Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận Triết học Mác Lênin - YTXH thường lạc hậu hơn TTXH và vận dụng trong phòng chống những biểu hiện tiêu cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.83 KB, 20 trang )

MỤC LỤC


2
LỜI NĨI ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất
nhanh, phức tạp, khó lường. Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ
đến các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội. Các vấn đề an ninh phi truyền thống,
biến đổi khí hậu, ơ nhiễm mơi trường, dịch bệnh - đại dịch COVID-19 còn kéo dài,
vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp gây khó khăn, ảnh hưởng lớn đến phát triển
kinh tế- xã hội và đời sống của nhân dân các nước trên thế giới.
Các quốc gia, dân tộc tiến bộ trên thế giới đều đang hướng dến xây dựng
cho mình một xã hội dân chủ, tự do, cơng bằng, văn minh thơng qua các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học – công nghệ,...
Tuy các chuyên gia đã nhận định rằng sẽ rất khó để có những cuộc cách mạnh điển
hình như đã từng diễn ra trong lịch sử, thì xã hội hiện đại sẽ phát triển theo hướng
thay đổi từng bộ phần, từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Xã hội sau sẽ
phát triển tiến bộ hơn xã hội trước.
Đối với Việt Nam ta, sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất
nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng
hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Nước Việt Nam ta hiện nay đang
trong quá trình phát triển theo định hướng XHCN với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng, bảo vệ đất
nước, bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn cịn tồn tại, có mặt ngay
gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất
là trên Biển Đơng.; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; các thế lực thù địch không ngừng các thủ
đoạn chống phá trên mọi lĩnh vực.
Để đối phó với những nguy cơ trên, bên cạnh đó tận dụng được nguồn lực
và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, nhiều giải pháp cần


được đặt ra và thực hiện đồng bộ. Để đạt được mục tiêu này, cùng với việc thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế, chúng ta đồng thời phải xây dựng và phát triển
đời sống tinh thần của xã hội mà ý thức xã hội là một bộ phận cấu thành quan
trọng. Để đạt được những tiến bộ trong xã hội, Triết học Mác-Lênin đã chỉ ra trước
hết phải thay đổi về lực lượng sản xuất rồi đến quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến
thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội, tức cơ sở hạ tầng, và do đó, thay đổi các yếu tố của
kiến trúc thượng tầng xã hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội. Đối với Việt Nam,


3
trong bối cảnh các thế lực thù địch không ngừng tìm mọi cách chống phá, bên cạnh
việc phát triển kinh tế đất nước theo định hướng XHCN cũng cần kết hợp song
song với việc phòng, chống những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hiện tượng suy thoái kể trên
phản ảnh một mặt đi xuống của ý thức xã hội mà trong đó ý thức chính trị là một
bộ phận quan trọng cấu thành nên nó. Đây cũng là lý do tôi chọn chủ đề: “Lý luận
triết học Mác-Lênin về tính thường lạc hậu của ý thức xã hội và vận dụng
trong phịng, chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay.”


4
CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM Ý THỨC XÃ HỘI
Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trọng là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực
tinh thần, đó cũng chính là hai lĩnh vực: tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vì vậy,
cùng với việc phân tích các quy luật của sự phát triển xã hội, các quan hệ kinh tế
và các quan hệ chính trị - xã hội thì khơng thể khơng chú trọng đến mặt quan trọng
khác của đời sống xã hội là ý thức xã hội. Trong triết học Mác – Lênin khái niệm ý
thức xã hội gắn liền với khái niệm tồn tại xã hội. Vì vậy ta khơng thể phân tích ý
thức xã hội mà không đề cập đến tồn tại xã hội.

1. Tồn tại xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con
người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người
với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ
bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội lồi người
và tồn tại khơng phụ thuộc vào ý thức xã hội.
b. Các thành phần chính của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật
chất, điều kiện tự nhiên – môi trường địa lý, dân số và mật độ dân số… Trong đó
phương thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất
khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc… cũng có vai trị nhất định đối với tồn tại xã
hội.
2. Khái niệm ý thức xã hội
a. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập
quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận… Nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách khác,
ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là mặt tinh thần
trong quá trình lịch sử.
b. Cấu trúc của ý thức xã hội
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể
tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác nhau. Theo nội dung
và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác


5
nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức
thẩm mỹ, triết học…

Ý thức xã hội gồm các hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình
thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. Tuỳ
theo góc độ xem xét, chúng ta có thể chia ý thức xã hội thành các dạng khác nhau.
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý
luận.
Ý thức xã hội thơng thường là tồn bộ những tri thức, những quan niệm…
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái qt
hố thành lý luận. Trong ý thức xã hội thơng thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất
quan trọng.
Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều
mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý
thức xã hội thơng thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những tri
thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình
thành các lý thuyết xã hội.
Ý thức lý luận (lý luận khoa học) là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ
thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng
những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính
hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống
những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tơn giáo), kết
quả của sự khái qt hố những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được tạo thành
một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định
và được truyền bá trong xã hội. Khi nghiên cứu về hệ tư tưởng cần có sự phân biệt
hệ tư tưởng khoa học và và hệ tư tưởng không khoa học. Nếu hệ tư tưởng không
khoa học phản ánh các quan hệ vật chất một cách hư ảo, sai lầm hoặc xuyên tạc thì
ngược lại, hệ tư tưởng khoa học phản ánh các quan hệ, các quá trình và hiện tượng
xã hội một cách khách quan, chính xác. Cả hai loại hệ tư tưởng này đều có ảnh
hưởng đối với sự phát triển của khoa học. Là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư
tưởng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự

nhiên đã cho thấy tác động rất quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là vai trò của tư
tưởng triết học trong q trình khái qt hóa tài liệu. Chẳng hạn, hệ tư tưởng không


6
khoa học, nhất là triết học, đã từng kìm hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên
suốt hằng chục thế kỷ thời Trung cổ ở châu Âu.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư
tưởng xã hội thì quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng.
Trong tâm lý xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống, v.v. nảy sinh từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên sự
phản ảnh này không phải là sự phản ánh thụ động, bất động trong gương mà là một
quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích cực của
con người đối với hiện thực.
Ý thức xã hội khác với ý thức cá nhân ở chỗ, ý thức cá nhân là thế giới tinh
thần của từng cá nhân cụ thể, riêng lẻ, được quy định bởi những đặc điểm của cuộc
sống riêng cùng với điều kiện giáo dục và điều kiện hình thành nhân cách riêng của
cá nhân đó. Ý thức của từng cá nhân là khơng giống nhau nên khơng phải lúc nào
nó cũng đại diện cho quan điểm chung, phổ biến của một cộng đồng người, của
một tập đoàn xã hội hay của một thời đại xã hội nhất định nào đó.
Trong hai yếu tố cấu thành nên ý thức xã hội, tâm lý xã hội thể hiện trong ý
thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm tồn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói
quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v.v. của một người, một
tập đoàn người, một bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành dưới tác
động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.
Tâm lý xã hội có đặc điểm là phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội, nhưng chỉ ở
trình độ phản ánh thấp và tự phát những điều kiện sinh hoạt hằng ngày của con
người cho nên nó chỉ ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên bề mặt của tồn tại
xã hội. Do vậy, khác với ý thức lý luận, tâm lý xã hội nên không vạch ra được đầy
đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội, chưa đủ khả năng để vạch ra

những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của các sự vật
và các q trình xã hội. Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội
mang tính chất kinh nghiệm, yếu tố trí tuệ đan xen với yếu tố tình cảm chưa thể
hiện về mặt lý luận. Mặc dù vậy, cần coi trọng vai trò của tâm lý xã hội trong việc
phát triển ý thức xã hội, nhất là việc sớm nắm bắt những dư luận xã hội thể hiện
trạng thái tâm lý và nhu cầu xã hội đa dạng của nhân dân trong những hoàn cảnh
và điều kiện khác nhau.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, ở trình độ
cao hơn, hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh
hoạt vật chất của mình. Hay nói cách khác, hệ tư tưởng là sự nhận thức lý luận về


7
tồn tại xã hội, là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội
để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, nghệ thuật, tơn giáo,v.v... Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản
chất của mọi mối quan hệ xã hội và được hình thành một cách tự giác, nghĩa là nó
được hình thành tự giác bởi các nhà khoa học và được truyền bá trong xã hội.
Mặc dù tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý
thức xã hội nhưng chúng có mối liên hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Cả hai đều có
nguồn gốc từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong đó, tâm lý xã
hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự
tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định (tâm lý, tình cảm, giai
cấp là điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng của giai
cấp). Nếu tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận
một hệ tư tưởng nào đó; có thể giảm bớt sự xơ cứng hoặc công thức cứng nhắc của
hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng hàm
lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.
Ngược lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội sẽ làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm
lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo hướng

đúng đắn, lành mạnh. Hệ tư tưởng phản khoa học sẽ kích thích những yếu tố tiêu
cực của tâm lý xã hội phát triển.
Hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không là sự biểu hiện
trực tiếp của tâm lý xã hội. Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ
đương thời thì đồng thời cũng thừa kế các học thuyết xã hội, những tư tưởng và
quan điểm đã tồn tại trước đó. Thí dụ, tư tưởng tôn giáo ở thời kỳ phong kiến thể
hiện lợi ích của giai cấp phong kiến nhưng lại được bắt nguồn trực tiếp từ những tư
tưởng duy tâm thời cổ đại và những tư tưởng đạo Cơ đốc thời kỳ đầu công nguyên.
Sự ra đời phát triển của tư tưởng triết học Mác, cũng không trực tiếp ra đời từ tâm
lý xã hội của giai cấp cơng nhân lúc đó, mà là sự khái quát lý luận từ kinh nghiệm
của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội lúc
đó, khái quát các tri thức của nhân loại, kế thừa trực tiếp từ các học thuyết triết
học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học ở thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX.
Rõ ràng, hệ tư tưởng xã hội liên kết hữu cơ với tâm lý xã hội, nhưng nó
khơng đơn giản là sự cơ đặc tâm lý xã hội.
3. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
a. Đời sống tinh thần xã hội xuất phát từ hiện thực vật chất


8
Công lao to lớn của Các Mác và Ph. Ăng ghen là phát triển chủ nghĩa duy
vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết
khoa học về sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của xã
hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng khơng thể tìm nguồn
gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là khơng thể tìm trong đầu
óc con người mà phải tìm trong chính hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời
đại nào đó cũng sẽ khơng giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức thời đại đó.
Các Mác viết: Khơng thể nhân định được về một thời đại đảo lộn như thế, căn cứ

vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn
của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội
và những quan hệ sản xuất ấy.
Chủ nghĩa duy vật đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Nghĩa là tồn tại
xã hội quyết định nội dung phản ánh của ý thức xã hội: nó quyết định ý thức xã hội
ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn điệu trong nội dung phản ánh. Tồn tại xã hội
cũng quyết định tính chất cách mạng hay phản ánh cách mạng, đối kháng hay
không đối kháng trong ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương
thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về
chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuậtsớm hay muộn cũng
thay đổi theo. Cho nên, chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những
quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó chính là do những điều kiện
khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Điều đó chứng tỏ: “Khơng phải ý thức
của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ”1.
Thực tế trong lịch sử đã chứng minh điều đó. Trong xã hội ngun thuỷ, do
trình độ của lực lượng sản xuất cịn hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung,
làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý thức bóc lột.
Nhưng khi chế độ cơng xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân
chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản:
tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân xuất hiện. Nhưng các nhà tư
tưởng của giai cấp nô lệ vẫn ca ngợi chế độ nô lệ, xem đó là sự tồn tại hợp tự
nhiên, cần thiết. Nhưng khi chế độ chiếm hữu nô lệ suy tàn thì trong xã hội cũng
1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Tồn tập, t.13, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.15


9

xuất hiện tư tưởng xem chế độ chiếm hữu nô lệ là trái với chính nghĩa cần xố bỏ.
Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần
lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là
trái công lý, không phù hợp với lý tính con người phải được thay thế bằng xã hội
cơng bằng, bình đẳng, bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, đã xuất
hiện các trào lưu tư tưởng XHCN không tưởng phê phán những mâu thuẫn trong
lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế
độ tư bản. Nhưng ở thời điểm đó các nhà XHCN khơng tưởng khơng thể giải thích
được bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và không hiểu những
điều kiện khách quan dẫn tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Điều đó chỉ rõ xã hội
tư bản chủ nghĩa mới ra đời đã mang trong mình nó những mâu thuẫn, song những
điều kiện xây dựng xã hội mới thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa chưa đến độ chín
muồi.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Triết học Mác Lênin với quan điểm về nguồn gốc ý thức không chỉ dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội mà còn chỉ ra
rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không phải một cách đơn giản, trực
tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng quan
niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những
quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ khi nào xét đến cùng thì mới thấy rõ những mối
quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
Triết học Mác Lênin địi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự
phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội.
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại
xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ
thể qua các điểm sau:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta khơng thể
tìm nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại
xã hội. Do đó, phải căn cứ vào tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.

- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản
xuất đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
- Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại
xã hội


10
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã
hội không phải lúc nào cũng diễn ra trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều
khâu trung gian mới thấy được, bởi vì ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện dưới các hình thức sau:
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn
ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mác
Lênin không xem ý thức xã hội như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại cịn
nhấn mạnh sự tác động tích cực trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội,
nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện ở chỗ:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
- Trong một số điều kiện, hoàn cảnh, ý thức xã hội vẫn có thể vượt trước
tồn tại xã hội
CHƯƠNG II. Ý THỨC XÃ HỘI THƯỜNG LẠC HẬU HƠN SO VỚI TỒN TẠI
XÃ HỘI

1. Nguyên nhân y thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Tính thường lạc hậu của ý thức xã hội nên hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội
thường ra đời sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã
hội đã mất đi. Những nguyên nhân dẫn đến ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so
với tồn tại xã hội gồm:
Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là các phản ánh
tồn tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa

sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp của
những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ rất
nhanh mà ý thức xã hội có thể khơng phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội ln gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đồn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của ý
thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội: trong truyền thống tập
quán, thói quen V.I Lênin cho rằng sức mạnh tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ
là sức mạnh ghê gớm nhất.


11
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguyên nhân sâu xa trong
xã hội cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động,
tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân. Những ý thức lạc hậu, tiêu cực khơng mất đi một
cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng
cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá
hoại của các thế lực thù địch về mặt tư tưởng. Đồng thời kiên trì xố bỏ những tàn
dư ý thức cũ kết hợp với phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.
2. Ý thức xã hội vẫn có thể vượt trước tồn tại xã hội
Sẽ thật phiếm diện nếu ta chỉ đơn thuần nhận định ý thức xã hội lúc nào
cũng lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Trong một số điều kiện, hoàn cảnh, ý thức xã hội
vẫn có thể vượt trước tồn tại xã hội, bao gồm:
- Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý

thức xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra
được những dự báo, tiên đốn về sự phát triển của xã hội, nên tồn tại xã hội có thể
đi trước một bước so với tồn tại xã hội.
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có
một trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với
trình độ kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển,
chẳng hạn dân tộc Đức ở thế kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn
hóa tinh thần cực kỳ phát triển…
Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật
đặc thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó khơng hồn tồn lệ
thuộc vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên một
hình thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức cịn lại (làm cho toàn
bộ xã hội phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tơn giáo chi
phối xã hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).
Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên
tồn tại xã hội theo hai xu hướng là:
Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại
xã hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý
thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của
tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này
thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động ý thức xã


12
hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong phong trào
của quần chúng nhân dân.
Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để phổ biến tri thức khoa học và lý
luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng thời để đấu tranh loại bỏ những
tàn dư của văn háo, tư tưởng cũ, phản động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng

đến quần chúng nhân dân).
3. Ý nghĩa của phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng
của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải
được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất đẻ thay
đổi ý thức xã hội. Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong
tồn tại xa hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần
của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những
điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn
tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng
văn hóa, phát huy vai trị tác dộng tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với
quá trình phát triển kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặt khác phải tránh tái phạm sai làm chủ quan duy ý chí trong việc xây
dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng
được đời sống tinh thần của xã hội – XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức
sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương
thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.


13
CHƯƠNG III. VẬN DỤNG YTXH VÀO TRONG CƠNG TÁC PHỊNG CHỐNG
SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG, NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ
DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HĨA”

Trong cơng cuộc phát triển đất nước, cùng với bối cảnh tồn cầu hóa,
những tư tưởng, văn hóa của các nước trên thế giới có điều kiện giao thoa với
nhau, tạo nên sự đa dạng trong văn hóa, phong tục tập quán, đặc biệt ở nước ta.

Thế nhưng, sự giao thoa và hội nhập nói trên cũng đem đến những tác hại nhất
định cho xã hội. Bên cạnh đó, những mặt trái của cơ chế thị trường cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng, lối sống của nhiều người. Nguy hại nhất là một bộ
phận không nhỏ, cán bộ, Đảng viên quá đề cao lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, dẫn
đến suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đó là một trong những nguy cơ dẫn
đến làm suy giảm sức chiến đấu của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh
đạo của Đảng. Vì vậy, để đấu tranh chống lại những biểu hiện suy thoái, việc đề
cao xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa (XHCN) là vấn đề bức thiết. Xây dựng ý
thức XHCN ở Việt Nam phải là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Về bản chất, ta phải xây dựng ý thức
XHCN mà trong đó tồn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội
mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục
vụ công cuộc xây dựng xã hội mới.
1. Khái niệm ý thức xã hội XHCN.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định trụ cột phát
triển đất nước gồm: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc
phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên2. Để phát triển kinh tế - xã hội thực sự
trở thành trung tâm, trước hết phải xây dựng, hình thành cho nhân dân, nhất là thế
hệ thanh niên hiểu, biết, thực hành và thích ứng với nền kinh tế thị trường song
hành với mục tiêu xây dựng xã hội XHCN - ý thức hệ kinh tế thị trường XHCN.
Theo các nghiên cứu về chính trị học, xã hội học và tâm lý học thì ý thức
hệ là các ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung. Thông qua ý thức hệ, các
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST,
H.2021, tr.33-34.
2



14
thành viên trong nhóm người, cộng đồng người hoặc tồn xã hội diễn dịch lịch sử
và những sự kiện xã hội đương thời định hình thành các kỳ vọng, khát khao hướng
tới tương lai, có ảnh hưởng lớn đến hành động xã hội.
Theo Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học thì ý thức XHCN là tổng hịa
các hình thái ý thức xã hội khác nhau đặc trưng cho đời sống tinh thần của xã hội
XHCN trong quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của xã hội ấy. Ý thức
XHCN chứa đựng không những các quan điểm và tư tưởng lý luận đã được hệ
thống hóa của giai cấp cơng nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản, mà
còn chứa đựng những quan điểm và các khái niệm của quần chúng, những tình
cảm và tâm tư của họ nẩy sinh trong cuộc sống hàng ngày, tức là tâm lý xã hội.
Như vậy, ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là ý
tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung nhất về quan điểm, tư tưởng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, được
biểu hiện thông qua nhận thức, tư duy và hành động của con người; là quan niệm,
khái niệm, tâm tư, tình cảm của người Việt Nam ở hiện tại kết hợp với những tàn
dư lịch sử làm điều kiện nẩy sinh những khát khao, kỳ vọng và mục tiêu hướng tới
tương lai. Chính vì vậy, khi xem xét ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam là xem xét những nét chung nhất trong nhận thức, tư duy và
hành động của con người Việt Nam cùng chịu tác động các điều kiện tự nhiên và
xã hội; xem xét các yếu tố lịch sử còn tàn dư trong ý thức chung và những tác động
làm ảnh hưởng đến tư duy, nhận thức và hành động ở hiện tại.
2. Vai trò quan trọng của ý thức XHCN trong phịng, chống các biểu hiện suy
thối

Những giá trị truyền thống được con người Việt Nam được vun đắp, gìn
giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến khi gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, rèn luyện
và phát triển thành những lớp người có lý tưởng cách mạng, vững vàng, ý thức rõ

về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong sáng, trung với nước, hiếu
với dân, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư; biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng; biết tập hợp và tổ chức quần
chúng tham gia lao động sản xuất, chiến đấu và học tập một cách có hiệu quả.
Chính ý thức hệ chung đó đã thơi thúc con người Việt Nam chiến đấu, lao động,
công tác, học tập một cách tự giác, hăng hái, say mê.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, những giá trị truyền thống được
con người Việt Nam được vun đắp, gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến


15
khi gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục và Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, rèn luyện và phát triển thành những lớp người có lý
tưởng cách mạng, vững vàng, ý thức rõ về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hộicó
đạo đức trong sáng, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và
nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; biết đặt lợi ích chung lên trên lợi
ích riêng; biết tập hợp và tổ chức quần chúng tham gia lao động sản xuất, chiến
đấu và học tập một cách có hiệu quả. Chính ý thức hệ chung đó đã thơi thúc con
người Việt Nam chiến đấu, lao động, công tác, học tập một cách tự giác, hăng hái,
say mê.
Khơng dừng ở góc độ hệ tư tưởng, trong tâm lý xã hội cũng cần có những
biểu hiện phải khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Thói quen và
truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến
bộ”. Hiện nay, chúng ta cần phải khắc phục những biểu hiện tâm lý vốn được coi là
hậu quả của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp - tâm lý thụ động, trông chờ,
ỷ lại, xin cho, đối phó; khắc phục tâm lý của nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ
lâu dài của lịch sử và hiện vẫn còn tồn tại là tâm lý lạc hậu, kinh nghiệm chủ nghĩa,
tuỳ tiện, đố kỵ, coi thường pháp luật và cả những tâm lý vốn khá phổ biến ở những
nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, như tâm lý trọng nam khinh nữ, tâm lý
gia trưởng... Đặc biệt, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những tâm lý này

cịn có nhiều biểu hiện, biến tướng và gây hậu quả nặng nề, biến họ thành những
kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, v.v..
3. Xây dựng ý thức XHCN ở Việt Nam
a. Yêu cầu trong việc xây dựng ý thức XHCN ở Việt Nam
Ý thức XHCN là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó khơng hình
thành một cách tự phát trong lịng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây
dựng, truyền bá thành ý thức chung và là động lực của con người trong xã hội mới.
Vì vậy, cần xây dựng ý thức XHCN đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con
đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại, tri
thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học
và cơng nghệ... Đó là u cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta hiện
nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng
cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và


16
phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý
thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phịng chống tham
nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát
vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây
dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu
nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phịng
chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức XHCN, cần chống những biểu
hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với
các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân

tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống
nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm khơng theo đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ
đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch; không kịp thời và kiên quyết
phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái... Tại hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ chín, khố IX, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Thường xuyên
chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư
tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh
không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá nhân, những biểu hiện cơ hội, thực dụng,
bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch, chủ động đối phó
với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân
quyền chống phá cách mạng nước ta".
b. Những giải pháp xây dựng ý thức XHCN
Xây dựng ý thức XHCN là q trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả,
chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá
mới, con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại
của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức XHCN luôn
bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì
vậy, xây dựng ý thức XHCN phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của
xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời gian
qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong công tác tư tưởng, nhưng cũng có


17
nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế
mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức XHCN cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết quả
xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hố và con người
ln có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh hưởng qua

lại lẫn nhau.
Thứ hai, khơng ngừng hồn thiện ý thức XHCN theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới. Về mặt lý
luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện
kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN... Mặt
khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị truyền
thống của dân tộc. Đó khơng chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, mà
còn phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngồi. Q
trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện
nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị tinh thần truyền
thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh thần cần cù, sáng
tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống, đưa đất nước thốt khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn kết dân tộc phải được thể hiện thành tinh
thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng,
xố bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo vì một nước Việt Nam
độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục, phát huy vai trò của các phương tiện thơng tin đại chúng trong q trình tun
truyền, giáo dục ý thức XHCN. Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực
tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trị của báo
chí, của các phương tiện thông tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng
tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong
công tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác -Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội
dung, phương pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác
-Lênin hiệu quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính

chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Xây dựng ý thức


18
XHCN là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc phục những tư tưởng,
tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của các thế lực phản động,
kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình thành ý thức XHCN. Đây
là q trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi tính tự giác cao. Vì vậy, thơng qua chủ
trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những biểu hiện của khuynh hướng
coi nhẹ vai trị của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục
những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hố, văn nghệ,
nhất là những biểu hiện xa rời tơn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém...
Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các hình thức dân chủ để nhân dân
có thể tham gia vào q trình xây dựng ý thức XHCN một cách chủ động và trực
tiếp.
Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững theo mơ hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN, một mặt, cần tiếp tục phát huy, cải tạo nhận thức, tư
duy về kinh tế cho thanh niên, mặt khác, cần tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên
hình thành ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tính kế thừa,
tính mới và bản chất con đường đi lên XHCN ở Việt Nam. Thanh niên ngày nay đã
và đang kế thừa cách tư duy, suy luận, cách làm và ứng xử của nhiều mơ hình kinh
tế trước đây để lại như: kinh tế tự cung, tự cấp; kinh tế kế hoạch hóa tập trung;
kinh tế hàng hóa; kinh tế tri thức;… Mỗi mơ hình kinh tế đều có những giá trị nhất
định trong từng giai đoạn cụ thể, đều để lại những dấu ấn không thể nào phai nhạt
cho xã hội cũng như cho từng người dân.


19
LIÊN HỆ BẢN THÂN



20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác- Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2007.
2. C.Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội,
1995.
... tự bổ sung nhé



×