Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.57 KB, 3 trang )
Sơ đồ giao tiếp
Người nói muốn trao gửi thông điệp cho người nghe. Sự trao đổi đó gọi là mối
liên hệ thuận. Trong đời sống, khi chỉ có mối liên hệ thuận như vậy người ta gọi là
đơn thoại. Tuy nhiên, những giao thoại như vậy rất đặc biệt vì người nói không thể
tạo nên những chiến lược giao tiếp riêng cho mình do không nhận biết được và vì
thế mà không thể xử lí được các phản ứng từ phía người nghe. Chính vì thế, mối
liên hệ giữa người nghe và người nói là rất quan trọng. Trong lí thuyết thông tin
gọi là liên hệ nghịch, đó chính là phản ứng của người nghe trước những thông tin,
thông điệp mà người nói muốn chia sẻ. Chỉ trên một ý nghĩa như vậy thì câu cách
ngôn “im lặng là đồng ý” mới có ý nghĩa Cả người nói và người nghe sử dụng
mối liên hệ này để điều chỉnh toạ độ giao tiếp, nhu cầu giao tiếp và mục đích giao
tiếp cho thích hợp. Khi chỉ có mối liên hệ giữa A đến B mà không có mối liên hệ
theo chiều ngược lại, hoặc không có nhu cầu của A về một phản ứng nào đó từ B,
thì người ta gọi đó là độc thoại.
Hai yếu tố trên chưa đủ để thiết lập một sơ đồ giao tiếp theo lí thuyết hiện đại.
Từ năm 1937, Ch. Morris đã đề nghị thêm 3 nhân tố sau đây.
Thứ nhất là mã ngôn ngữ. Trong cấu trúc luận, nó đơn giản chỉ là một ngôn
ngữ thuần nhất mà cả cộng đồng nói năng sử dụng. Quan điểm đó đã cũ và thiếu
chính xác. Giao tiếp học hiện đại chứng minh rằng mỗi người sở hữu và sở đắc
một vùng ngôn ngữ nhất định trong tài sản chung về ngôn ngữ của cộng đồng. Bởi
vì, mỗi cá nhân do được giáo dục khác nhau, do các đặc điểm gia đình khác nhau,
những hoàn cảnh địa phương và địa lí khác nhau nên điều kiện học tiếng mẹ đẻ
cũng như sử dụng nó và nhu cầu dùng nó là khác nhau.
Suy cho cùng, giao tiếp của con người là sự tìm hiểu và thống nhất mã mà thôi.
Song vì kinh nghiệm xử lí ngôn ngữ rất khác nhau nên "bi kịch" của loài người
chính là ở chỗ không bao giờ các cá thể cùng một cộng đồng có thể thống nhất
hoàn toàn mã giao tiếp với nhau. Vì vậy, nghệ thuật của giao tiếp là nghệ thuật
biết dừng lại ở sự thống nhất về mã, về mức độ mã.
Thứ hai là chu cảnh giao tiếp. Người nói và người nghe khi thực hiện một cuộc
giao tiếp luôn phải tìm những biện pháp rất cụ thể về không gian và thời gian
nhằm tăng thêm hiệu lực của giao tiếp, của các thông điệp. Ngoài hai nhân tố