Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận:Phân tích cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường. Biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong cùng một ngành doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.62 KB, 18 trang )


Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


1

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI


Phân tích cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường. Biện
pháp để nâng cao sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong cùng một ngành




















Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


2






Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực
hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó
có qui luật cạnh tranh. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình
phát triển kinh tế nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối
mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó
là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu kém.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên của
ASEAN, APEC, AFTA, WTO ) thì nước ta cần có một nền kinh tế với sức cạnh
tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt được mục đích trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020. Muốn như vậy chúng ta cần phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát huy các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta
cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó là
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế nhưng nó không
phải là vấn đề quan trọng. Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh
tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới
nền kinh tế nước ta cũng đã áp dụng qui luật này và đã đạt được một số thành tựu:
Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển ổn định…
những lợi ích ấy chưa phải là lớn lao nhưng cũng đã giúp chúng ta định hướng cho
chính sách phát triển kinh tế.
Vậy cạnh tranh là gì? Các hình thức cạnh tranh như thế nào? Thế nào là cạnh
tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường? Cần thực hiện những
biện pháp gì để nâng cao sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong cùng một ngành?
Để giải đáp những vấn đề này trước hết chúng ta tìm hiểu khái niệm về cạnh tranh.


Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


3

Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh
vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao. Theo nhà
kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị phần.
Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá
cả có thể giảm đi.
Như vậy ta có thể hiểu cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua, sự đấu tranh gay
gắt giữa những người sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ nhằm giành giật
những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ để thu lợi nhuận cao nhất.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao gồm
các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường các
nhà sản xuất, người tiêu dùng, những người hoạt động buôn bán kinh doanh, quan

hệ với nhau thông qua hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá. Như vậy thực chất thị
trường là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu thông
hàng hoá và mối quan hệ về kinh tế giữa người với người.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá. Kinh tế
hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để
trao đổi và buôn bán trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là hình thức phát triển
cao của nền kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình
sản xuất đều được qui định bởi thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các
doanh nghiệp luôn muốn có được những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất
như: thuê được lao động rẻ mà có kĩ thuật, mua được nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị
trường các yếu tố đầu ra tốt. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
để chiếm lấy, nắm giữ lấy những điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc
khi nó được đánh dấu bởi một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy vậy cạnh
tranh không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự sống còn
của các doanh nghiệp. Muốn tồn tại được buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh
nghiệp, giảm chi phí sản xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật…
Điều này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng làm cho xã hội phát triển

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh

ĩ
a Mac Lênin


4

nhờ kinh tế phát triển, khoa học - kĩ thuật phát triển do đòi hỏi phải nâng cao năng
suất lao động của doanh nghiệp, cải tiến khoa học - kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi
sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao
hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng
của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho
người tiêu dùng.
Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho
xã hội. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực
hiện các bước nhảy thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc
thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển đi lên, tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
3. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh hầu như
không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh nghiệp hầu như đã
được nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả khi các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về nhà nước. Vì vậy, vô
hình dung nhà nước đã tạo ra một lối mòn trong kinh doanh, một thói quen trì trệ và
ỉ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có khách hàng tự tìm
đến doanh nghiệp. Chính điều đó đã không tạo được động lực cho doanh nghiệp
phát triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nước ta đã
chuyển sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt lớn, nền kinh tế thị trường được
hình thành thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và có vai trò đặc biệt quan trọng không

chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng cũng như nền kinh tế quốc
dân nói chung.
3.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Đối với nền kinh tế cạnh không chỉ là môi trường và động lực của sự phát
triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao động mà
còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan hệ xã hội, cạnh tranh còn là điều

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


5

kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cạnh tranh góp
phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của nhứng sản
phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày càng được nâng cao về
chính trị, về kinh tế và văn hoá. Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu và rộng. Tuy
nhiên bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó vẫn còn mang lại

những mặt hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh tạo sự phân hoá giàu nghèo,
cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến có những manh mối làm ăn vi phạm pháp
luật như trốn thuế, lậu thuế, hàng giả, buôn bán trái phép những mặt hàng mà Nhà
nước và pháp luật nghiêm cấm.
3.2. Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động kinh
doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững. Để tồn
tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh tranh cụ thể và
lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh để giành
những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành giật khách hàng, làm cho khách
hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu,
nhu cầu người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách
hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với
mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển. Do vậy
cạnh tranh là rất quan trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác maketing bắt đầu từ
việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và
sản xuất cho ai?. Nghiên cứu thị trường để doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị
trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ không sản xuất những gì
mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm
có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh
nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh
doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử
các cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sẽ tạo cho
doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường tăng thêm uy tín cho doanh

Nh

ng nguyên lý c
ơ

b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


6

nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã
hội, tạo đà phát triển mạnh cho nền kinh tế.
3.3. Đối với ngành
Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng ngành nói riêng cạnh
tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành
phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế và điểm mạnh của ngành đó là thu hút được
một nguồn lao động dồi dào và có thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô hoạt
động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ mô hay vi
mô thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố cạnh tranh .
3.4. Đối với sản phẩm.
Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về
chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích của
người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn. Ngày nay các
sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn cung
cấp và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh tranh

không thể thiếu sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh
sẽ thực sự tạo ra những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vậy cạnh tranh là một yếu tố rất
cần có sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước để phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến độc quyền và gây lũng
loạn, xáo trộn thị trường.
4. Các hình thức cạnh tranh
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức khác nhau:
4.1 Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thành ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra
theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình.

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


7


Người bán muốn bán với giá cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận còn người mua muốn
mua với giá thấp nhưng chất lượng vẫn được đảm bảo và mức giá cuối cùng vẫn là
mức giá thoả thuận giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở
quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này hàng hóa
trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua để đạt được nhu cầu mong muốn của mình
họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn do vậy mức độ cạnh tranh sẽ diễn ra gay
gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả hàng hoá sẽ tăng lên, những người
bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi những người mua bị thiệt thòi cả về giá cả
và chất lượng, nhưng trường hợp này chủ yếu chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và
xảy ra ở một số nơi khi diễn ra hoạt động bán đấu giá một loại hàng hoá nào đó.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh gay
go và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn sức cầu
rất nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố có vai trò
quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy các doanh
nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành những ưu thế và lợi thế cho mình.
4.2 Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh
Theo tiêu thức này cạnh tranh được chia thành bốn loại:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình
thức đơn giản của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều
không đủ lớn để tác động đến giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên
thị trường này chỉ có cách thích ứng với mức giá đưa ra vì cung cầu trên thị
trường được tự do hình thành, giá cả do thị trường quyết định.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh
phổ biến trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi
phối được giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại các
dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh mà
phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn
hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản


Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


8

phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao hơn rất nhiều. Cạnh tranh
không hoàn hảo có hai loại:
+ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ
thể có ảnh hưởng lớn, có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản
phẩm của mình với giá rất cao và những người này có thể làm thay đổi giá cả thị
trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc quyền mua.
Độc quyền bán tức là trên thị trường có ít người bán và nhiều người mua, lúc này
người bán có thể tăng giá hoặc ép giá khách hàng nếu họ muốn lợi nhuận thu
được là tối đa, còn độc quyền mua tức là trên thị trường có ít người mua và nhiều
người bán khi đó khách hàng được coi là thượng đế, được chăm sóc tận tình và
chu đáo nếu không những người bán sẽ không lôi kéo được khách hàng về phía
mình. Trong thực tế có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào
thay thế, tạo ra sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau gây

trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất và làm tổn hại đến người tiêu dùng. Vì
vậy phải có một đạo luật chống độc quyền nhằm chống lại liên minh độc quyền
của một số nhà kinh doanh.
+ Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số
ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ
xảy ra giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh nghiệp
phải nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào số
lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trường. Một sự thay đổi về giá của doanh nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng
đến nhu cầu cân đối với các sản phẩm của doanh nghiệp khác. Những doanh
nghiệp tham gia thị trường này là những người có tiềm lực kinh tế mạnh, vốn đầu
tư lớn. Do vậy việc thâm nhập vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh thường là
rất khó.
4.3. Căn cứ vào phạm vi kinh tế
- Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng loại sản phẩm.
Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp phải áp
dụng mọi biện pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh

ĩ
a Mac Lênin


9

suất lao động, giảm chi phí cá biệt của hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu
ngạch. Kết quả là trình độ sản xuất ngày càng phát triển, các doanh nghiệp không
có khả năng sẽ bị thu hẹp, thậm chí còn có thể bị phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế khác
nhau nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay
đồng minh các doanh nghiệp của một ngành với ngành khác. Như vậy giữa các
ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện khác khác nhau như môi
trường kinh doanh, thu nhập khu vực, nhu cầu và thị hiếu có tính chất khác nhau
nên cùng một lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận
cao hơn các ngành khác. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều người sản xuất kinh
doanh ở những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch sang
sản xuất tại những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để
thực hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết quả là những ngành trước kia có tỷ suất
lợi nhuận cao sẽ thu hút các nguồn lực, quy mô sản xuất tăng. Do đó cung vượt
quá cầu làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống, làm giảm tỷ suất lợi
nhuận. Ngược lại những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận thấp khiến cho một
số nhà đầu tư rút vốn chuyển sang lĩnh vực khác làm cho quy mô sản xuất của
ngành này giảm, dẫn đến cung nhỏ hơn cầu, làm cho giá cả hàng hoá tăng và làm
tăng tỷ suất lợi nhuận.

Chương II:
Cạnh tranh nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường

Cạnh tranh TBCN là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản

nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để
thu được lợi nhuận tối đa.
Cạnh tranh TBCN có hai loại: Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình
thành giá trị thị trường, và cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến sự hình thành tỷ suất
lợi nhuận bình quân.
I. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường.

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


10

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng
một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá, nhằm giành những điều kiện thuận lợi
nhất trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành thông qua các biện pháp: Cải tiến kỹ thuật, hợp
lý hoá sản xuất, nâng cao NSLĐ, chất lượng hàng hoá làm giảm giá trị cá biệt của
hàng hoá so với giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

- Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường
của hàng hoá (giá trị xã hội của hàng hoá). Điều kiện sản xuất trung bình trong một
ngành thay đổi do kỹ thuật sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên làm cho
giá trị thị trường của hàng hoá đó có xu hướng giảm xuống. Trên thị trường hàng
hoá phải bán theo giá thị trường( giá trị xã hội) mặc dù giá trị cá biệt khác nhau.
Điều này làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay đổi, giá trị xã
hội của hàng hoá giảm xuống, chủng loại hành hoá đa dạng với chất lượng ngày
càng cao.
Giá trị thị trường không chỉ chịu sự tác động của giá trị xã hội, mà còn chịu
tác động của giá trị cá biệt của nhà sản xuất cung ứng đại bộ phận một loại hàng hoá
cho thị trường. Theo C.Mac: “một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình
của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó, mặt khác
phải coi giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra
trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong
tổng số những sản phẩm của khu vực này”
Như vậy, giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản
xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Hay là giá trị cá biệt của những hàng
hoá được sản xuất và chiếm đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường.
II. Các trường hợp hình thành GTTT:
Trường hợp 1: Đại bộ phận HH SX trong điều kiện TB
Loại DN
Số lượng
SP
GT
cá biệt
Tổng số
Gt cá biệt
GT thị
trường
Tổng số

GT thị
trường

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


11

Tốt 15 2 30 3 45
TB 70 3 210 3 210
Kém 15 4 60 3 45
Tổng 100

300

300

Qua bảng phân tích trên ta thấy tổng số giá trị cá biệt và tổng số giá trị thị trường là

như nhau nhưng giá thị trường là giá của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất trong
điều kiện trung bình.
Trường hợp 2: Đại bộ phận HH SX trong điều kiện kém:
Loại DN
Số lượng
SP
GT
cá biệt
Tổng số
Gt cá biệt
GT thị
trường
Tổng số GT
thị trường
Tốt 10 2 20 3,6 36
TB 20 3 60 3,6 72
Kém 70 4 280 3,6 252
Tổng 100

360

360

Qua bảng phân tích trên ta thấy tổng số giá trị cá biệt và tổng số giá trị thị trường là
như nhau nhưng giá thị trường là giá của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất trong
điều kiện kém.
Trường hợp 3: Đại bộ phận HH SX trong điều kiện tốt:

Nh


ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


12

Loại DN
Số lượng
SP
GT
cá biệt
Tổng số
Gt cá biệt
GT thị
trường
Tổng số GT
thị trường
Tốt 70 2 140 2,4 168
TB 20 3 60 2,4 48
Kém 10 4 40 2,4 24
Tổng 100


240

240

Qua bảng phân tích trên ta thấy tổng số giá trị cá biệt và tổng số giá trị thị trường là
như nhau nhưng giá thị trường là giá của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất trong
điều kiện tốt. Như vậy muốn giảm giá chung của thị trường thì các nhà sản xuất cần
phải sản xuất ra hàng hoá trong những điều kiện tốt nhất.

Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong cùng một ngành
1. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. ở đâu có nền
kinh tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh nghiệp mình tồn
tại và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do tác
động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát
triển, nhu cầu cuộc sống của con người được nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều.Con
người không chỉ cần có nhu cầu “ăn chắc mặc bền” như trước kia mà còn cần “ăn
ngon mặc đẹp”. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không ngừng
điều tra nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp nào

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b


n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


13

bắt kịp và đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì
vậy cạnh tranh là rất cần thiết, nó giúp cho doanh nghiệp:
- Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh
doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm cho khách
hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu nhu
cầu của người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của
khách hàng thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường
hiện nay.
- Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là một
yếu tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy hát triển sản
xuất, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra nhiều, số lượng
người cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh
tranh là loại bỏ những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và
ngược lại nó thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy,
muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các
doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu
dùng như sản xuất ra nhiều loại hàng hoá có chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất

lượng sản phẩm, phù hợp với mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như
vậy hàng hoá của doanh nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối
với khách hàng. Muốn tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy
hết ưu thế của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh từ đó
doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại, phát triển và thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh luôn là
mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng là người tự
do lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định cho doanh
nghiệp có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh nghiệp như trước đây
nữa và họ cũng không phải mất thời gian chờ đợi để mua hàng hoá dịch vụ, mà đối
ngược lại trong nền kinh tế thị trường khách hàng được coi là thượng đế, các doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


14


nơi họ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có những chương trình giới thiệu truyền
bá và quảng cáo sản phẩm của mình để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem
xét, đánh giá và quyết định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay
không?. Ngày nay việc chào mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đã là
vấn đề khó khăn nhưng việc giữ lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều.
Bởi vậy mà doanh nghiệp nên có những dịch vụ cả trước khi bán, trong khi bán và
dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho khách hàng để những khách hàng đó là những
khách hàng truyền thống của doanh nghiệp, chính họ là những nhân tố quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh doanh
đều có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh
nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Trong giai
đoạn đầu khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là
muốn khai thác thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng,
giai đoạn này doanh nghiệp thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Còn ở
giai đoạn trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh
thu, tăng lợi nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí được coi là không cần
thiết, để lợi nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh nghiệp và niềm tin của khách
hàng đối với doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu
chủ yếu của doanh nghiệp là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách
thực hiện trách nhiệm đối với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm
tin cho của khách hàng đối với doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu doanh
nghiệp cần phải cạnh tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá
tìm ra phương cách, biện pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm đạt chất
lượng cao hơn, cung ứng những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa mãn nhu
cầu khách hàng ngày càng tăng. Chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn
tại và phát triển.
2. Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành và của
hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.

2.1. Đối với doanh nghiệp.

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


15

Phải đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ đi đôi với việc xây dựng và thực hiện
các chiến lược nghiên cứu triển khai để sản phẩm đạt chất lượng cao, phù hợp với
thị hiếu của khách hàng, chất lượng của sản phẩm quyết định đến khả năng cạnh
tranh của sản phẩm. Đây là biện pháp có ý nghĩa quyết định.
Ngày nay khoa học công nghệ kỹ thuật tiến bộ và thay đổi rất nhanh, các
nước phát triển luôn thay đổi công nghệ của họ và chuyển giao những công nghệ lạc
hậu sang các nước kém phát triển. Đây là một trở ngại lớn trong quá trình tiếp cận
công nghệ hiện đại để áp dụng vào sản xuất của nước ta. Để đạt được mục tiêu trên,
chúng ta cần đi tắt đón đầu để có được những công nghệ mới nhất áp dụng vào sản
xuất. Bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế, chúng ta cũng phải đảm bảo một điều:
không thể để nước ta trở thành bãi thải công nghiệp của thế giới.


Phải coi đào tạo nguồn nhân lực sử dụng thành thạo công nghệ mới như là
một yếu tố quyết định để tăng sức cạnh tranh. Sản phẩm do đội ngũ công nhân lành
nghề, sản xuất luôn có chất lượng đảm bảo về mọi yêu cầu.
Khi đã có cơ sở vật chất cho sản xuất thì yếu tố con người trở thành khâu đột
phá quan trọng. Trình độ của người lao động có được nâng cao thì mới đáp ứng
được yêu cầu sử dụng máy móc công nghệ hiện đại, mới tạo được sản phẩm có chất
lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nguồn nhân lực thực tế luôn là một trong những yếu tố quyết định đến mức
độ phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế hàng hoá. Chất lượng nguồn
nhân lực phải được coi trọng và được đào tạo thông qua việc tăng cường cập nhật
chương trình đào tạo hiện đại, nắm bắt được những công nghệ mới tăng cường việc
giao lưu đào tạo nghề với các nước khác. Có như vậy mới có thể thay đổi chất lượng
lao động trong nước và đó là yếu tố quan trọng làm tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam.

Phải có sự phân công chuyên môn hoá cao, để có sự lựa chọn sản phẩm mà
không cạnh tranh triệt tiêu nhau.

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh

ĩ
a Mac Lênin


16

Hiện nay trong nền kinh tế nước ta có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất
một loại hàng hoá hay sản xuất những sản phẩm tương tự nhau. Các doanh nghiệp
này không chỉ cần mở rộng sản xuất đa dạng các loại sản phẩm mà còn phải xác
định rõ đâu là sản phẩm chính của mình để đầu tư tập trung, tạo ra bước đột phá
trong loại mặt hàng đó, từ đó tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao có khả năng
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường ngày càng trở nên khó tính.

Để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá mỗi doanh nghiệp cần tập trung giải
quyết khâu quảng cáo, tiếp thị. Người tiêu dùng không thể biết đến và sử dụng một
loại sản phẩm nếu như sản phẩm đó dù tốt nhưng không tồn tại trong ý thức của
người tiều dùng.
Hoạt động tiếp thị quảng cáo sản phẩm được coi là một chiến lược trong kinh
doanh và trong việc gia nhập mở rộng thị trường.
2.2. Về phía nhà nước:
Điều cần thiết là cải thiện môi trường kinh doanh để ai cũng có thể kinh
doanh theo pháp luật một cách công khai thuận lợi và được hưởng các dịch vụ công
một cách dễ dàng.
Nhà nước cần tạo điều kiện để doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất. Nhà nước
cần hướng doanh nghiệp vào khai thác các vùng nguyên nhiên liệu có chi phí sản
xuất thấp, giá trị sản phẩm cao. Cần đẩy mạnh hợp tác giữa chính quyền các địa
phương với các doanh nghiệp. Có như vậy các doanh nghiệp mới có đầy đủ các điều
kiện khác để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần hỗ trợ một cách kịp thời và đúng mực về vốn để các doanh
nghiệp có vốn sản xuất.

Nhà nước cần cải tạo hệ thống thuế, nhất là thuế xuất nhập khẩu, để doanh
nghiệp có cơ hội giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh hàng
hoá của mình.
Đặc biệt nhà nước cần tích cực hỗ trợ trong việc về nghiên cứu triển khai, tiếp
thị xuất khẩu và đào tạo nguồn lực con người.

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b

n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


17

Để triển khai tiếp thị đặc biệt là khi muốn đưa sản phẩm trong nước ra thị
trường quốc tế thì vai trò của nhà nước là vô cùng quan trọng. Những hợp tác kinh
tế quốc tế cần được lót đường bởi các hoạt động chinh trị.
Trong việc phát triển nguồn nhân lực thì việc đào tạo con người rất cần sự hỗ
trợ tích cực từ phía nhà nước.
Chỉ có phát huy sức mạnh tổng hợp từ hai phía nhà nước và doanh nghiệp thì
mới tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Đó là một đòi hỏi của nền kinh tế hàng

hoá để chủ động nền kinh tế thắng lợi.
PHẦN 3
KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần tất yếu của nền kinh tế thị trường. Tuy
nhiên xét trong một quá trình lâu dài và dựa vào toàn bộ lợi ích của xã hội thì cạnh
tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố và sử dụng
có hiệu quả hơn. Những mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu
như chúng ta có một chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý. Nhiều nước
trên thế giới đã áp dụng tốt chính sách cạnh tranh trong phát triển kinh tế và đem lại
hiệu quả cao. Một trong những nước sử dụng rộng rãi và thành công yếu tố cạnh
tranh để phát triển kinh tế là Mỹ, Mỹ đã ban hành rất sớm luật cạnh tranh.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường cạnh tranh và
chống độc quyền ở nước ta còn nhiều hạn chế còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ. Đối với
chúng ta còn nhiều việc phải làm để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh,
nhưng trước mắt việc phải làm là Việt Nam cần có một chính sách cạnh tranh hợp
lý, cần phải có pháp luật về cạnh tranh hướng dẫn các doanh nghiệp khi tham gia
cạnh tranh, để cho cạnh tranh đúng với ý nghĩa của nó là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một con dao hai lưỡi, nó có
là động lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào sự vận dụng quy
luật này ở mỗi nước. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì nước đó sẽ được lợi to
do cạnh tranh đem lại, nhược bằng không thì nó sẽ là một cỗ máy nghiền nát nền

Nh

ng nguyên lý c
ơ
b


n c

a ch

ngh
ĩ
a Mac Lênin


18

kinh tế. Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi thất bại nếu không biết vận dụng quy
luật cạnh tranh. Là nước áp dụng quy luật cạnh tranh muộn nên Việt Nam sẽ có
được nhiều kinh nghiệm của những nước đi trước, từ đó chúng ta hy vọng Việt Nam
sẽ chứng minh rằng: Việt Nam chính là mảnh đất mầu mỡ cho cạnh tranh phát huy
hết ưu điểm của nó.







×