Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

LUẬN VĂN: Tác dụng tích cực và hạn chế những khiếm khuyết của cả hai yếu tố thị trường và sự can thiệp của nhà nước pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.92 KB, 14 trang )














LUẬN VĂN:

Tác dụng tích cực và hạn chế những khiếm
khuyết của cả hai yếu tố thị trường và sự
can thiệp của nhà nước












Lời mở đầu



Trong thời gian vừa qua ở Việt Nam, cải cách các chính sách kinh tế đã có ảnh
hưởng tích cực tới tăng trưởng và cấu trúc lại nền kinh tế. Sự kết hợp giữa các biện pháp
ổn định hoá kinh tế và các biện pháp tự do hoá, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Chính
phủ Trung ương đối với các hoạt động kinh tế dựa trên thước đo của thị trường, thực hiện
chính sách mở cửa trong quan hệ kinh tế quốc tế đã tạo nên những chuyển biên rõ nét về
tốc độ tăng trưởng kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Cùng với các chính sách
cải cách đó, hoạt động của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi
đáng kể.
Tuy nhiên, triển vọng phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới ở Việt Nam có
lẽ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết các vấn đề cơ bản mà nội dung của chúng có
liên quan đến chính sự tiếp tục quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Vấn đề nổi bật trong số
đó là xác định vai trò hợp lý của nhà nước trong nền kinh tế. Trong quá trình chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế thị trường, Việt Nam đang mong
muốn tìm kiếm cho mình một nền kinh tế mà trong đó có sử dụng được các tác dụng tích
cực và hạn chế những khiếm khuyết của cả hai yếu tố thị trường và sự can thiệp của nhà
nước đối với hai mặt tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội.


Nội dung
1-/ cơ chế thị trường. Các yếu tố tạo thành cơ chế thị trường
Những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta bước từ nền kinh tế quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế mở cửa. Thì cũng là lúc chúng ta làm quen và sử dụng khái niệm về thị
trường. Thị trường được hiểu theo nghĩa hẹp đó là nơi gặp gỡ giữa người mua và người
bán để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Nhưng để hiểu theo nghĩa rộng hơn thì thị trường là
nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của quy luật sản xuất và lưu
thông hàng hoá và tổng hợp các quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Cơ chế thị trường là guồng máy hoạt động của nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị
trường tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá theo những yêu cầu khách
quan của các quy luật của kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,

quy luật cung cầu, quyluật lưu thông tiền tệ. Có thể nói cơ chế thị trường là tổng thể hữu
cơ giữa các nhân tố kinh tế: cung cầu, giá cả trong đó người sản xuất và người tiêu dùng
tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác định được ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái
gì ? như thế nào? và cho ai ?
Những mặt ưu của thị trường và cơ chế thị trường:
- Thừa nhận công dụng xã hội của sản phẩm và lao động chi phí sản xuất ra nó. Do
đó nó kích thích những người sản xuất trao đổi hàng hoá giảm chi phí sản xuất và lưu
thông cải tiến chất lượng, quy cách, mẫu mã, hình thức cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu
người tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá là việc riêng của từng người có tính độc lập đối với
người sản xuất khác. Nhưng hàng hoá của họ có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng,
hình thức thị hiếu người tiêu dùng không? Chỉ trên thị trường và thông qua thị trường các
vấn đề trên mới được khẳng định và có lời giải đáp. Ngoài chức năng là nơi kiểm nghiệm
sự chấp nhận của người tiêu dùng, thì thị trường còn có chức năng là đóng vai trò như
một đòn bẩy, nó kích thích và hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Trên thị trường mọi hàng
hoá đều mua bán theo giá cả thị trường. Cho nên người sản xuất luôn tìm cách hạ giá
thành sản xuất ít hơn giá cả thị trường, không những không giảm mà còn tăng chất lượng
sản phẩm. Điều này tạo điều kiện cho người sản xuất có một thế mạnh trên thị trường và
làm ăn có lãi. Dẫn đến làm phát triển sự tiến bộ xã hội. Cạnh tranh cung - cầu làm cho giá


cả thị trường biến đổi thông qua sự biến đổi đó thị trường có tác dụng kích thích hoặc hạn
chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thích hoặc hạn chế tiêu dùng đối với người tiêu
dùng. Ngoài ra thị trường còn cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng.
Thị trường cho biết những biến động về nhu cầu xã hội, số lượng giá cả, cơ cấu và xu
hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá dịch vụ. đó là những thông tin cực kỳ quan
trọng đối với người sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với
thông tin của thị trường.
Cơ chế thị trường hoạt đồng theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Đó là quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ Thông qua các
hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá cơ chế thị trường với sự dẫn dắt của giá cả đã có tác

dụng trực tiếp điều tiết sản xuất, tiêu dùng và đầu tư. Chính bàn tay vô hình này làm cho cơ
cấu sản xuất, cơ cấu hàng hoá phù hợp với khối lượng và chất lượng nhu cầu. Samelson đã
nói rằng “cơ chế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. Một nền kinh tế
thị trường là một cơ chế tinh vi phối hợp một cách, không tự giác, nhân dân và doanh nghiệp
thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức
và hành động của Đảng trên các cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm mà nó vẫn
giải quyết được bài toán mà máy vi tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi”. Cơ chế thị
trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất với người tiêu dùng. Cơ chế thị trường đã đặt
người tiêu dùng lên hàng đầu “khách hàng là thượng đế”.
Như vậy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp tự động được hành động trí tuệ
và tài lực của hàng triệu con người và hướng tới lợi ích chung của xã hội đó là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất. Các nhà kinh
tế đã khẳng định rằng: cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá
cho hiệu quả cao nhất, cơ chế thị trường đã tạo ra những thành tựu to lớn nhất mà từ
trước đến nay chưa một nền kinh tế nào đạt tới được.
Cơ chế thị trường giải quyết tốt ba vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là sản xuất ra
cái gì ? Như thế nào? Cho ai? thông qua lợi nhuận. Đây là điều mà các cơ chế kinh tế
trước đây không thể giải quyết nổi hoặc giải quyết được nhưng còn nhiều vướng mắc.
Những khuyết tật của cơ chế kinh tế thị trường:


Bên cạnh những vấn đề ưu điểm thì nền kinh tế thị trường không tránh khỏi những
hạn chế của nó. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samelson đã nói rằng “sau khi tìm hiểu về bàn
tay vô hình chúng ta không nên quá say mê vẻ đẹp của cơ chế thị trường coi đó là hiện
thân của sự hoàn hảo là tinh tuý của sự hài hoà, của đấng cao siêu, nằm ngoài tầm tay con
người”. Cũng như báo cáo của ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VII nêu rõ “sẽ sai
lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường sẽ là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích
của sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và
phát triển nhiều loại tiêu cực của xã hội. Thị trường cũng như hiện tượng thai nghén,
chưa biết sẽ ra sao. Điều đó có nghĩa là bao hàm cả khả năng thất bại”. Mặt khác cơ chế

thị trường không bảo đảm được việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm tối ưu phù hợp với yêu
cầu xã hội. Do chạy theo lợi nhuận nên nhà sản xuất có thể gây nên những tác động tiêu
cực cho xã hội như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, phân hoá giàu nghèo mà
toàn xã hội phải gánh chịu.
Thị trường và cơ chế thị trường có những khuyết tật nhất định và cụ thể. Do tính tự
phát dẫn tới sự hỗn độn trong nền kinh tế. Mặt khác nó kích thích lợi ích cá nhân, lợi ích
cục bộ, nhưng lại xem nhẹ lợi ích xã hội, lợi ích tập thể. Nó chỉ phản ánh những nhu cầu
trước mắt mà không vạch ra nhu cầu tương lai. Những chỉ số kinh tế như giá cả lợi nhuận
thường xuyên biến động làm cho người sản xuất và lưu thông hàng hoá khó định hướng,
thường bị động đối phó, nhiều lúc gây ra sự lãng phí lao động xã hội.
Nhận thức được những đặc điểm đó Nhà nước có thể sử dụng lực lượng dự trữ về
kinh tế và những chính sách phù hợp như kế hoạch, thuế, hợp đồng kinh tế để cùng với
thị trường điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế theo định hướng và mục tiêu xác định.
Trước đây ta đã phân tích những mặt tích cực những chức năng to lớn của nền kinh
tế thị trường đem lại. Nước là một nước đang yếu kém về mặt quản lý cũng như nền kinh
tế nên chúng ta không thể không áp dụng nền kinh tế thị trường được. Tuy rằng chúng ta
đi lên theo hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản, nhưng chúng ta
không phải bỏ đi toàn bộ mọi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mà chúng ta bỏ qua
kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải áp dụng như thế
nào để không hạn chế những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và khai thác triệt để
nó. Mà phải loại trừ những mặt trái, mặt tiêu cực của nó. Để loại bỏ được những khuyết


tật của nền kinh tế thị trường thì không có cách nào khác đó là phải có sự quản lý điều
tiết của Nhà nước. Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường không phải chỉ
là để loại bỏ những khuyết tật của nó, mà còn là sự định hướng phát triển của nó đi đúng
với đường lối mà Nhà nước ta đề ra.
Sự cần thiết của Nhà nước trong sự quản lý thị trường.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự dao động thường xuyên của
các nhân tố tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị làm cho các quan hệ tỷ lệ đó luôn luôn biến

động. Theo quan hệ tỷ lệ đó, cơ chế phù hợp với yêu cầu khách quan của các quy luật và
tính quy luật vận động phát triển kinh tế, xã hội và tạo điều kiện cho nền kinh tế đó có thể
tăng trưởng và ngược lại các quan hệ tỷ lệ đó có thể không hợp và làm cho nền kinh tế
rơi vào tình trạng trì trệ, yếu kém. Đặc biệt là khi các quan hệ kinh tế quốc tế được hình
thành và phát triển thì các hoạt động kinh tế trong và ngoài nước tác động lẫn nhau, các
nguồn lực bên trong và bên ngoài có thể di chuyển phù hợp hay không phù hợp với nhu
cầu phát triển kinh tế trong nước, quy mô và cơ cấu kinh tế có thể dịch chuyển theo
hướng tiến bộ hợp lý tối ưu hay lạc hậu, què quặt, mất cân đối và nền kinh tế của mỗi
quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một khâu cần thiết của hệ thống phân công lao
động quốc tế.
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế của từng quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các
quan hệ bên trong mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài, vào thị trường khu vực,
thị trường quốc tế. Tình hình đó đặt lên vai các Nhà nước, các dân tộc nhiệm vụ không
chỉ là người bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia mà còn là người hiểu biết quy luật
vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo được các biến đổi
trong và ngoài nước, có khả năng sử dụng các đòn bảy kinh tế, thể chế hoá các chủ
trương, chính sách kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác
động, khống chế, điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại, định hướng sự phát triển của
các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế để đảm bảo yêu cầu thăng
bằng, cân đối trong sự phát triển do chính các quy luật và tính quy luật khách quan của
đời sống kinh tế, xã hội quy định. Có thể khẳng định rằng thăng bằng cân đối trong sự
phát triển của nền kinh tế là cơ sở khách quan sâu xa của vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nước.


Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, cơ sở khách quan sâu
xa này được thể hiện thông qua những mặt sau đây:
Một là: Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, mỗi người, mỗi
cơ sở, mỗi ngành đều có lợi ích riêng của mình, đều tìm mỗi cách để tối đa hoá lợi ích đó
mỗi người, mỗi cơ sở, mỗi ngành có thể thấy hoặc không thấy sự vi phạm đến lợi ích của

người khác, cơ sở khác, ngành khác Và do đó, tất yếu nảy sinh lợi ích cá nhân của bộ phận
này tăng lên làm thiệt hại đến lợi ích cá nhân của bộ phận khác trong xã hội xét theo tổng thể
nền kinh tế quốc dân. Biện luận và mặt xã hội của xu hướng này là các hoạt động kinh tế bị
đảo lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh và chỉ sau những biến động lớn về kinh tế - xã
hội thì mọi quan hệ đời sống xã hội, kinh tế mới dần dần lặp lại được thế cân bằng ổn định.
Sự phát triển kinh tế có tính chu kỳ hoặc theo kiểu “làn sóng” của nền kinh tế thị
trường ở các nước TBCN nói lên nhược điểm của cơ chế thị trường. Muốn khắc phcụ được
nhược điểm này cần có một bộ phận điều hành vĩ mô bằng các hoạch định, các chương
trình, chiến lược và kế hoạch phát triển với các mục tiêu về quy mô, về cơ cấu trong từng
ngành, từng vùng cũng như các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế quốc dân. Các
mục tiêu vĩ mô này là những định hướng không thể thiếu được cho các hoạt động kinh tế
của cá nhân, cơ sở và các ngành, vùng trong cả nước. Bộ phận điều hành vĩ mô ở đây
không ai khác ngoài vai trò của Nhà nước - chủ thể kinh tế của nền kinh tế quốc gia.
Hai là: Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất
kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và tuân theo các quy
luật của thị trường. Bên cạnh những hàng hoá, dịch vụ, chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu về
của từng cá nhân thường khác với chi phí và lợi ích thực tế của toàn xã hội với tư cách là
một tổng thể như các loại hàng hoá, dịch vụ công cộng mà chi phí sản xuất phải bỏ ra nhiều
nhưng lợi nhuận thu về rất thấp, chỉ đem lại lợi ích cho xã hội. Mặt khác, những hàng hoá,
dịch vụ công cộng quan trọng như quốc phòng, an ninh thì không thể giao cho tư nhân
được mà Nhà nước cần đứng ra sản xuất.
Ba là: Nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường không thể tách khỏi
môi trường chính trị, kinh tế và xã hội. Nếu môi trường chính trị, kinh tế và xã hội không
ổn định, thường xuyên có sự đụng độ và xung đột giữa các giai cấp trong xã hội thì gân
nên những hiện tượng tiêu cực làm cho nền kinh tế không phát triển. Cơ chế thị trường -


cơ chế điều chỉnh hành vi của người sản xuất lẫn người tiêu dùng theo mệnh lệnh giá cả,
khi đó sẽ bị méo mó. Những nhược điểm của cơ chế thị trường sẽ lan rộng và đẩy môi
trường kinh tế, chính trị và xã hội vào tình trạng rối loạn và khủng hoảng.

Cơ chế thị trường rất cần có môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động song
những nhược điểm và khuyết tật của nó lại để ra những xu hướng phủ định chính những
điều kiện hoạt động của bản thân nó như: do chạy theo lợi nhận đã đưa đến sự phân bố và
sử dụng các nguồn lực không hợp lý, vì lợi ích kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp lợi ích
chung, phá hoại môi sinh, làm ô nhiễm môi trường, do mỗi người đều tìm cách tối đa hoá
lợi ích của mình nên tất yếu dẫn đến sự phân hoá giầu nghèo, bất đồng trong xã hội, cạnh
tranh tất yếu dẫn đến độc quyền Trong những biểu hiện trên, biểu hiện có tác động sâu
sắc nhất là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Cơ chế thị trường - bàn tay vô hình khắc phục được những mâu thuẫn đòi hỏi phải
có sự can thiệp của Nhà nước - bàn tay hữu hình vào quá trình kinh tế. Chính từ nhu cầu
này của nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường nói riêng mà Nhà nước của quốc
gia đều có chức năng bảo đảm về mặt chính trị và xã hội, bảo hiểm về mặt kinh tế nhằm
duy trì các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ quan hệ
sản xuất thống trị và bảo vệ được quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị.
Theo quá trình phát triển của nhân loại khi trình độ xã hội hoá ngày càng cao, quan
hệ lợi ích giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội ngày càng đan chéo phức tạp thì vai trò
của Nhà nước ngày càng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là lý do tại sao Nhà nước phải
can thiệp vào quá trình sản xuất xã hội.
Bốn là: Ngày nay xu hướng hoà nhập nền kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị
trường thế giới ngày càng tăng. Những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa các
nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những
ảnh hưởng bất lợi đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước. Thông qua sự can thiệp của Nhà
nước vào các quan hệ đối ngoại để khống chế những hoạt động bất lợi và phát huy những
hoạt động có lợi cho sự phát triển kinh tế trong nước.
Năm là: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, khống
chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy kinh tế và các chính sách, biện pháp kích
thích mà còn bằng thực lực kinh tế của Nhà nước - tức sức mạnh của hệ thống kinh tế


quốc doanh. Có thể khẳng định rằng: trên thế giới ngày nay không có nước nào từ các

nước chậm phát triển, đang phát triển cho đến các nước có nền kinh tế phát triển cao đều
không vắng bóng các cơ sở quốc doanh. Kinh nghiệm thực tế của các nước đã chỉ ra,
việccủng cố tăng cường sức mạnh kinh tế của các cơ sở kinh tế quốc doanh trong những
ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân vừa là công cụ quản lý vừa là lực
lượng kinh tế trực tiếp để tham gia hình thành, mở rộng quan hệ thị trường:
Sự ra đời và tồn tại của kinh tế quốc doanh là cần thiết và có tính chất phổ biến với tất
cả các nước không phân biệt chế độ kinh tế xã hội và trình độ phát triển. Sự khác nhau giữa
các nước chỉ là phạm vi, mức độ của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế và sự có mặt của
các cơ sở kinh tế quốc doanh trong ngành này hay ngành khác tuỳ thuộc vào điều kiện cụ
thể của từng nước trong từng thời kỳ nhất định.
Sáu là: Đối với các nước bước vào giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá vận động
theo cơ chế thị trường từ một trình độ kinh tế chưa phát triển, sản xuất nhỏ, tự túc tự cấp
là phổ biến lại chịu ảnh hưởng nhiều năm của cơ chế hành chính bao cấp như nước ta thì
Nhà nước giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong công việc hình thành và phát triển các quan
hệ thị trường và việc sử dụng cơ chế thị trường. ở các nước này, Nhà nước phải gánh vác
các mục tiêu kinh tế vĩ mô và thực hiện nhiều mục tiêu xã hội vừa có tính cơ bản, vừa có
tính cấp bách như phân bố sản xuất, lao động vào các ngành, các vùng mới, huy động
mọi tiềm năng vào phát triển và lưu thông hàng hoá, tổ chức phân công lại lao động và
giải quyết các nhu cầu khác của đời sống kinh tế xã hội. Chúng ta tiến hành mở rộng các
quan hệ thị trường, cơ chế thị trường trong điều kiện luật pháp, chính sách chưa đầy đủ
và kế thừa những thành tựu của các nước đi trước.
Đối với những nước đang phát triển, việc hoàn thiện và thường xuyên tăng cường
các biện pháp hành chính - pháp lý và hành chính kinh tế cùng với việc phát triển hệ
thống các cơ sở kinh tế của Nhà nước trong các ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế quốc dân là những công cụ vĩ mô vô cùng quan trọng trong việc hình thành và mở
rộng, định hướng các quan hệ thị trường và sử dụng cơ chế thị trường theo phương hướng
mục tiêu đã định. Trong việc quản lý, Nhà nước không được xem nhẹ hay coi nặng bất cứ
một công cụ nào mà phải sử dụng nhịp nhàng một cách đồng bộ bởi vì mỗi loại công cụ



đều có một tác dụng riêng của nó tuỳ theo từng điều kiện, hoàn cảnh mà mỗi công cụ
phát huy thế mạnh của nó.
Từ sự phân tích trên ta thấy rằng việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế là một tất yếu
khách quan để sửa chữa những khuyết tật, hạn chế của cơ chế thị trường, Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan, nội tại của nền kinh tế hàng hoá
vận động theo cơ chế thị trường. Còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt
động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu
như thế nào phụ thuộc vào bản chất các hình thức Nhà nước và con đường của mỗi quốc
gia lựa chọn. Đất nước Việt Nam ta muốn đạt tới mục tiêu XHCN cần phải chuyển đổi cơ
chế quản lý kinh tế, song cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước là một tất
yếu khách quan. Nhà nước ta, một cơ quan quyền lực có chức năng quản lý kinh tế với tư
cách là người đại diện cho sở hữu toàn dân cần phải nhân danh xã hội điều phối những
hoạt động chung có tính chất xã hội, đó chính là vai trò của nhạc trưởng.
2-/ Các công cụ quản lý vĩ mô.
a. Luật pháp.
Nhà nước pháp quyền trước hết phải được thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ
và khoa học. Tiếp theo là việc thực hiện pháp luật trên thực tế một cách công minh, bảo
đảm sự bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân trước pháp luật. Bên cạnh đó là quá trình
tổ chức giám sát, kiểm tra thực hiện pháp luật. Tất cả đều nhằm bảo đảm cho việc thực
thi một kiểu Nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật được thông qua và bị hạn chế bởi pháp
luật. Do vậy, pháp luật phải phản ánh trong bản thân nó sự vận động của cơ chế thị
trường, tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do bình đẳng. Có thể nói rằng độ tin cậy
của các nhà đầu tư với Nhà nước được tập trung và phản ánh ở mức độ tin cậy vào pháp
luật. Vì vậy, pháp luật có tính chất ổn định cao hơn so với các chính sách và chủ trương.
b. Kế hoạch.
Kế hoạch hoá là một hoạt động có mục đích của Chính phủ hay hộ gia đình, doanh
nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đã định. Chức năng chủ yếu của kế hoạch hoá là phát huy
tiềm năng tổng hợp của nền kinh tế theo những định hướng thống nhất tạo nên cơ cấu
hợp lý, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và giữ cân bằng tổng thể. Nền kinh tế thị trường ở



nước ta cũng như nhiều nước khác là nền kinh tế kế hoạch có sự quản lý của Nhà nước
bằng kế hoạch và công cụ khác.
Trong nền kinh tế thị trường cần và có thể phân biệt hai loại kế hoạch: kế hoạch
kinh tế - xã hội và kế hoạch kinh doanh.
* Kế hoạch kinh tế - xã hội: là kế hoạch có định hướng, hướng dẫn do Nhà nước
xây dựng nhằm định hướng phát triển và cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kế hoạch này vừa tạo ra môi trường cho sản xuất kinh doanh, vừa bảo đảm sự thống nhất
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
* Kế hoạch sản xuất kinh doanh: là kế hoạch hành động, kế hoạch làm ăn, mua bán
do các doanh nghiệp xây dựng và quyết định dựa theo kế hoạch của Nhà nước và sự vận
động của cơ chế thị trường. Kế hoạch kinh doanh phải đạt mục tiêu vừa thoả mãn nhu
cầu xã hội, vừa thu được lợi nhuận tối đa.
Như vậy, kế hoạch kinh tế - xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường và có
thể điều tiết thị trường. Còn kế hoạch sản xuất kinh doanh phải gắn chặt với thị trường,
coi thị trường là mệnh lệnh, đối tượng của kế hoạch.
c. Chính sách tài chính.
Chính sách tài chính chủ yếu thể hiện ở hai nội dung: thu và chi tiêu của Chính phủ
từ đó tác động vào tổng cung và tổng cầu, sản lượng, giá cả và việc làm.
Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm hoặc thoát khỏi suy htoái kinh tế gọi
là chính sách tài chính mở rộng, nó tác động thông qua hai con đường:
- Tăng chi tiêu của Chính phủ như đẩy mạnh sản xuất hàng hoá công cộng, tăng đơn
đặt hàng mua và những khoản chi khác. Như vậy sẽ làm tăng tổng cầu và qua đó tác
động, kích thích làm tăng tổng cung. Vì vậy ta có thể giải quyết tốt vấn đề suy thoái và
thất nghiệp.
- Giảm thuế sẽ kích thích tiêu dùng và đầu tư. Do vậy sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển,
tạo điều kiện giải quyết việc làm.
Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm lạm phát thì chính sách tài chính thắt
chặt. Nó cũng tác động đến các biến cố của nền kinh tế vĩ mô theo hai con đường:



Thứ nhất: Giảm chi tiêu của Chính phủ như: giảm đầu tư sản xuất hàng công cộng
và đơn đặt hàng. Kết quả dẫn đến giảm cầu quá mức, bình ổn vật giá, hạn chế lạm phát và
đương nhiên cũng hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: Tăng thuế cũng có thể làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng, giảm đầu tư và
giảm nhu cầu xã hội quá mức khiến giá cả đi vào ổn định.
d, Chính sách tiền tệ:
Cùng với chính sách tài chính, tiền tệ là nhân tố quan trọng tác động đến sản lượng,
thất nghiệp và lạm phát trong nền kinh tế quốc dân. Sự tác động của nền kinh tế theo ba
logíc.
- Những thay đổi trong mức cung về tiền tệ tác động đến lãi suất cùng khối lượng
và điều kiện tín dụng.
- Lãi suất và điều kiện tín dụng lại tác động đến việc sử dụng vốn có liên quan đến
lãi suất.
Tổng mức cầu thay đổi trong quan hệ cân đối giữa sản lượng và giá cả.
Chính sách tiền tệ có thể tóm lại thành ba loại chính sách định hướng sau:
- Chính sách sử dụng tiền tệ là chính sách nhằm cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế để
khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất tạo công ăn việc làm.
- Chính sách thu hẹp tiền tệ làm giảm bớt lượng cung ứng tín dụng, nhằm hạn chế
vốn đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế, ngăn chặn lạm phát có thể xảy
ra trong tương lai.
d. Kinh tế quốc doanh
Ngoài những công cụ trên, chúng ta còn có một công cụ nữa đó là kinh tế quốc
doanh. Có thể khẳng định rằng trên thế giới ngày nay không có nước nào lại vắng bóng
các cơ sở kinh tế quốc doanh. Nước ta xem quốc doanh là thành phần chủ đạo, lãnh đạo
then chốt nền kinh tế trong điều kiện nước ta hiện nay, khi các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh và thành phần kinh tế tư nhân vẫn còn yếu thì vai trò chủ đạo của nền kinh tế
quốc doanh là rất cần thiết. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta xây dựng chế độ công
hữu đại trà. Chủ đạo có nghĩa là nắm vững những khâu trọng yếu nhất trong nền kinh tế.



Đặc biệt là các khâu trọng yếu trong các ngành có ý nghĩa xã hội to lớn như lương thực
thực phẩm. Ngoài ra kinh tế quốc doanh còn là đại diện tham gia vào sự hình thành và
mở rộng các quan hệ thị trường theo định hướng của Nhà nước. Vì vậy, chúng ta không
được phủ nhận hay coi nhẹ công cụ và lực lượng đặc biệt này.


kết luận

Trong bài viết này, em đã trình bày và phân tích sự hoạt động tồn tại của cơ chế thị
trường cũng như những tác dụng to lớn mà cơ chế thị trường đem lại. Sự phát triển nên
cơ chế thị trường là điều tất yếu của cơ chế tự cung tự cấp. Nước ta đang từng bước
chuyển mình lên cơ chế thị trường và ngày càng hoàn thiện dần nhưng đất nước ta với
nền kinh tế còn phân tán, cán bộ quản lý chưa có kinh nghiệm, cơ sở hạ tầng còn non
kém nên việc chỉ đạo của Nhà nước đóng một vai trò quan trọng, là kim chỉ nam cho việc
phát triển đúng hướng mà chúng ta đã đề ra sự can thiệp đó phải được thể hiện bằng hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối kinh tế và
mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Ngay từ đầu
nhà nước phải xác định đúng mục tiêu của mình, có như vậy mới có được sự thành công
trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý.
Bước sang thiên niên kỷ mới, nhiều thời cơ mới vận hội mới cho đất nước. Nhà
nước ta một lần nữa khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đưa đất nước tiến lên CNXH, thực hiện
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.

Tài liệu tham khảo

1. Tạp chí phát triển kinh tế số 98-99



2. Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường – Kinh nghiệm của
các nước ASEAN
3. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế - ĐH KTQD- NXB giáo dục 1999
4. Giáo trình kinh tế chính trị (Mác-Lênin Tập II) ĐH KTQD – NXB Giáo dục 1999
5. Tài liệu tham khảo Kinh tế học của Samuelson ( Về vai trò của Chính phủ)
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII- NXB Sự thật – 1996.
7. Một số tạp chí có liên quan.


×