu quả cao về mặt nghệ thuật.


Phần cuối của bài Chiếu là lời bày tỏ của nhà vua trước quần thần về ý định dời đô, điều
này cho thấy nhà vua rất công minh, đức độ trong việc trị nước:

"Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?"
Việc dời đơ của Lí Cơng uẩn là một kì tích, kì cơng đối với đất nước. Sau một ngàn năm,
Thăng Long - Hà Nội đã trở thành kinh đơ của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; là
trung tâm kinh tế, quốc phịng, văn hóa lớn của cả nước.
Chiếu dời đô là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng
đúng như khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó
khơi dậy trong nhân dân ta lịng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.

Phân tích Chiếu dời đơ của Lí Cơng Uẩn – mẫu 5
Lí Công Uẩn (974 – 1028) quê ở châu cổ Pháp, lộ Bắc Giang, nay là làng Đình Bảng,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều
võ cơng hiển hách. Dưới thời Tiền Lê, ông làm quan đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ, lấy
niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô
từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Tương truyền khi thuyền nhà
vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lí
Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Chiếu dời đơ phản ánh ý chí tự cường và khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất,
lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì trên thuận ý trời, dưới
hợp lịng người, có sự kết hợp hài hịa giữa lí với tình.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh
nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh
hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng
bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài hịa với tính
chất tâm tình. Ngơn ngữ bài chiếu vừa là ngơn ngữ hành chính vừa là ngơn ngữ đối thoại.
Kết cấu của bài chiếu tiêu biểu cho kết cấu của một bài văn nghị luận chính trị xã hội.
Bằng phương thức lập luận sắc bén, chặt chẽ, lơgíc, tác giả đã trình bày và thuyết phục mọi
người đồng tình với quyết định dời đơ của mình. Để chứng minh quyết định dời đơ là đúng đắn,



tác giả nêu một số dẫn chứng trong lịch sử cổ kim để củng cố lí lẽ, tăng thêm khả năng thuyết
phục.
Để giải tỏa tâm trạng băn khoăn của không ít người trước việc dời đô, tác giả khẳng định
dời đô là việc làm thường xuyên xảy ra trong lịch sử các triều đại phong kiến từ trước tới nay.
Lí Công uẩn viện dẫn gương các triều vua thời cổ đại bên Trung Quốc cũng đã từng dời đô:
"Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương
cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ?
Chỉ vì muốn đóng đơ ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu;
trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài,
phong tục phồn thịnh."
Đoạn này nêu tiền đề làm chỗ dựa cho lí lẽ mà tác giả sẽ trình bày ở những phần tiếp
theo. Trong lịch sử phong kiến phương Bắc đã từng có chuyện dời đô và mang lại những kết
quả tốt đẹp, cho nên việc dời đơ của Lí Thái Tổ khơng phải là chuyện bất thường.
Nhà vua khẳng định các bậc đế vương khi quyết định dời đơ đều nhằm mục đích mưu đồ
nghiệp lớn, xây dựng vương triều phồn thịnh, tính kế lâu dài cho quốc gia, dân tộc. Việc dời đô
trên thì thuận theo mệnh trời (tức phù hợp với quy luật khách quan), dưới thì thuận theo ý dân
(phù hợp với nguyện vọng của nhân dân) nôn kết quả là đều đem đến sự phát triển thịnh vượng
cho quốc gia dân tộc.
Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đơ
đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan. Ý định dời đơ của Lí Cơng Uẩn bắt nguồn từ
thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó.
Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.
Dựa vào óc quan sát, phân tích kĩ lưỡng tình hình thực tế, ơng nêu ra những nhận xét có
tính chất phê phán: Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời,
khơng noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại
không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, mn vật khơng được thích nghi.
Trẫm rất đau xót về việc đó, khơng thể khơng dời đổi.
Theo ơng, nếu cứ để kinh đơ ở chỗ cũ thì sẽ phạm những sai lầm như không phù hợp
quy luật khách quan: lại theo ý riêng mình khinh thường mệnh trời; khơng biết học theo cái
đúng của người xưa: không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng n đơ thành ở nơi đây.



Hậu quả là triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi… Tóm lại, kinh đơ của quốc gia Đại
Việt không thể phát triển thịnh vượng trong một vùng đất chật hẹp như thế.
Bằng quan điểm của người thời nay, chúng ta cần xem xét, đánh giá thật công bằng về
vai trò lịch sử hai triều đại Đinh, Lê. Thực ra, vào giai đoạn đó, cả thế và lực của triều đình chưa
đủ mạnh để có thể dời đơ ra vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở
của rừng núi để chống thù trong, giặc ngồi. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của
đất nước thì việc đóng đơ ở Hoa Lư khơng cịn phù hợp nữa.
Bên cạnh lí lẽ sắc sảo, vua Lí Thái Tổ cịn dùng tình cảm chân thành để tác động mạnh
mẽ tới tâm hồn dân chúng, ông tỏ ra tinh tế, khiêm nhường khi giãi bày ý định của mình. Tính
thuyết phục của lí lẽ càng tăng lên khi tác giả lồng cảm xúc của mình vào: "Trẫm rất đau xót về
việc đó." Cảm xúc đó phản ánh khát vọng của nhà vua là muốn phát triển đất nước thành một
quốc gia hùng cường. Tuy nhiên đằng sau lời lẽ mềm mỏng ấy vẫn là một quyết định cứng rắn
không thể không dời đổi.
Nhà vua chứng minh ưu thế mọi mặt của thành Đại La và khẳng định đây là địa điểm tốt
nhất để đặt kinh đơ mới:
"Huống gì thành Đại La, kinh đơ cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được
cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đơng tây; lại tiện hưởng nhìn sơng dựa núi.
Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn
vật cũng rất mực phong phú tốt tươi."
Nhà vua dựa vào thuyết phong thủy để phân tích và chứng minh lợi thế và vẻ đẹp muôn
mặt của thành Đại La về địa lí, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện sống của dân cư và sự
phong phú, tốt tươi của cảnh vật.
Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa
dạng có núi có sơng, địa thế cao và khống đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho
việc phát triển lâu dài của quốc gia. Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế
của cả nước. Xét tồn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của
Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên
nhiều lĩnh vực, Trên cơ sở đó nhà vua khẳng định:

Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thánh địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn
phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.


Tác giả gọi Đại La là thánh địa của đất Việt bởi lẽ ông đã nhận ra nơi đây là đất tốt, đất
lành, có thể đem nhiều lợi ích, đồng thời ơng tiên đốn Đại La sẽ là chốn tụ hội trọng yếu, cũng
là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương mn đời.
Kết thúc bài Chiếu dời đơ, Lí Thái Tổ không lấy uy quyền của vua chúa để ban bố mệnh
lệnh mà lại đặt ra câu hỏi: "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các
khanh nghĩ thế nào?"
Câu hỏi tu từ này thể hiện thái độ tôn trọng của người đứng đầu đất nước đối với triều
đình phong kiến đương thời. Có thể coi đây là yếu tố dân chủ tiến bộ trong tư tưởng của Lí Thái
Tổ. Lời lẽ bài chiếu mang tính chất đối thoại, tạo sự hiểu biết và đồng cảm giữa nhà vua với các
bậc quan lại trong triều đình và dân chúng. Một lần nữa, nhà vua khẳng định quyết tâm dời kinh
đô từ Hoa Lư về Đại La của mình.
Chiếu dời đơ được viết theo lối văn biền ngẫu với những cặp câu song song, các vế câu
đối nhau rất chỉnh về cả ý lẫn lời. Những đoạn văn cân xứng kết hợp và bổ sung cho nhau để
thể hiện nội dung tư tưởng của bài chiếu. Tác giả đã thuyết phục người nghe bằng lí lẽ sắc sảo
và tình cảm chân thành. Nguyện vọng dời đơ của Lí Thái Tổ phù hợp với nguyện vọng của thần
dân trăm họ.
Chiếu dời đô phản ánh ý chí độc lập tự cường của dân tộc và sự phát triển lớn mạnh của
quốc gia Đại Việt. Qua đó, chúng ta có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một
nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ
đang trên đà phát triển lớn mạnh. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp ra vùng đồng bằng rộng
rãi, điều đó chứng tỏ triều đình nhà Lí đã đủ khả năng chấm dứt nạn phong kiến cát cứ trong
nước và đủ sức chống cự với quân xâm lược phương Bắc. Việc Lí Thái Tổ định đô ở Thăng
Long là thực hiện nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn về một mối, để có điều kiện xây
dựng đất nước ngày càng lớn mạnh.
Sự đúng đắn của quyết định dời đô đã được lịch sử chứng minh một cách hùng hồn.
Thăng Long xưa – thủ đô Hà Nội ngày nay xứng đáng là trái tim của Tổ quốc, là trung tâm

chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, đã vững vàng trước mọi thử thách ác liệt của nhiều
cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.



×