Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

hientoo - Lá - Bùi Thanh Hiền - Thư viện Đề thi & Kiểm tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.5 KB, 5 trang )

Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam , có giá
trị ngoại tệ xuất khẩu đứng hàng thứ tư trong các ngành kinh tế quốc dân
( sau dầu , gạo , và hàng may mặc ) trước năm 2001và đã vươn lên hàng thứ
ba vào năm 2001 . Thuỷ sản đóng vai trị quan trọng trong việc cung cấp
thực phẩm cho nhân loại . Thực phẩm thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng cao rất
cần thiết cho sự phát triển của con người. Không những thế nó cịn là một
ngành kinh tế tạo cơng ăn việc làm cho nhiều cộng đồng dân cư đặc biệt ở
những vùng nông thôn và ven biển . ở Việt Nam , nghề khai thác và nuôi
trồng thuỷ sản cung cấp công ăn việc làm thường xuyên cho khoảng 1,1
triệu người , tương ứng với 2,9 % lực lượng lao động có cơng ăn việc làm .
Thuỷ sản cũng có những đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng
kinh tế nói chung của nhiều nước . Khơng những là nguồn thực phẩm , thuỷ
sản cịn là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận dân cư làm
nghề khai thác , nuôi trồng , chế biến và tiêu thụ cũng như các ngành dịch vụ
cho nghề cá như : Cảng , bến , đóng sửa tàu thuyền , sản xuất nước đá , cung
cấp dầu nhớt, cung cấp các thiết bị nuôi , cung cấp bao bì ... và sản xuất
hàng tiêu dùng cho ngư dân . Theo ước tính có tới 150 triệu người trên thế
giới sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào ngành thuỷ sản . Đồ trang
sức được làm từ ngọc trai rất được ưa truộng trên thế giới với giá trị cũng rất
cao . Thậm chí từ những con ốc nhỏ người ta cũng có thể làm ra những món
hàng độc đáo ngộ nghĩnh thu hút sự quan tâm của mọi người . Thuỷ sản là
ngành xuất khẩu mạnh của Việt Nam . Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản hàng
năm đã mang về cho ngân sách nhà nước một khoản ngoại tệ lớn , rất quan
trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước . Các sản phẩm được xuất
khẩu ra nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí
của Việt Nam nói chung và ngành thuỷ sản Việt Nam nói riêng trên trường
quốc tế . Với những vai trị hết sức to lớn như trên và những thuận lợi , tiềm
năng vô cùng dồi dào của Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên và con người ,
phát triển nghề nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản phục vụ tiêu dùng
trong nước và hoạt động xuất khẩu là một trong những mục tiêu sống còn
của nền kinh tế Việt Nam


Vùng phát triển ngư nghiệp mạnh nhất ở Việt Nam là vùng ven biển từ Bình
Thuận trở vào ; trong đó mạnh hơn cả là các tỉnh : Bà Rịa – Vũng Tàu , Tiền
Giang , Bến Tre , Trà Vinh, Kiên Giang , Bạc Liêu , Cà Mau , với giá trị
hàng năm trên 20 tỷ đồng Những vùng đánh cá biển mạnh nhất là Kiên
Giang (trên 100 nghìn tấn / năm), sau đó là Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình
Thuận (50 – 60 nghìn tấn/ năm). Nghề nuôi trồng và đánh bắt cá nước ngọt
mạnh nhất là Bạc Liêu , Sóc Trăng thành phố Hồ Chí Minh ( từ 10 – 20
nghìn tấn / năm ) . Riêng tơm thì tập trung cao nhất ở Cà Mau với sản lượng
hàng năm trên 25 nghìn tấn, chiếm 70 % sản lượng tôm cả nước . Các vùng


trọng điểm ngư nghiệp là Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận, Vũng Tàu ,
Kiên Giang , Cà Mau .
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngư nghiệp Nhóm các yếu
tố tự nhiên Nước ta có 3,2 nghìn km bờ biển với gần 1 triệu km2 thềm lục
địa bao gồm mặt nước trong vũng , vịnh ven bờ , hơn 3 nghìn đảo và quần
đảo . Nhiệt độ vùng biển tương đối ấm và ổn định quanh năm , thích hợp cho
sự sinh trưởng của các lồi thuỷ sản nước mặn nước , nước lợ . Biển Việt
Nam có trữ lượng cá lớn và đặc sản biển phong phú : Hàng chục vạn ha diện
tích mặt nước trên đất liền ( bao gồm 39 vạn ha hồ lớn ; 54 vạn ha vùng
ngập nước ; 5,7 vạn ha ao và 44 vạn km sông và kênh rạch ) có thể ni
tơm , cá và các thuỷ sản khác . Do đó , ngành ni thuỷ sản của nước ta , kể
cả thuỷ sản nước mặn , nước lợ , nước ngọt có thể trở thành ngành sản xuất
chính . Vùng biển nước ta có nhiều lồi cá và đặc sản q với hàng nghìn
lồi cá biển , 3 trăm lồi cua biển , 40 lồi tơm he , gần 3 trăm loài trai ốc
hến , 1 trăm lồi tơm , trên 3 trăm lồi rong biển . Trong đó nhiều loại đặc
sản có giá trị xuất khẩu cao, được ưa chuộng trên thị trường quốc tế . Tổng
trữ lượng cá trong vùng biển Việt Nam khoảng 3 triệu tấn , trong đó gần 1,6
triệu tấn cá đáy và 1,4 triệu tấn cá nổi . Với trữ lượng cá trên , có thể đánh
bắt từ 1,3 đến 1,4 triệu tấn / năm . Nhóm yếu tố kinh tế – xã hội Tiềm năng

của biển nước ta lớn , nhưng hiện nay sản lượng cá đánh bắt và các đặc sản
biển , sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản nước lợ , nước ngọt cịn
thấp . Có nhiều nguyên nhân hạn chế khai thác tiềm năng của biển trong đó
nguyên nhân quan trọng là chưa đầu tư đúng mức lao động , nhất là lao động
kỹ thuật cho nghề đánh bắt nuôi trồng thuỷ và hải sản . Cơ sở vật chất kỹ
thuật của ngành đã và đang được chú trọng phát triển . Ngồi các xí nghiệp
đánh bắt cá quốc doanh trung ương , hàng loạt cơ sở đánh bắt cá quốc doanh
địa phương , các hợp tác xã nghề cá ... đã và đang được xây dựng ở các
huyện , tỉnh ven biển , đi đôi với những cơ sở hậu cần , chế biến tạo điều
kiện cho ngành đánh bắt và chế biến cá biển nước ta phát triển mạnh mẽ.
Đồng thời , nhiều cơ sở quốc doanh và tập thể , tư nhân đánh bắt cá nuôi
trồng và chế biến thuỷ sản nước mặn , nước lợ , nước ngọt được phát triển
mở rộng ở nhiều vùng, khu vực trên phạm vi cả nước ... Tuy nhiên , đội tàu
đánh cá hiện nay với 32 nghìn chiếc hầu hết là tàu thuyền nhỏ, chưa được
trang bị hiện đại để đánh bắt ở những vùng biển sâu và biển xa ... đã hạn chế
sự phát triển của ngành. Nuôi trồng thuỷ sản Nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam
rất phong phú và đa dạng. Theo điều tra sơ bộ của ngành thuỷ sản , riêng cá
nước ngọt có 544 lồi , cá nước lợ , nước mặn cũng có 186 lồi. Trong đó
nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao , được ưa chuộng trên thị trường
quốc tế . Phương thức nuôi trồng cũng rất đa dạng tạo cho sản phẩm thêm
phong phú . Nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua phát triển với tốc độ khá


nhanh , thu được hiệu quả kinh tế – xã hội đáng kể , từng bước góp phần
thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển , nông thơn và góp phần giải
quyết việc làm , tăng thu nhập và xố đói , giảm nghèo . Theo điều tra và
quy hoạch của bộ thuỷ sản , đến tháng 8 năm 2001 tổng diện tích ni trồng
ở nước ta là 1,19 triệu ha . Nuôi thuỷ sản nước ngọt Ni cá ao hồ nhỏ : Là
một nghề có tính truyền thống gắn với nhà nông , từ phong trào ao cá Bác
Hồ đến phong trào VAC. Xu hướng diện tích ao đang bị thu hẹp do nhu cầu

phát triển xây dựng nhà ở . Đối tượng cá nuôi khá ổn định : trắm , chép , trôi
, mè , trê lai , rô phi ... nguồn giống sinh sản hồn tồn chủ động. Năng suất
cá ni đạt bình qn trên 3 tấn/ha. Nghề nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ đã phát
triển mạnh. Đặc biệt , tôm càng xanh là một mũi nhọn để xuất khẩu và tiêu
thụ trong nước , nhất là ở các thành phố , trung tâm dịch vụ góp phần điều
chỉnh cơ cấu canh tác ở các vùng ruộng trũng ,tăng thu nhập và giá trị xuất
khẩu . Vấn đề khó khăn là sự phụ thuộc của năng suất vào điều kiện thời
tiết , khí hậu cộng với vấn đề trình độ của người ni chưa được giải quyết
thích hợp đã dẫn đến sự khơng ổn định của sản lượng nuôi . Các giống đã
đưa vào nuôi là : lươn , ếch , ba ba , cá sấu ... Tuy nhiên , do thiếu quy hoạch
, không chủ động nguồn giống , thị trường không ổn định ... đã hạn chế khả
năng phát triển . Nuôi cá mặt nước lớn : Đối tượng nuôi thả chủ yếu là cá mè
, ngồi ra cịn thả ghép cá trơi , cá rơ phi ... Do khó khăn trong khâu bảo vệ
và giá cá mè thấp nên lượng cá thả vào hồ ni có xu hướng giảm . Hình
thức nuôi chủ yếu hiện nay là lồng bè kết hợp khai thác cá trên sơng , trên hồ
. Hình thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước , tạo ra việc làm tăng
thu nhập , góp phần ổn định đời sống của những người sống trên sông , ven
hồ . ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung , đối tượng nuôi chủ yếu là trắm cỏ ,
qui mô lồng nuôi khoảng 12 – 24 m3 , năng suất 400 – 600 kg / lồng . ở các
tỉnh phía Nam , đối tượng ni chủ yếu là cá ba sa , cá lóc, cá bống tượng ,
cá he . Quy mô lồng , bè nuôi lớn , trung bình khoảng 100 – 150 m3 / bè ,
năng suất bình qn 15 – 20 tấn / bè . Ni cá ruộng trũng : Tổng diện tích
ruộng trũng có thể đưa vào ni cá theo mơ hình cá - lúa khoảng 580.000
ha . Năm 1998 , diện tích ni cá khoảng 154.200 ha . Năng suất và hiệu quả
nuôi cá ruộng trũng khá lớn . Đây là một hướng cho việc chuyển đổi cơ cấu
trong nông nghiệp , tăng thu nhập cho người lao động , xố đói giảm nghèo
ở nơng thơn .
Lựa chọn thức ăn
Cần lựa chọn thức ăn theo tập tính cũng như giai đoạn phát triển của cá.
Hiện nay, trên thị trường các dạng thức ăn cơng nghiệp cho cá thường bao gồm

thức ăn nổi hay dạng viên nén (dạng chìm). Các dạng thức ăn này đều đảm bảo


nhu cầu dinh dưỡng của cá, song một số lồi cá ưa thức ăn nổi, số khác lại thích
thức ăn chìm. Cho ăn bằng thức ăn viên nổi có nhiều  ưu điểm quan sát được
lượng thức ăn cá sử dụng, từ đó điều chỉnh cho phù hợp.
Chọn kích cỡ  thức ăn phù hợp kích cỡ  cá: Thức ăn có nhiều dạng, như  dạng
mảnh cho cá nhỏ, thức ăn viên cho cá ni thương phẩm với kích cỡ  viên khác
nhau.   Thơng   thường,   đường   kính   viên   thức   ăn   bằng   20   –   30%   đường   kính
miệng cá. Viên q nhỏ sẽ dẫn đến tiêu tốn nhiều năng lượng cho việc tìm kiếm
thức ăn đến khi cá thoả mãn nhu cầu, viên q lớn sẽ khó ăn.
Khẩu phần và số lần cho ăn
Điều này phụ thuộc kích cỡ  cá. Cá bột và cá hương thường có nhu cầu protein
và số lần cho ăn nhiều hơn so cá lớn.  Ở giai đoạn cá nhỏ, nhu cầu năng lượng
lớn, cá gần như có nhu cầu ăn liên tục nên phải cho ăn hằng giờ. Khi cá lớn lên,
hàm lượng protein và số  lần cho ăn có thể  giảm so giai đoạn cá nhỏ. Thơng
thường, thay vì chuyển sang thức ăn có hàm lượng protein thấp hơn, người ni
thường giảm số lần cho ăn trong ngày khi cá lớn.
Ngồi ra, lượng thức ăn và số lần cho ăn cịn tùy theo lồi, hay các yếu tố nhiệt
độ, mùa vụ, mơi trường, mật độ  thả… Ví dụ, mùa đơng, nhiệt độ  nước ao thấp,
số  lần cho ăn và lượng thức ăn mỗi lần giảm đi đối với các lồi cá nước  ấm;
khơng nên cho cá ăn khi nồng độ  ơxy hịa tan trong nước thấp, thời điểm sáng
sớm.
Một trong những lưu ý quan trọng khi cho cá ăn là khơng cho ăn q nhu cầu,
bởi sẽ  gây lãng phí, ơ nhiễm mơi trường, làm giảm lượng ơxy hịa tan trong
nước, tăng nhu cầu ơxy sinh hóa và vi khuẩn có hại. Chỉ  nên cho cá ăn lượng
thức ăn mà cá có thể ăn hết trong 25 phút.
Bảo quản thức ăn
Thức ăn cần được bảo quản nơi khơ ráo, tránh ánh nắng trực tiếp. Trong điều
kiến độ ẩm cao, thức ăn dễ bị mốc; do vậy q trình vận chuyển, bảo quản tránh

làm vỡ hay rách bao bì.
Thời gian bảo quản thức ăn khơng q 2 tháng. Tốt nhất, chỉ  nên mua, phân
phối và sử  dụng thức ăn trong 1 tháng. Tn thủ  ngun tắc “nhập trước, xuất


trước”, nghĩa là bao thức ăn mua về trước phải dùng trước, bao hỏng hoặc quá
hạn phải bỏ.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng thức ăn, người ni tính tốn hệ số
chuyển hóa thức ăn (FCR): FCR= Tổng lượng thức ăn đã cho cá ăn /
Tổng lượng cá tăng lên đến lúc thu hoạch. Thông thường, FCR khoảng
1,5 – 2 là thức ăn tốt cho hầu hết đối tượng nuôi.



×