1
z
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG………………
LUẬN VĂN
Đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển du lịch tỉnh Cà Mau
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa đã tạo ra rất nhiều điều kiện
thuận lợi cho việc giao lưu, hợp tác, phát triển về mọi mặt, mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội như văn hóa, giáo dục…, đặc biệt là kinh tế.
Ngày nay kinh tế phát triển đã đưa con người lên một tầm cao mới. Con
người giờ đây không chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp, mà còn biết hưởng thụ những thú
vui trong cuộc sống. Vì thế trên phạm vi toàn thế giới, du lịch đã trở thành một nhu
cầu không thể thiếu trong cuộc sống kinh tế xã hội và phát triển với tốc độ ngày
càng nhanh.
Cùng với sự phát triển của du lịch thế giới và khu vực, du lịch Việt Nam
cũng đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Thị trường du lịch Việt Nam ngày
càng khẳng định lợi thế, tiềm năng to lớn, đáp ứng nhu cầu của du khách trong khu
vực và thế giới. Vì thế, Việt Nam được xem là điểm đến an toàn và thân thiện,
nhiều khu du lịch được hình thành, hệ thống khách sạn, nhà hàng và dịch vụ trong
cả nước phát triển mạnh. Trong đó phải kể đến du lịch của tỉnh Cà Mau.
Cà Mau là vùng đất tận cùng cực Nam của Tổ quốc, vùng đất mà các bậc tiền
nhân đã khai hoang, mở cõi trên mãnh đất phù sa. Chính vùng đất đã sản sinh ra nét
văn hóa đặc trưng Nam bộ nói chung và của Cà Mau nói riêng. Là vùng đất mà nhà
thơ Xuân Diệu đã từng ví như :
“Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau”
Mũi Cà Mau_ nơi tận cùng của phương Nam luôn thao thức mời gọi những
bước chân lữ hành.
Là vùng sinh thái bán đảo, mũi Cà Mau là vùng ngập mặn vừa là thềm lục
địa nhô ra biển Đông. Đất rồng mở cõi! Được ngã mình trên bãi cát vàng ấy, để tận
hưởng những phút giây thần tiên, để thì thầm những câu chuyện kỳ thú thiên nhiên
về những ngày lễ hội mà không phải nơi nào cũng có được. Đó là ngày hội “Ba
3
khía” vào tháng tám hàng năm, lễ hội vía bà Thiên Hậu là một trong những ngày
hội quan trọng của người Hoa ở Cà Mau.
Vẫn còn đó một thế giới động vật hoang dã và kỳ thú ở rừng U Minh. Vẫn
còn đó nguyên vẹn một Đầm Thị Tường tựa như một bảo tàng sống về nét cư trú
đặc trưng của lịch sử người Việt nơi này. Cà Mau hôm nay đã là một thành phố cuối
trời của Tổ quốc Việt Nam. Chưa phải là một thành phố giàu có. Nhưng chắc chắn
là một thành phố “đất lành chim đậu”. Vì ngay giữa lòng thành phố hiện hữu một
vườn chim tự nhiên với hàng vạn con cùng sống hài hòa với con người, cùng ca
vang bài ca về cảnh quan môi trường độc đáo và hiếm có.
Ngoài ra Cà Mau còn là nơi giao thoa các nền văn hóa, có nền văn hóa phong
phú của cả ba dân tộc anh em là Kinh, Hoa, Khmer. Mỗi dân tộc có một bản sắc văn
hóa riêng cùng với phong tục tập quán của mình đã tạo nên cho tỉnh một nét văn
hóa đặc sắc so với các tỉnh khác trong khu vực.
Đặc biệt ở Cà Mau còn có nét văn hóa ẩm thực đặc trưng rất phong phú và
đa dạng, gồm nhiều đặc sản như: Mắm Lóc_ lẩu mắm (U Minh), Ba khía Rạch
Gốc_Sò huyết Bãi Bồi (Ngọc Hiển), Hàu tái mù tạt (Trần Văn Thời), Bánh Xèo (Cà
Mau)…, đây cũng là một trong những yếu tố thu hút du khách phương xa đến với
tỉnh. Đến với Cà Mau chúng ta còn bắt gặp những làng nghề truyền thống như: dệt
chiếu, dệt thảm, hay đan lát, hay hầm than…, đây cũng là nét văn hóa thu hút du
khách và đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu và học hỏi của du khách.
Và hiện nay Cà Mau cũng như các tỉnh trong khu vực đang trên đà hội nhập
vào nền kinh tế chung của cả nước, tỉnh đã xác định du lịch là một ngành kinh tế
quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh và không ngừng đẩy mạnh khai thác tiềm
năng vốn có của địa phương để phát triển du lịch một cách bền vững, tỉnh đang từng
bước khẳng định mình, đang tận dụng cơ hội hiện có để bước vào hội nhập và cũng
không ngừng tổ chức, xúc tiến và luôn tạo điều kiện thuận lợi với những chính sách
ưu đãi nhằm kêu gọi sự đầu tư trong nước và ngoài nước. Đây là một nơi rất có tiềm
năng và là một điểm hẹn hấp dẫn của các nhà đầu tư trong tương lai.
Vâng, thiên nhiên đã ưu đãi, ban tặng cho Cà Mau những điều kiện thuận lợi
về tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn cộng với một nền văn hóa nghệ thuật
phong phú, đa dạng và kinh tế trên đà phát triển…, đây là nguồn tài nguyên, là thế
4
mạnh cho Cà Mau để phát triển du lịch. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua vấn
đề phát triển du lịch ở Cà Mau còn nhiều bỏ ngõ, hạn hẹp, sản phẩm du lịch còn khá
đơn điệu, nhiều tiềm lực phát triển du lịch vẫn còn ngủ yên, các điểm du lịch chưa
được đầu tư khai thác đúng mức để phục vụ du khách, chưa thực sự tương xứng với
tiềm năng, gây lãng phí và cạn kiệt dần nguồn tài nguyên.
Để góp phần biến tiềm năng năng thành sức hút, thành nhũng sản phẩm du
lịch đặc sắc, chất lượng cao cần có một giải pháp, một chính sách, bên cạnh đó cũng
cần phân tích được ưu điểm và nhược điểm trong chính sách phát triển du lịch hiện
nay của tỉnh. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển sản phẩm du lịch tỉnh Cà Mau”, để làm khóa luận tốt nghiệp.
Do lượng kiến thức và kinh nghiệm có giới hạn, nên đề tài khóa luận tốt
nghiệp này khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế, em rất mong được quý Thầy cô,
bạn bè đóng góp ý kiến quý báo của mình để đề tài này được hoàn thiện hơn.
2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là: “Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển du
lịch tỉnh Cà Mau ”, bao gồm 3 chương cơ bản, có nội dung khá đầy đủ, phong phú,
bao quát về cơ sở lý luận và tình hình thực tế hoạt động du lịch của tỉnh Cà Mau với
bố cục cụ thể như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về sản phẩm du lịch.
Chương II: Đánh giá tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh Cà
Mau.
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển sản phẩm du lịch tỉnh Cà
Mau.
3. Phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu
Đề tài “ Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển sản phẩm du lịch tỉnh
Cà Mau” chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong địa giới hành chính tỉnh Cà Mau và
có kết hợp với một số sản phẩm du lịch khác trong vùng nhằm đưa ra những định
hướng và giải pháp để sản phẩm du lịch Cà Mau ngày càng phát triển hơn.
Việc nghiên cứu phát triển sản phẩm du lịch của tỉnh không nằm ngoài mục
đích đẩy mạnh việc khai thác tiềm năng vốn có tỉnh, không ngừng chú trọng khai
thác những điểm, loại hình du lịch mà tỉnh có lợi thế so sánh trong vùng Đồng Bằng
5
Sông Cửu Long, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của dịch vụ du lịch, tăng tỷ trọng
doanh thu du lịch trong cơ cấu GDP góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tạo công ăn việc làm nhằm cải thiện cuộc sống cho cư dân địa phương.
Trong tương lai tỉnh đang tập trung phát triển các điểm du lịch có nhiều tiềm
năng như Khu du lịch Vườn quốc gia Đất Mũi, bãi biển Khai Long, các cụm đảo,
hòn như: Đá Bạc, Hòn Khoai…, để thuận lợi cho tỉnh tìm các đối tác liên doanh,
liên kết để thực hiện các dự án nâng cấp các khu du lịch nêu trên, đồng thời tiếp tục
đầu tư hoàn thiện các công trình xây dựng khách sạn, nhà hàng, điện, viễn thông,
cung cấp nước sạch…Có sự hợp tác như thế thì chất lượng sản phẩm du lịch mới
không ngừng được nâng cao, tạo cho tỉnh một sự phát triển du lịch một cách bền
vững và lâu dài.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Thu thập thông tin từ các điểm du lịch, các tư liệu từ cơ quan ban ngành có
liên quan, tham khảo các công trình nghiên cứu trước đó, thông tin từ các phương
tiện thông tin đại chúng (báo, tạp chí, ti vi…), vận dụng những thông tin đã có, xử
lý và vận dụng những thông tin cần thiết vào đề tài đang nghiên cứu để có được cái
nhìn khái quát và rõ ràng vấn đề hơn.
4.2. Phương pháp bản đồ
Việc sử dụng phương pháp này trong quá trình nghiên cứu sẽ giúp chúng ta
có được một tầm nhìn bao quát hơn về sự phân bố các sản phẩm du lịch và là cơ sở
để phân tích các qui luật hoạt động của hệ thống lãnh thổ du lịch.
4.3. Phương pháp khảo sát thực địa
Sử dụng phương pháp này thường đạt hiệu quả cao trong quá trình thu thập,
xử lý thông tin, tư liệu do cần phải đi khảo sát thực tế, xin số liệu, chụp những hình
ảnh minh họa cho đề tài nghiên cứu.
4.4. Phương pháp so sánh
So sánh tiềm năng, hiện trạng của sản phẩm và hoạt động du lịch trong quá
khứ và hiện tại để thấy được những mặt mạnh nào cần phát huy và những điểm yếu
nào cần phải khắc phục.
6
4.5. Phương pháp phân tích xu thế
Dựa vào qui luật hoạt động trong quá khứ, hiện tại để suy ra hướng phát triển
về tương lai cho tỉnh Cà Mau.
Phương pháp này được sử dụng để đưa ra những dự báo về các chỉ tiêu phát
triển và có thể được mô hình hóa bằng phương pháp toán học.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẢN PHẨM DU
LỊCH
1.1. Các khái niệm cơ bản
7
1.1.1. Khái niệm về sản phẩm du lịch
1.1.1.1. Khái niệm về sản phẩm
1.1.1.2. Khái niệm về sản phẩm du lịch
Có rất nhiều khái niệm về sản phẩm du lịch.
Theo định nghĩa của WTO thì “Sản phẩm du lịch là một tổng thể phức tạp
gồm nhiều thành phần không đồng nhất cấu tạo thành tài nguyên tự nhiên, tài
nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ
cán bộ du lịch”. Sản phẩm du lịch bao gồm cả sản phẩm hữu hình và vô hình.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì sản phẩm du lịch bao gồm hai mặt
chính:
Xuất phát từ đích tới du lịch, sản phẩm du lịch là chỉ toàn bộ dịch vụ
của nhà kinh doanh du lịch dựa vào vật thu hút du lịch khởi sự du lịch, cung cấp cho
du khách để thỏa mãn nhu cầu hoạt động du lịch.
Xuất phát từ gốc độ người du lịch là chỉ quá trình du lịch một lần do
du khách bỏ thời gian, chi phí và sức lực nhất định để đổi được.
Theo tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa, tiến sĩ sử học, ủy viên đoàn chủ tịch
hội người Việt Nam tại Pháp: “Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu dùng đáp
ứng cho nhu cầu du khách, nó bao gồm di chuyển, ăn, ở và giải trí”.
Di chuyển tức là nhu cầu cần thiết sử dụng mọi phương tiện giao thông
như máy bay, xe lửa, tàu biển…và các phương tiện vận chuyển truyền thống như
lạc đà, xe ngựa…
Lưu trú liên quan đến các loại hình và cơ sở lưu trú.
Nghệ thuật ăn uống đáp ứng nhu cầu nuôi dưỡng con người và cũng là
một nghệ thuật tạo nên nét văn hóa ẩm thực cho các quốc gia và vùng.
Sản phẩm du lịch đặc trưng là các tuyến du lịch.
Từ các định nghĩa trên có thể đưa ra một định nghĩa bao quát và ngắn gọn
hơn:
“Sản phẩm du lịch là sự kết hợp các hàng hóa và dịch vụ du lịch trên cơ
sở khai thác hợp lý các tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách
trong hoạt động du lịch”.
Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Hàng hóa và dịch vụ du lịch
8
1.1.2. Phân loại sản phẩm du lịch
1.1.2.1. Sản phẩm tham quan
Bao gồm các điểm du lịch thỏa mãn nhu cầu tham quan, tìm hiểu, thưởng
ngoạn của du khách, đó là cảnh quan thiên nhiên, các di sản văn hóa, các di tích lịch
sử mang đậm nét văn hóa của các quốc gia, các vùng miền.
1.1.2.2. Sản phẩm vận chuyển
Bao gồm các phương tiện vận chuyển như xe, tàu, máy bay…, phục vụ cho
nhu cầu đi đến các điểm du lịch của du khách.
1.1.2.3. Sản phẩm lưu trú
Là một mạng lưới cơ sở lưu trú phục vụ cho nhu cầu của du khách như khách
sạn, làng du lịch, nhà nghỉ…
1.1.2.4. Sản phẩm ăn uống
Là các món ăn đặc sản của địa phương nơi mà du khách đến du lịch hoặc các
nhà hàng, cơ sở ăn uống phục vụ nhu cầu thưởng thức của du khách.
1.1.2.5. Sản phẩm vui chơi giải trí
Là những sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu khiển, thư giãn của khách trong
quá trình lưu trú.
1.1.2.6. Sản phẩm mua sắm
Bất cứ du khách nào khi đi du lịch đều muốn mua những sản phẩm đặc trưng
của vùng để về làm quà lưu niệm hoặc những du khách nữ thường rất thích
shopping. Chính vì vậy sản phẩm mua sắm chính là sản phẩm đáp ứng nhu cầu này
của du khách.
1.1.3. Mô hình sản phẩm du lịch
1.1.3.1. Mô hình 4S
SEA : Biển.
SUN : Mặt trời, tắm nắng.
SHOP : Cửa hàng lưu niệm, mua sắm.
SEX (or SAND): Hấp dẫn, khêu gợi giới tính (hay bãi cát tắm nắng).
SEA: Biển.
9
Biển là yếu tố quan trọng và có lực hấp dẫn lớn đối với du khách, thõa mãn
cho nhu cầu tắm biển, tắm nắng của du khách đặc biệt là vào mùa hè.
Việt Nam với chiều dài bờ biển là 3260 km, có đến 125 bãi biển có thể quy
hoạch xây dựng cho du lịch biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp, nỗi tiếng như Trà Cổ,
Bãi Cháy (Quãng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò
(Nghệ An), Thuận An, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha
Trang (Khánh Hòa), Vũng Tàu, Long Hải (Vũng Tàu), Hà Tiên (Kiên Giang).
Ngoài ra trên vùng biển Việt Nam còn có gần 4000 hòn đảo lớn nhỏ với cảnh
quan hấp dẫn và là tiềm năng to lớn cho phát triển du lịch biển.
SUN: Mặt trời, tắm nắng.
Đối với du khách, mặt trời là một yếu tố quan trọng cho họ không chỉ để tắm
biển mà còn tắm nắng. Đặc biệt là những du khách ở những miền hàn đới, ôn đới.
Việt Nam ở vùng nhiệt đới khí hậu nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, có nhiệt
độ cao, nhiệt độ trung bình năm từ 22
0
C đến 27
0
C, nhiệt bức xạ trung bình năm đạt
100 Kcal/cm2. Với điều kiện khí hậu ôn hòa, mặt trời chiếu sáng hầu như quanh
năm tạo lực hấp dẫn đối với du khách quốc tế Châu Âu, Châu Mỹ đến du lịch.
SHOP: Cửa hàng lưu niệm, mua sắm.
Mua sắm là nhu cầu thực tế của du khách trong quá trình đi du lịch.
Ở Việt Nam có các mặt hàng lưu niệm đặc sắc và gây ấn tượng đối với du
khách như sản phẩm sơn mài, điêu khắc gỗ, đá, nón lá, thổ cẩm…
SEX (or SAND): Hấp dẫn, khiêu gợi (hay bãi cát tắm nắng).
Chữ Sex trong du lịch thể hiện tính khêu gợi, hấp dẫn và thỏa mãn nhu cầu
sinh lý.
Trong hoạt động du lịch của một số quốc gia đã xuất hiện Sex Tour, đặc biệt
ở Thái Lan, ngành du lịch tình dục phát triển khá mạnh.
Quan điểm của các nhà lãnh đạo Tổ chức du lịch thế giới và các quốc gia
không đồng tình và không ủng hộ hoạt động tình dục, đã và đang áp dụng nhiều
biện pháp để giảm dần và đi đến xóa bỏ hoạt động tình dục.
Yếu tố Sand (bãi cát) tác động tích cực đến hoạt động du lịch, những bãi cát
mịn màng tạo đều kiện thu hút du khách.
1.1.4.2. Mô hình 3H
10
HERITARE: Di sản văn hóa, di sản truyền thống dân tộc.
Di sản văn hóa, di tích lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật, nghệ thuật là những yếu
tố đặc sắc, quan trọng của tài nguyên nhân văn của thế giới và mỗi quốc gia, nó tạo
ra lực hấp dẫn rất lớn đối với du khách nội địa và quốc tế.
HOSPITALITY: Lòng hiếu khách, khách sạn, nhà hàng.
Lòng hiếu khách, những dịch vụ trong khách sạn, nhà hàng là những yếu tố
rất quan trọng để cấu thành sản phẩm du lịch.
Lòng hiếu khách thể hiện qua sự giao tiếp giữa du khách với cán bộ, nhân
viên du lịch, giữa du khách với cư dân địa phương sẽ làm tăng thêm sự hài lòng và
góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Khách sạn, nhà hàng đáp ứng nhu cầu lưu trú và ăn uống của du khách trong
quá trình đi du lịch.
HONESTY: Tính lương thiện.
Kinh doanh du lịch muốn thành công thì phải lấy chữ “ Tín” làm đầu, phải
tạo được sự tin cậy vững chắc của du khách vào chất lượng của sản phẩm du lịch để
họ sẵn sàng bỏ tiền ra mua sản phẩm du lịch mà họ tin tưởng.
1.1.3.3. Mô hình 6S
Là mô hình kết hợp sản phẩm du lịch của cộng hòa Pháp bao gồm 6 chữ S:
Sanitaire : Vệ sinh.
Santé : Sức khỏe.
Sécuríté : An ninh trật tự xã hội.
Serenníté : Thanh thản.
Service : Phục vụ, phong cách phục vụ.
Satisfaction: Sự thõa mãn (hài lòng).
SANITAIRE: Vệ sinh.
Vệ sinh là một tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng trong chất lượng của sản phẩm
du lịch, nó bao gồm vệ sinh thực phẩm, vệ sinh ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh môi
trường trong không khí, nước, vệ sinh đường phố và các điểm tham quan…
SANTÉ: Sức khỏe.
Du khách đi du lịch với mục đích phục hồi sức khỏe sau thời gian lao động
căng thẳng và mệt nhọc. Các loại hình du lịch góp phần phục hồi và làm tăng sức
11
khỏe cho du khách bao gồm du lịch thể thao, chữa bệnh và nghỉ dưỡng, ngoài ra
trong các khách sạn còn có dịch vụ như tắm hơi, Massage.
SÉCURITÉ: An ninh trật tự xã hội.
Để đảm bảo cho du lịch phát triển thì một trong những yếu tố quan trọng là
sự ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội của nơi du lịch. Chế độ chính trị và an
ninh ổn định đảm bảo sự an toàn tính mạng, tinh thần của cải vật chất cho du khách.
SERENITÉ: Sự thanh thản.
Đại đa số du khách đi du lịch với mục đích hưởng thụ, đi tìm sự thanh thản,
thư giãn cho tinh thần. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ
làm cho con người rơi vào tình trạng căng thẳng, cuộc sống trong môi trường đô thị
với sự ô nhiễm gia tăng như khói bụi, tiếng ồn khiến cho con người muốn tìm về
với thiên nhiên, rừng núi, đồng quê để tận hưởng những giây phút yên bình, để thư
giãn, để nghỉ ngơi.
SERVICE: Dịch vụ, phong cách phục vụ.
Sản phẩm du lịch chủ yếu là những dịch vụ như dịch vụ khách sạn, dịch vụ
thủ tục đăng ký, xuất nhập cảnh, dịch vụ vận chuyển. Chính vì vậy mà trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và phong cách phục vụ của cán bộ, nhân viên du lịch phải
giỏi, tốt mới đáp ứng ở mức độ cao nhu cầu của du khách.
SATISFACTION: Sự thỏa mãn.
Mục đích chính của chuyến đi du lịch là để thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải
trí của con người. Do vậy sự thỏa mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả các
dịch vụ, vào phong cách phục vụ của những người làm trong ngành du lịch.
1.1.4. Đặc tính của sản phẩm du lịch
1.1.4.1. Tính tổng hợp
Hoạt động du lịch là hoạt động tổng hợp, bao gồm nhiều mặt như hoạt động
xã hội, kinh tế, văn hóa chính trị, giao lưu quốc tế. Bên cạnh đó nhu cầu của du
khách hết sức phong phú, đa dạng, vừa bao gồm nhu cầu đời sống vật chất cơ bản
vừa bao gồm nhu cầu cuộc sống tinh thần ở cấp cao hơn.
Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch thể hiện ở sự kết hợp các loại dịch vụ
mà cơ sở kinh doanh cung ứng nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách, nó bao gồm
12
sản phẩm vật chất và phi vật chất. Mặt khác tính tổng hợp của sản phẩm du lịch thể
hiện ở sản xuất liên quan tới rất nhiều ngành nghề và nhiều bộ phận.
Do tính tổng hợp của sản phẩm du lịch mà các quốc gia, các vùng du lịch
phải tiến hành quy hoạch du lịch toàn diện.
1.1.4.2. Tính không dự trữ
Là một loại sản phẩm dịch vụ, sản phẩm du lịch có tính chất “không thể dự
trữ” như sản phẩm vật chất khác nói chung, có nghĩa là không thể tồn kho.
Sau khi du khách mua sản phẩm du lịch, cơ sở kinh doanh du lịch liền trao
quyền sử dụng liên quan trong thời gian qui định, nếu sản phẩm du lịch chưa thể
bán ra kịp thời thì không thực hiện được giá trị của nó, thiệt hại gây nên không bù
đắp được.
Đặc tính không thể dự trữ của sản phẩm du lịch cho thấy trong việc sản xuất
du lịch và thực hiện giá trị phải lấy việc mua thực tế của du khách làm tiền đề,
“Khách hàng là thượng đế”.
1.1.4.3. Tính không dịch chuyển
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra song song cùng một thời gian và
không gian sản xuất ra chúng, vì vậy du khách chỉ có thể tiêu thụ sản phẩm nơi sản
xuất ra sản phẩm du lịch chứ không thể như sản phẩm vật chất khác nói chung có
thể chuyển ra khỏi nơi sản xuất và đem đi tiêu thụ ở nơi khác. Trong quá trình trao
đổi sản phẩm du lịch không xảy ra việc chuyển quyền sở hữu sản phẩm, du khách
chỉ có quyền sử dụng tạm thời đối với sản phẩm du lịch trong thời gian và địa điểm
nhất định chứ không có quyền sở hữu sản phẩm.
Do tính không thể dịch chuyển của sản phẩm du lịch, việc lưu thông sản
phẩm du lịch chỉ có thể biểu hiện qua việc thông tin sản phẩm. Vì vậy công tác
tuyên truyền, quảng cáo và tiếp thị du lịch đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
đưa sản phẩm du lịch đến với du khách.
1.1.4.4. Tính dễ dao động
Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch chịu ảnh hưởng và hạn chế
của nhiều nhân tố, mặc dù chỉ thiếu một điều kiện cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ
quá trình trao đổi sản phẩm du lịch, ảnh hưởng đến việc thực hiện giá trị sản phẩm
du lịch.
13
Do tính dễ dao động của sản phẩm du lịch về sản xuất và tiêu thụ, nơi tới du
lịch phải tuân thủ quy luật phát triển theo tỷ lệ, làm tốt công tác qui hoạch du lịch,
thiết lập và xử lý đúng đắn quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận, giữa các yếu tố.
1.1.4.5. Tính thời vụ
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch có tính thời vụ, nguyên nhân là do sản phẩm
du lịch khá ổn định trong thời gian nhất định, trong khi đó nhu cầu thường xuyên
thay đổi làm cho quan hệ cung_ cầu cũng thay đổi, có thể cung vượt cầu và cũng có
thể cầu vượt cung, gây khó khăn lớn trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du
lịch.
1.2. Các khái niệm khác
1.2.1.Khái niệm về du lịch
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về du lịch:
Theo liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of
Officail Travel Orangizition- IUOTO): “Du lịch được hiểu là hành động du hành
đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không
phải để làm ăn tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh
sống…”
Theo I.I Pirogionic, 1985: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong
thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú
thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao
trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên, kinh tế và văn hóa”.
1.2.2. Khái niệm về du khách
Nhà kinh tế học người Anh (Ogilvie) cho rằng: “Khách du lịch là tất cả
những người thõa mãn hai điều kiện: rời khỏi nơi ở thường xuyên trong khoảng thời
gian dưới một năm và chỉ tiêu tiền tại nơi họ đến mà không kiếm tiền ở đó”.
Còn theo nhà xã hội học Cohen: “Khách du lịch là một người tự nguyện rời
khỏi nơi cư trú thường xuyên trong một khoảng thời gian nhất định, với mong muốn
được giải trí, khám phá những điều mới lạ từ những chuyến đi tương đối xa và
không thường xuyên”.
1.2.2.1. Phân loại du khách
14
1.2.2.1.1. Phân theo phạm vi lãnh thổ
Du khách quốc tế.
Du khách quốc tế là người nước ngoài hoặc cư dân Việt Nam định cư
ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch.
Du khách quốc tế là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại
Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Mục đích chuyến đi của họ là tham quan, thăm
thân nhân, tham dự hội nghị, khảo sát thị trường, đi công tác,chữa bệnh, thể thao,
hành hương, nghỉ ngơi
Du khách nội địa.
Du khách nội địa là công dân của một nước đi du lịch (dưới bất kỳ
hình thức nào) trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó.
1.2.2.1.2. Phân theo loại hình du lịch
Du khách du lịch sinh thái: được chia ra làm 3 loại cụ thể:
Khách du lịch sinh thái cảm giác mạnh: đa số là thanh niên đi du lịch
cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, tổ chức độc lập, ăn uống có tính địa phương, cơ sở lưu
trú đơn giản, thích thể thao và du lịch mạo hiểm.
Khách du lịch sinh thái an nhàn: du khách có lứa tuổi trung niên và
cao niên, đi du lịch theo nhóm, ở khách sạn hạng sang, ăn uống ở nhà hàng sang
trọng, yêu thích du lịch thiên nhiên và săn bắn.
Khách du lịch sinh thái đặc biệt: bao gồm những du khách có lứa tuổi
từ trẻ đến già, đi du lịch cá nhân, đi tour đặc biệt, thích di chuyển, thích tự nấu ăn và
thu hoạch kiến thức khoa học.
Du khách du lịch văn hóa: được phân chia thành 2 loại:
Du khách du lịch văn hóa đại trà thuộc mọi lứa tuổi, mọi thành phần
du khách.
Du khách du lịch văn hóa chuyên đề bao gồm những du khách có
trình độ hiểu biết về văn hóa, lịch sử, mỹ thuật, nghệ thuật, đi du lịch nghiên cứu.
1.2.3. Khái niệm du lịch sinh thái
Trong hội thảo về xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch sinh
thái được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 07 đến ngày 09 tháng 09 năm 1999, Tổng cục
du lịch đã đưa ra một định nghĩa thống nhất về du lịch sinh thái của Việt Nam như
15
sau: “Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản
địa gắn với giáo dục môi trường có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền
vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”.
1.2.4. Khái niệm du lịch sinh thái cộng đồng
Du lịch sinh thái cộng đồng là loại hình du lịch dựa trên sự đa dạng về điều
kiện sinh thái tự nhiên, sự phong phú của các làng nghề truyền thống và nét văn hóa
đặc sắc của các cư dân bản địa tại những điểm đến. Tham gia loại hình du lịch này
du khách được đến với cộng đồng dân cư địa phương, thực hiện những cuộc đối
thoại, tìm hiểu những nét đặc sắc trong văn hóa bản địa, tắm mình trong cuộc sống
của người dân.
Loại hình du lịch cộng đồng đã khuyến khích các cộng đồng cư dân tại nơi
khách đến tham gia váo các hoạt động du lịch và tạo thêm thu nhập, giảm nhẹ một
phần những khó khăn trong đời sống vật chất và tinh thần mà họ đang phải chịu
đựng, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
1.2.5. Khái niệm cơ sở lưu trú
Cơ sở lưu trú là những cơ sở kinh doanh về buồng_ phòng, giường và các
dịch vụ khác phục vụ du khách. Cơ sở lưu trú bao gồm: khách sạn, khu nghỉ dưỡng
cao cấp (resort), motel, làng du lịch, biệt thự, căn hộ, lều, nhà chòi, bãi cắm trại cho
thuê, tàu thuyền du lịch. Trong đó, khách sạn là cơ sở lưu trú chủ yếu.
1.2.6. Khái niệm điểm du lịch
Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch (bình thường hoặc hấp dẫn), có khả
năng phục vụ và thu hút khách.
1.2.7. Khái niệm tuyến du lịch
Tuyến du lịch là lộ trình kết nối các diểm du lịch, khu du lịch khác nhau về
chức năng nhằm đáp ứng nhu cầu đi tham quan du lịch của du khách.
1.2.8. Khái niệm tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách
mạng, các giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người… có thể
được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch của con người; là những yếu tố cơ
16
bản để hình thành sản phẩm dịch vụ du lịch, hình thành các điểm du lịch, khu du
lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du khách.
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG VÀ THỰC
TRẠNG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH CỦA
TỈNH CÀ MAU
2.1. Khái quát về tỉnh Cà Mau
2.1.1. Vị trí địa lý:
Cà Mau là tỉnh tận cùng phía Nam của nước Việt Nam có tọa độ địa lý trong
khoảng từ:
Điểm cực Nam 8
0
30’ vĩ độ Bắc (xã Viên An huyện Ngọc Hiển).
Điểm cực Bắc 9
0
33’ vĩ độ Bắc (xã Biển Bạch huyện Thới Bình).
Điểm cực Đông 105
0
24’ kinh Đông (xã Tân Thuận huyện Đầm Dơi).
Điểm cực Tây 104
0
43’ kinh Đông (thuộc xã Đất Mũi huyện Ngọc Hiển).
Với ba mặt giáp biển: phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây
giáp Vịnh Thái Lan, phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang (63km), phía Đông giáp tỉnh
Bạc Liêu (75km). Thành phố Cà Mau là tỉnh lỵ của tỉnh Cà Mau, nằm trên đường
17
quốc lộ 1A, cách Hà Nội 2085km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 370km, cách
Thành phố Cần Thơ 180km về phía Nam. Nằm ở khu vực trung tâm trong mối quan
hệ với các nước Đông Nam Á, Cà Mau có điều kiện thuận lợi trong giao lưu, hợp
tác kinh tế với các nước trong khu vực. Tỉnh cũng nằm trong hành lang kinh tế của
chương trình hợp tác tiểu vùng sông MêKông mở rộng, với trục giao thông xương
sống từ Hà Tiên (cửa khẩu Xà Xí)_ quốc lộ 63_ Cà Mau_ Năm Căn_ Đất Mũi.
2.1.2. Diện tích:
Cà Mau có tổng diện tích tự nhiên là 5.211km
2
, bằng 13,1% diện tích vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long và bằng 1,58% diện tích cả nước. Ngoài phần đất liền,
tỉnh còn có các đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Bương và Hòn Đá Bạc, diện tích
xấp xỉ 5km
2
. Hằng năm Mũi Cà Mau bồi ra biển từ 80m đến 100m; bờ biển phía
Đông từ cửa sông Gành Hào đến vùng cửa sông Rạch Gốc bị sói lở, có nơi mỗi năm
trên 20m.
Cà Mau có bờ biển dài 254km, rộng trên 71.000km
2
. Tiếp giáp với vùng biển
các nước: Malaysia, Thái Lan, Indonesia. Biển Cà Mau có vị trí nằm ở trung tâm
vùng biển các nước Đông Nam Á nên có nhiều thuận lợi giao lưu, hợp tác kinh tế
bằng đường biển, phát triển du lịch, phát triển kinh tế biển, khai thác dầu khí và
thủy hải sản…
2.1.3. Dân số:
Dân số tính đến cuối năm 2007 của tỉnh là 1.241.000 người, bằng 7% dân số
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và bằng 1,47% dân số cả nước. Có khoảng 20 dân
tộc khác nhau sinh sống trên địa bàn tỉnh, trong đó nhiều nhất là dân tộc Kinh
(chiếm 97,16%), tiếp đến là dân tộc Khmer (chiếm 1,86%), còn lại là người Hoa
(0,95%) và các dân tộc ít người khác.
Mật độ dân số trung bình của tỉnh Cà Mau là 230 người/km
2
, thấp hơn mật
độ dân số trung bình của cả nước và các tỉnh trong khu vực. Tốc độ tăng dân số
trung bình 1,6%/năm; tỷ lệ nữ giới chiếm 50,9% dân số.
2.2. Tài nguyên du lịch
2.2.1. Tài nguyên tự nhiên
2.2.1.1. Địa hình:
18
Cà Mau có địa hình thấp, bãi biển dài, tạo cho Cà Mau có đặc điểm là vùng
đất ngập nước, có độ cao so với mặt nước biển thấp, mặt đất khá bằng phẳng (cao
trung bình 0,6m-1,5m so với mặt nước biển). Phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh bị
ngập nước vào mùa mưa, trong đó vùng đất có diện tích khá lớn thường xuyên bị
ngập nước. Ngoài đất ngập mặn, đất phèn và than bùn, Cà Mau có diện tích lớn đất
bãi bồi màu mỡ, có giá trị cao đối với việc phát triển các vườn cây ăn trái phục vụ
phát triển du lịch miệt vườn. Hướng địa hình nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, từ
Đông Bắc sang Tây Nam, luôn luôn bị chi phối bởi thủy triều của biển và ngập
nước vào mùa mưa. Hệ thống sông ngòi chằng chịt với nhiều cửa sông lớn thông ra
biển như: Sông Đốc, Bồ Đề, Gành Hào.
Do địa hình Cà Mau là biển ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành đặc điểm
đất trồng, có rất nhiều đơn vị đất trồng nhiễm mặn và hình thành các hệ sinh thái
đặc thù như: Hệ sinh thái rừng ngập mặn (rừng đước), rừng ngập nước chua phèn
(rừng tràm)…Đồng thời đây cũng là thế mạnh của tỉnh so với các tỉnh khác trong
khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Địa hình tự nhiên của Cà Mau không đồng
nhất, có sự phân hóa theo thời gian. Sự khác biệt giữa các tổng thể tự nhiên tạo sự
phân hóa lãnh thổ theo không gian. Phần đất liền được chia ra thành ba cảnh quan
tự nhiên: cảnh quan trũng phèn phía Bắc tỉnh, cảnh quan trung tâm tỉnh, cảnh quan
ven biển phía Nam và Đông Nam tỉnh. Mỗi cảnh quan có đặc điểm riêng, có khả
năng riêng.
2.2.1.2. Khí hậu:
Do chịu ảnh hưởng của vị trí địa lý, Cà Mau có khí hậu mang tính đặc trưng
của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với nền nhiệt trung bình năm cao. Cùng
chung đặc điểm của miền khí hậu phía Nam, Cà Mau có khí hậu phân thành hai
mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Hàng năm, mùa mưa kéo dài khoảng 7 tháng từ tháng
5 đến tháng 11 và mùa khô kéo dài 5 tháng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ: trung bình vào khoảng 26-27
0
C, thấp hơn so với các tỉnh khác
trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trong năm, nhiệt độ cao nhất rơi vào tháng
4 với nhiệt độ trung bình là khoảng 27,6
0
C. Nhiệt độ thấp nhất rơi vào tháng 1 với
nhiệt độ trung bình là khoảng 25
0
C. Với điều kiện như vậy thì rất thuận lợi trong
19
các hoạt động nông nghiệp, cũng như các hoạt động khác như du lịch (vì không
nóng lắm cũng không lạnh lắm, nhiệt độ vừa phải).
Độ ẩm: Cà Mau có lượng mưa lớn nhất trong khu vực Đồng Bằng Sông Cửu
Long, lượng mưa các năm luôn trên 2.300mm, có năm trên 3.400mm. Độ ẩm tương
đối trung bình năm là 85,6%, những tháng vào mùa khô có độ ẩm tương đối thấp.
Gió: Chế độ gió cũng mang tính mùa rõ rệt. Gió mùa hạ từ tháng 6 đến tháng
9 là hướng gió Tây và Tây Nam chiếm 70%-80%. Gió mùa đông từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau là hướng gió đông, với tần suất trung bình 43%, còn có gió Đông
Bắc với tần suất hơn 30%, gió Đông Nam với tần suất từ 23-33%, gió Bắc hơn
20%.
2.2.1.3. Thủy, Hải văn:
Có vị trí địa lý đặc biệt với hơn 250km đường bờ biển, Cà Mau là tỉnh duy
nhất trong cả nước chịu ảnh hưởng chi phối của hai chế độ triều khác nhau: bán
nhật triều ở biển Đông và nhật triều không điều ở biển Tây. Biên độ triều biển Đông
tương đối lớn (3-3,5m vào các ngày triều cường và từ 180-220cm vào các ngày
triều kém). Triều biển Tây yếu hơn, biên độ triều lớn nhất là 1m. Tại của sông Ông
Đốc mực nước cao nhất +0,85m đến +0,95m, xuất hiện vào tháng 10 và tháng 11;
mực nước thấp nhất -0,4m đến +0,5m, xuất hiện vào tháng 4 và tháng 5.
Hệ thống sông ngòi của Cà Mau khá dày đặc. Bênh cạnh một số con sông
khá lớn như Tam Giang, Bảy Háp, Gành Hào, Sông Đốc, Sông Trẹm…Cà Mau còn
có chung đặc điểm của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là có mạng lưới sông
ngòi, kênh gạch chằng chịt và chính mạng lưới này của tỉnh có vị trí quan trọng
trong giao thông thủy và phát triển kinh tế. Thống kê cho thấy trên địa bàn tỉnh có
11 con sông lớn với chiều dài của sông dài nhất là 416km. Lớn nhất là sông Tam
Giang, dài 58km, sâu 20m và nhỏ nhất là sông Bạch Ngưu dài 30km… Cà Mau còn
có nhiều hồ đầm, các hồ nước mặn ven sông, ven biển được giữ nước để nuôi trồng
thủy hải sản. Đó là những hồ đầm nhân tạo. Đầm tư nhiên là Đầm Thị Tường, đầm
dài 7km, rộng 1-2km, ngoài việc cung cấp thủy sản, đầm còn là điểm du lịch hấp
dẫn của tỉnh.
Nước sử dụng ở Cà Mau có 3 dạng: nước mưa, nước ngầm và nước ở sông
ngòi kênh rạch. Nước mưa và nước ngầm là 2 nguồn nước sử dụng chính trong sinh
20
hoạt của người dân Cà Mau, chất lượng nước ngầm khá tốt và phong phú với bảy
tầng chứa nước. Trong đó, năm tầng từ tầng 2 đến tầng 6 là các tầng chứa nước
mềm không bị nhiễm mặn. Tổng lượng nước ngầm khai thác khoảng hơn 17 vạn
m
3
/ngày đêm bằng 1/30 trữ lượng tiềm năng. Nước sông ngòi kênh rạch là nguồn
nước dồi dào, phổ biến ở Cà Mau vì tổng chiều dài sông rạch trong tỉnh khoảng
7000km chiếm 3,02% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh.
Ở khu vực đô thị nước phục vụ cho giao thông đường thủy, điều hòa khí
hậu…Còn ở nông thôn nước chủ yếu phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản và là nguồn nước bổ sung cho nước ngầm ở Cà Mau.
2.2.1.4. Thực, động vật:
Tài nguyên rừng: Rừng Cà Mau chủ yêu là rừng rừng ngập mặn ven biển có
giá trị to lớn về mặt sinh học, kinh tế và môi trường. Diện tích rừng ngập mặn ở Cà
Mau chiếm 77% tổng diện tích rừng ngập mặn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bên
cạnh rừng ngập mặn, Cà Mau còn có một diện tích lớn khoảng hơn 35.000ha rừng
tràm phát triển trên đất phèn thuộc địa phân các huyện U Minh, Thới Bình và Trần
Văn Thời, là khu rừng có giá trị lớn, thuộc loại rừng quý của quốc gia và thế giới,
rừng tràm giữ nguồn nước ngọt, hạn chế phèn, là nơi cư trú của nhiều loài động vật
và cá đồng. Trên các đảo ngoài khơi của tỉnh còn có một diện tích xấp xỉ 600ha
rừng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo hải dương. Rừng ngập mặn và rừng tràm ở Cà
Mau có năng suất sinh học cao nhất trong tất cả các rừng tự nhiên.
Hệ thực vật: Thảm thực vật Cà Mau phong phú và đa dạng hơn so với các
tỉnh khác trong khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nó bao gồm:
Thảm rừng ngập mặn (có khoảng 101 loài, ví dụ như: đước, mắn, sú, vẹt,
cốc, bần, chà là). Cây chủ đạo là đước hay còn gọi là rừng đước.
Thảm thực vật úng phèn (rừng tràm), đại diện cho hệ sinh thái này là rừng
tràm đặc dụng Vồ Dơi_U Minh (trong 7 quần hợp thực vật úng phèn cọ quần hợp
tràm chiếm ưu thế: tràm, dớn, choại trên đất than bùn, tràm sậy trên đất sét, tràm
năng trên vùng trũng phèn nhiều).
Thảm thực vật trên vùng đất canh tác gồm nhiều quần hợp xen kẽ với cây
trồng, phân tán trong khu vực canh tác dưới dạng cỏ dại, đặc trưng cho từng loại
21
môi trường như: ráng, gạc nai, lác biển (vùng đất mặn ít và có phèn nhiễm mặn),
đồng tiền, rau má, sam (vùng đất ngọt ít phèn).
Rừng cận xích đạo trên đất feralit đỏ vàng (ở cụm đảo Hòn Khoai, có diện
tích khoảng 500ha, với 221 loài tực vật bậc cao thuộc 78 họ, 11 loài cây dược liệu
quý). Ngoài ra trong hệ thực vật của tỉnh còn có những loài cây rất quý như lan
móng rùa, lan thạch hộc, nắp nước…
Hệ động vật: Nhìn chung thành phần động vật hoang dã rất phong phú và đa
dạng chủ yếu ở hai vùng sinh thái.
Động vật hoang dã ở vùng sinh thái rừng tràm: tại rừng đặc dụng Vồ Dơi có
12 loài lưỡng cư, 32 loài bò sát, 100 loài chim (Khoang cổ, gà đãi,ó biển, quạ), 18
loài động vật có vú, hàng chục loài bướm. Chiếm số lượng khá nhiều là các loài heo
rừng, nai, nai, khỉ, dơi, sóc. Các loài bò sát ở rừng U Minh không chỉ phong phú, đa
dạng về số loài mà còn có rất nhiều loài có giá trị cả về kinh tế và nghiên cứu khoa
học. Có loài được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và thế giới như: tê tê, rùa nắp,
rùa răng, rắn hổ mang, rắn mai Động vật hoang dã ở vùng sinh thái rừng ngập mặn:
Khu rừng Năm Căn có 6 loài lưỡng cư, 18 loài bò sát, 41 loài chim, 15 loài động vật
có vú. Nhiều loài thú quý hiếm như: khỉ đuôi dài, vượn đen huyền, cà khu, heo
rừng, nai, tê tê, chồn mướp, chồn đen, cá sọc, rái cá, các loại dơi…Ngoài ra còn
phải kể đến các loài động vật dưới nước như: có 661 loài, 319 giống, 138 họ, có 33
loài tôm biển trong đó có 17 loài có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó còn có hệ sinh
thái sân chim: Thiên nhiên đã ban tặng cho Cà Mau là nơi có rất nhiều sân chim -
tập hợp nhiều loài chim khác nhau. Cà Mau có 2 sân chim ở Chà Là và Đầm Dơi,
và một vườn chim rừng ở xã Hồ Thị Kỷ…Ngoài 3 sân chim nêu trên Cà Mau còn
có thêm 16 sân, vườn chim và bãi đậu. Đặc biệt ngay giữa lòng thành phố Cà Mau
còn hình thành một sân chim tự nhiên diện tích khoảng 5ha với trên 60 loài, hội tụ
trên 20.000 con các loại như: cò, vạc, bồ nông, le le, còng cọc,vạc, bìm bịp…
2.2.2. Tài nguyên nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn ở Cà Mau gồm các di tích lịch sử - văn hóa, các
thắng cảnh địa phương, những làng nghề truyền thống và lễ hội các đồng bào dân
tộc.
2.2.2.1. Các di tích lịch sử văn hóa
22
2.2.2.1.1. Di tích lịch sử cách mạng
Lung lá nhà thể
Khu căn cứ tỉnh ủy Lung Lá Nhà Thể cách Thành phố Cà Mau khoảng hơn
18km về hướng Tây Nam, dọc theo hướng sông Cà Mau- Cái Nước, đến xã Lương
Thế Trân theo kênh Rạch Mùi vào khu di tích thêm chừng 4-8km.
Khu di tích rộng 1.800m2 nằm trên diện tích vườn dừa tại ấp Trần Độ, xã
Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, là nhà riêng của đồng chí Trần Văn Thời, là nơi
đầu tiên diễn ra các cuộc hợp của tỉnh ủy và là cơ quan đầu não kháng chiến chống
Pháp.
Đặc biệt nơi đây năm 1940 phát động khởi nghĩa Hòn Khoai vào ngày 13-
12-1940 do đồng chí Phan Ngọc Hiển lãnh đạo. Khu di tích được tôn tạo và khánh
thành vào ngày 2-3-1998. Thích hợp cho đối tượng, tham quan, nghiên cứu, học tập
và tìm hiểu.
Đình Tân Hưng
Cách Thành phố Cà Mau về phía Nam trên tuyến kinh Rạch Rập, đường đi
huyện Cái Nước, thuộc xã Lý Văn Lâm. Đình được xây năm 1907. Còn là nơi treo
cờ Đảng Cộng Sản Đông Dương lần đầu tiên tại Cà Mau (1930). Đây cũng là nơi
đóng quân của bộ Chỉ Huy Mặt trận Tân Hỷ, mặt trận chống Pháp tại Cà Mau.
Đình được Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử năm 1992, sau đó
được xây dựng thành vườn hoa và bia lưu niệm. Riêng phần ngôi nhà sẽ được sữa
trùng tu để tổ chức sinh hoạt văn hóa, kể chuyện truyền thống.
Hồng Anh Thư Quán
Khu di tích này thuộc căn cứ số 2, nhà số 41 đường Phạm Văn Ký, phường
2, Thành phố Cà Mau. Là cơ sở chi hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí
Hội tại Cà Mau (1-1928) làm niệm vụ tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin
trong mọi tầng lớp nhân dân và tạo điều kiện cho sự ra đời của các cơ sở Đảng
Cộng Sản tại Cà Mau sau này, tiền thân của chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên ở Cà
Mau, Bạc Liêu.
Hồng Anh Thư Quán đã từng là hiệu sách báo tiến bộ của chi hội đặt tại tầng
1 của ngôi nhà trên. Hiệu sách phục vụ các loại sách báo tiến bộ xuất bản ở Sài Gòn
23
trong đó có “Tư bản luận” của Mác và Angghen. Hồng Anh Thư Quán trở thành di
tích cách mạng được Nhà nước công nhận từ năm 1992.
Đảo Hòn Khoai
Đây là nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp do thầy Phan Ngọc Hiển lãnh
đạo vào ngày 13-12-1940. Khu di tích Hòn Khoai thuộc loại di tích “Lịch sử và
danh thắng” đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận di tích cấp quốc gia vào
ngày 24-11-2000.
Chứng tích tội ác Bình Hưng (Dinh Điền, Phú Mỹ)
Hay được gọi là “Biệt khu Hải Yến-Bình Hưng” chứng tích điển hình về tội
ác của Mỹ-Ngụy. Di tích tọa lạc tại ấp Thanh Đạm, xã Phú Tân, huyện Cái Nước.
Nơi đây là chứng tích ghi dấu tội ác của kẻ thù, đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin
công nhận khu di tích cấp quốc gia vào ngày 24-11-2000.
Làng Rừng
Đây là một hiện tượng xã hội độc đáo đã đi vào lịch sử giữ nước của nhân
dân ta. Trong những năm 60 của thế kỷ 20, không chịu nỗi sự đàn áp dã man của đế
quốc Mỹ và tay sai, người dân Cà Mau đã đi sâu vào trong rừng đước lập làng nổi
để sống với Cách Mạng. Mỗi làng rừng như một xã hội thu hẹp với sự phân công
lao động rõ ràng, công bằng và hợp lý. Làng Rừng được coi là tiền đề đồng khởi do
có tác dụng bảo toàn thực lực cách mạng ở Cà Mau.
Điểm cuối của đường Hồ Chí Minh trên biển
Chính là cửa Vàm Lũng thuộc ấp Dinh Hạng, xã Tân Ân huyện Ngọc Hiển.
Đây là nơi tiếp nhận hơn 3000 tấn vũ khí từ 77 chuyến tàu cập bến thành công chi
viện cho chiến trường miền Nam từ năm 1962 – 1972. Chuyến tàu đầu tiên cập bến
Vàm Lũng an toàn có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thông đường Hồ Chí Minh
trên biển, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất
nước.
2.2.2.1.2. Các điểm du lịch văn hóa
Chùa Quan Âm
Chùa do hòa thượng Tô Quang Xuân dựng vào khoảng giữa thế kỷ XIX , lúc
bấy giờ chỉ là một am nhỏ để ngài tu hành và chữa bệnh cho dân. Sau ngài về tu ở
24
chùa Kim Chương, lấy pháp hiệu là Trí Lâm. Năm 1842 vua Thiệu Trị sắc phong
hòa thượng cho ngài và sắc tứ cho chùa Quan Âm.
Kiến trúc chùa hiện nay là do hòa thượng Thiện Tường và Thiện Đức xây
vào năm 1936. Trong chùa có bia dựng “Sắc tứ Quan Âm cổ tự” và tháp hòa thượng
Trí Tâm. Chùa thuộc loại di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật có giá trị nhất ở Cà
Mau, đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận di tích cấp quốc gia vào ngày 24-
11-2000.
Chùa Cao Dân
Chùa Cao Dân tọa lạc tại ấp 7, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình Từ Thành phố
Mau vào chùa chỉ khoảng 17km. Theo đường tráng nhựa, du khách có dịp đến viếng
cảnh chùa, tìm hiểu sinh hoạt của người Khmer ven hai rạch Đường Cày.
Công ty du lịch Cà Mau cần kết hợp chặt chẽ với chùa Cao Dân, nhằm phát
huy đội ca nhạc và đội đua ghe ngo phục vụ nhu cầu thưởng thức của du khách, thu
hút bà con dân tộc tham gia vào phục vụ sinh thái.
Chùa Bà Thiên Hậu
Chùa thuộc địa phận phường 1 Thành phố Cà Mau, nhìn ra con sông Gành
Hào gió lộng, rất nỗi tiếng linh thiêng. Vào dịp tháng 3 âm lịch ngày 2-3, là ngày
vía bà Thiên Hậu, ngày này cũng là ngày sinh của bà. Lễ hội được tổ chức chu đáo,
vào dịp này bà con tề tựu về rất đông để cầu tài lộc như ý. Lễ hội chùa Bà ở Cà Mau
không chỉ ước vọng tâm linh của con người về hạnh phúc, may mắn, mà còn mang
đậm màu sắc dân gian huyền thoại. Chùa có niên đại từ năm 1903.
Chùa Bà Mã Châu
Chùa là nét văn hóa truyền thống của người Hoa, nằm trên khuôn viên
thoáng rộng, tĩnh lặng trên phố Lê Lợi-Khu thương mại sầm uất của Thành phố Cà
Mau. Trầm mặc và tỏa sáng trong sắc màu thời gian cạnh dòng sông bến nước con
đò, ngôi chùa như dòng hội tụ gợi nhớ thuở người xưa đi mở đất, tiến về phương
Nam, trong đó có cộng động người Hoa đến vùng sông nước Cà Mau sinh sống.
Chùa thờ bà Lâm Mật Nương, bà độ người đi biển vượt qua những trận phong ba,
những cơn hoạn nạn,tới chốn bình yên. Nhớ ơn bà nên người dân lập đền thờ và tôn
bà là vị Thần Biển (Thiên Hậu Thánh Mẫu). Chùa vừa kỷ niệm 128 năm ngày hình
25
thành (1882-2010), là địa chỉ văn hóa thu hút khách thập phương đến tham quan, lễ
bái.
Nhà Bác Ba Phi
Nhà Bác Ba Phi hiện ở ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn
Thời. Từ Thành phố Cà Mau đến nhà bác Ba Phi mất 2 giờ đi bằng võ lãi và chỉ mất
45 phút đi bằng phương tiện ca nô.
Tên thật bác Ba Phi là Nguyễn Long Phi (1884-3/11/1964) thọ 88 tuổi. Ông
sống ở Kinh Ngang, ông có biệt tài kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn, huyền thoại và
kịch tính. Truyện kể của bác Ba Phi đều bắt nguồn từ thiên nhiên, hoàn toàn trong
địa giới rừng U Minh với những “nhân vật” vốn là đặc sản khu rừng đặc chủng này
như lúa gạo, trăn, rắn, rùa, mật ong… và in đậm cà tính về người và đất Cà Mau.
Ngày nay, mặc dù nhà bác Ba Phi - nông dân ấy không còn nữa, nhưng cái
tên bác Ba Phi mà dân gian vẫn quen gọi thay vì Nguyễn Long Phi, vẫn còn dấu ấn
in đậm tại mảnh đất U Minh Hạ.
2.2.2.2. Các lễ hội
Cà Mau là vùng đất trẻ mới được khai phá cuối thế kỷ XVII, dân số được
hình thành muộn hơn,chủ yếu là do di cư ở khắp các miền đất nước. Vì vậy các
truyền thống văn hóa lễ hội nơi đây có sự hài hòa văn hóa các văn tộc khác. Ngoài
tết cổ truyền của người Việt; Hội Phật Đản… còn có một số lễ hội mang tính chất
liên vùng như lễ hội CholchNam Thmay, lễ Đôn Ta, lễ Cầu An (cúng Kỳ Yên), lễ
cúng trăng (lễ đút cớm dẹp), lễ hội Nghinh Ông, hội đua ghe ngo, ngày hội cá
Đường vào tháng 4, ngày hội Ba Khía vào tháng 8 hằng năm…Lễ hội vía bà Thiên
Hậu là một trong những lễ hội quan trọng của người Hoa ở nơi đây.
Có thể nói, lễ hội là dịp và là nơi phản ánh trung thực nhất đời sống tâm linh
của con người nói chung và người Việt Nam nói riêng. Đến với lễ hội của người
Việt Nam nói chung và người Cà Mau nói riêng, du khách sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn
về cuộc sống và con người nơi đây.
Lễ hội Nghinh Ông – Sông Đốc
Hằng năm cứ vào dịp tháng 2 âm lịch, vùng biển Sông Đốc (huyện Trần Văn
Thời) lại sôi động với lễ hội Nghinh Ông.