Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Về khái niệm “công lý” trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.49 KB, 20 trang )



KHOA HỌC PHÁP LÝ

Về khái niệm “công lý” trong
chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 tại Việt Nam
Đặt vấn đề
Công lý là một khái niệm xuất hiện trong lĩnh vực triết học từ thời Hy
Lạp cổ đại và được phát triển mạnh mẽ trong nền khoa học pháp lý
ngày nay. Những tư tưởng, khát vọng về một nền công lý đích thực đã
được Nguyễn Ái Quốc - người sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà truyền bá về Việt Nam từ năm 1925 trong tác phẩm “Bản án Chế
độ thực dân Pháp”(Chương VIII - Công lý). Với nhận thức đúng đắn
về tầm quan trọng của công lý, ngay sau khi thành lập nhà nước cách
mạng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến
nhiệm vụ của chính quyền nhân dân trong việc bảo vệ và thực thi
công lý. Điều 47 Sắc lệnh số 13 của Chủ tịch nước ngày 24 tháng 01
năm 1946 quy định cách tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán trong
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã khẳng định “Các vị thẩm phán
sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý”. Điều 25 Sắc lệnh này quy định:
Khi các Phụ thẩm nhậm chức, tại phiên toà đầu, ông Chánh án sẽ mời
các Phụ thẩm tuyên thệ, nội dung lời tuyên thệ là “Tôi thề trước Công
lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử,
không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi hay vì tư lợi hay thù oán riêng mà
bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ công bằng mà xét
định mọi việc…”. Có thể nói, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành
vũ khí tư tưởng, chính trị, pháp lý sắc bén ngay từ những ngày đầu
của Nhà nước cách mạng nhân dân.
Qua quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, một
trong những nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN đã


được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự
do của mỗi người. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã một phần hiện thực hoá nội dung đặc trưng nói trên
với yêu cầu hệ thống tư pháp phải được hoàn thiện để hướng tới mục
tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công bằng. “Các cơ quan tư pháp phải
thật sự là chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con
người”, “Xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý…”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng ta (năm 2011) cũng đã tiếp tục khẳng định yêu cầu bảo vệ
công lý trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
về “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Từ định hướng quan trọng này, Dự
thảo Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi) của Uỷ ban Sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp 1992 đã dự kiến bổ sung, làm sáng tỏ nhiệm vụ của Toà án nhân
dân trước yêu cầu bảo vệ công lý: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Như vậy,
trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN,
công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ
bản, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng
và Nhà nước ta và là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững
được toàn xã hội thừa nhận và hướng tới.
1. Khái niệm “công lý” trong nền khoa học pháp lý thế giới.
Khái niệm công lý là khái niệm thu hút được nhiều sự quan tâm và
tranh luận của các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực triết học, đạo
đức học, chính trị học, luật học và tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử

hàng ngàn năm của nền văn minh nhân loại. Theo cách hiểu truyền
thống, công lý là khái niệm chỉ áp dụng trong quá trình tương hỗ, khi
hành động của một cá nhân này hướng tới người khác. Câu hỏi về
công lý (justice) và bất công (injustice) chỉ xuất hiện khi có nhiều cá
nhân và có những sự kiện thực tế liên quan đến quá trình tương tác
với người khác. Trong nền khoa học pháp lý thế giới, công lý là khái
niệm có nội hàm khá năng động, tuỳ thuộc vào từng nền văn hoá và
từng giai đoạn phát triển của xã hội trong lịch sử.
Từ góc độ lịch sử, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các phân đoạn phát
triển của công lý. Theo đó, công lý trong giai đoạn thứ nhất của xã hội
sơ khai được thể hiện khá rõ nét bằng sự trả thù cá nhân, bằng luật báo
thù, dĩ oán báo oán. Công lý đã luôn được coi là vấn đề cốt tử trong
tâm thức của các nhà làm luật từ thời cổ đại. Trong bộ luật
Hammurabi của nhà nước lưỡng hà được ban hành trong khoảng thời
gian từ năm 1792 đến năm 1750.TCN, công lý được được hiểu là yêu
cầu áp dụng hình phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra,
đó chính là nguyên tắc báo thù Talion (mắt đền mắt, răng đền răng).
Theo đánh giá, đây là một bộ luật mà nguyên tắc Talion được áp dụng
một cách triệt để, tàn khốc và cứng nhắc một cách cực đoan. Ví dụ
một người thợ xây làm chết con của chủ nhà thì con của người thợ xây
phải bị giết theo nguyên tắc báo thù Talion.[1]
Giai đoạn thứ hai của sự phát triển nhận thức về công lý là thay sự báo
thù bằng bồi thường, phạt vạ, để nhằm giữ yên ổn, hoà hảo trong nội
bộ các bộ tộc, bộ lạc. Một ví dụ sinh động về cách phạt vạ khá cẩn
thận, tỉ mỉ của người Abysinie trong giai đoạn này như sau: “Nếu một
đứa nhỏ trên cây té xuống đúng vào một đứa bạn của nó, làm cho đứa
này chết thì mẹ của đứa chết có quyền sai một đứa khác leo lên cây
rồi buông tay cho rớt xuống đúng đầu đứa phạm tội”. Đến giai đoạn
thứ ba, để ngăn chặn các cuộc trả thù cá nhân, toà án đã được thành
lập để thẩm định, đánh giá các mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều

đình, phân xử các xung đột giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và
tư pháp xét xử đã vững bước song hành từ những bước phát triển của
lịch sử văn minh nhân loại như vậy.[2]
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại - cái nôi của văn minh phương
Tây, công lý được cho rằng bắt nguồn từ trật tự xã hội, một xã hội ổn
định, có trật tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của công lý và ngược lại, một
nền công lý mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật tự, ổn định. Plato,
nhà triết học Hy Lạp xuất sắc, đã đặt những luận giải của mình về
công lý chủ yếu trong các tranh luận về vấn đề đạo đức. Khi bị chỉ
trích với các luận điểm cho rằng đạo đức là phát minh của kẻ yếu
nhằm vô hiệu hoá quyền lực của kẻ mạnh và công lý không phải là
đạo đức của người xuất chúng mà là thứ đạo đức nô lệ, người ta chỉ
trích sự bất công chỉ khi người ta là nạn nhân chứ không phải bị lương
tâm cắn rứt. Sức mạnh chính là lẽ phải và công lý chính là quyền lợi
của kẻ mạnh. Đáp lại những luận điểm nêu trên, Plato cho rằng đây là
những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý.
Ông nhấn mạnh công lý là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào
tổ chức xã hội và do đó cần được nghiên cứu đồng thời, song song với
cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái độ cá
nhân. Chúng ta chỉ có thể hình dung một quốc gia công bằng thì
chúng ta mới đủ yếu tố định nghĩa một cá nhân công bằng. Theo
Plato, công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà của
cộng đồng, là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có
đức hạnh tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia.
Công lý liên quan trực tiếp đến sự tiết chế và khả năng tự kiểm soát
của mỗi cá nhân. Công lý là một vấn đề giản dị nếu con người cũng
giản dị, rời xa lòng tham lam và sự xa hoa và sống theo đúng chức
phận của mình. Công lý xuất phát từ sự hài hoà và nó hướng tới
những người khác thông qua những hành vi nhân hậu và tử tế.[3]
Còn theo Aristotle, một trong những người thầy có ảnh hưởng nhất

đối với bộ môn triết học chính trị, thì công lý cốt ở việc đối xử bình
đẳng với những người ngang nhau và bất bình đẳng với những người
không ngang hàng, tương xứng với sự khác nhau về địa vị của họ.
Theo ông, công lý được chia thành “công lý cải tạo” - nơi mà toà án
sửa chữa một lỗi lầm do một bên phạm phải đối với bên khác và
“công lý phân phối” - cách thức, nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi
người, đúng theo những gì mà người đó xứng đáng. Theo Aristotle,
công lý phân phối chính là mối quan tâm chủ yếu, hàng đầu của các
nhà lập pháp. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng luật pháp và công
lý là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất, thậm chí, trong một số
xã hội, luật pháp đôi khi đi chệch hướng hoặc đối nghịch với công
lý.[4]
Người La Mã tiếp tục phát triển khái niệm về công lý với nhận định
rằng luật pháp là tổng hợp các quyền cá nhân. Công lý được xem là
yêu cầu bắt buộc trao cho con người những quyền của họ. Tuy nhiên,
người La Mã cũng không còn coi công lý là một chức năng của xã hội
mà coi công lý là một nội dung và là khía cạnh pháp lý của xã hội.
Nội dung này được thể chế hoá trong các chức năng của các thiết chế
bảo vệ các quyền của từng cá nhân đơn lẻ hơn là dành sự quan tâm xã
hội cho tất các công dân. Khái niệm về công lý tương giao ra đời khi
sự trao đổi các giá trị, lợi ích giữa các cá nhân phát triển một cách
mạnh mẽ với nguyên tắc là tôi trao một lợi ích cho bạn thì bạn trao
một lợi ích cho tôi. Một hợp đồng trao đổi là một hành động của công
lý tương giao tự nguyện mà trong đó mỗi người đều nhận được những
giá trị lớn hơn với giá trị tương ứng mà anh ta đã trao đi. Mục đích
của công lý tương giao là duy trì sự bình đẳng về quyền giữa các cá
nhân, bảo vệ sự tự do và nhấn mạnh trách nhiệm của từng cá nhân
trong cộng đồng xã hội.
Trong truyền thống pháp luật tự nhiên, công lý được hiểu là yêu cầu,
đòi hỏi mỗi cá nhân hoặc nhóm được hưởng những gì mà họ xứng

đáng. Công lý là quyền mà tạo hoá ban cho con người. Đây là khái
niệm mang tính tổng quát và tuyệt đối, các quy định luật pháp, các
nguyên tắc, luật lệ, quy tắc chỉ là những cố gắng nhằm hệ thống, hiện
thực và cụ thể hoá khái niệm này. Công lý chỉ có thể giành được
thông qua chế độ pháp quyền chứ không phải thông qua sự cai trị của
con người. Không có công lý thì sẽ không có những đạo luật khách
quan và hệ quả là các cá nhân sẽ lệ thuộc vào kẻ cai trị. Chế độ pháp
quyền ở đây được hiểu là nhà nước phải bị chế ước bởi những quy
định đã được ấn định trước hoặc được đoán định trước và mọi người
đều bị quản lý bởi cùng các đạo luật.
Truyền thống pháp luật tự nhiên cho rằng công lý và bất công không
phụ thuộc vào luật thực định (human/positive law). Augustine, nhà
triết học có ảnh hưởng lớn đầu tiên thời trung cổ, cho rằng công lý cao
hơn nhà nước và là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật pháp.
Luật pháp không công bằng thì không phải là luật pháp (Unjust laws
are not laws). Thomas Aquinas, nhà triết học và thần học Italia trong
truyền thống kinh viện chủ nghĩa, cũng cho rằng trong thực tế những
đạo luật nhân định có thể công bằng hay không công bằng. Công lý là
khái niệm cơ sở, có nội hàm rộng hơn khái niệm luật pháp. Những giá
trị của công lý cung cấp những tiêu chí quan trọng cơ bản để đánh giá,
thẩm định các đạo luật thực định. Một đạo luật công bằng là một đạo
luật dựa trên và không đối lập với các quyền tự nhiên. Bất công chính
là những hành vi liên quan đến việc vi phạm các quyền tự nhiên như
các tội giết người, hành hung, trộm cắp, bắt cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian
lận hoặc các hành vi gây ảnh hưởng sai lệch nhất định đến sự phân
phối thịnh vượng, thu nhập. Không có cách phân phối cụ thể nào được
coi là công bằng hoặc không công bằng từ sự lựa chọn của các cá
nhân. Sự phân phối lợi ích và chi phí chỉ được coi là công bằng nếu
người đó được tự do lựa chọn trao đổi với người khác.
Luật pháp và công lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Luật pháp

phục vụ công lý nếu nó giúp tạo dựng sự bình yên và bảo vệ các
quyền cá nhân của con người bị vi phạm. Công lý không có sự nâng
đỡ của luật pháp sẽ trở lên yếu đuối, mờ nhạt. Luật pháp không dựa
trên các giá trị của công lý sẽ trở lên tàn bạo, hà khắc. Đạo luật
Đracông năm 621 TCN là một ví dụ điển hình về sự khắc nghiệt của
luật pháp khi nó không dựa trên nền tảng những giá trị công lý, ví dụ
như chỉ phạm tội trộm cắp vặt như lấy trộm rau quả cũng bị xử tử, từ
đó, “luật Đracông” trở thành thuật ngữ được dùng để chỉ những bộ
luật hoặc pháp lệnh hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính.[5] Do Luật pháp
có thể tự nó lạm dụng quyền lực để vi phạm các quyền con người
hoặc nhằm vi phạm các quyền của bên thứ ba nên luật pháp, ngoài
việc thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội, cần phải
phản ánh được đầy đủ nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội, phải “vang
vọng tiếng dân” và phải chuyển tải đầy đủ những giá trị tiến bộ của
lương tri, đạo đức, các giá trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công lý,
công bằng, lẽ phải, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người.
Tính công bằng trong quá trình áp dụng luật pháp cũng có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ công lý. Một đạo luật được coi là áp dụng một
cách công bằng nếu nó được áp dụng một cách công khai, minh bạch,
không thiên vị và nhất quán. Bất công sẽ xảy ra nếu những trường hợp
tương tự như nhau không được xử lý bằng một cách thức như nhau.
Luật pháp cần xử lý với các trường hợp như nhau với cách thức như
nhau trừ khi có các tình tiết khác.
Trong xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng
tập trung vào công lý phân phối với mục tiêu làm thế nào để xã hội có
thể phân phối một cách công bằng nhất những gánh nặng và phúc lợi
của đời sống xã hội, từ đó đã đưa khái niệm công lý mang tính thực
tiễn và chính trị hơn là một quan niệm siêu hình trước đây. F.A.
Hayek, một trong những kiến trúc sư chính của cuộc xây dựng lại chủ
nghĩa tự do, khẳng định sự tương đồng giữa tính “mù” của công lý và

cạnh tranh, theo ông, công lý và cạnh tranh đều không thiên vị ai và
pháp luật chính là công lý hình thức.[6] Còn John Rawls, đại biểu nổi
tiếng của chủ nghĩa tự do của Mỹ, đã định nghĩa công lý là lẽ phải,
điều thiện và là phẩm hạnh tối cao của con người. Công lý là sự công
bằng và công lý chính là chuẩn mực của một xã hội lý tưởng. Chuẩn
mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên
tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. Theo ông, công
bằng chỉ có được khi con người tự nguyện cùng tham dự vào quá trình
hợp tác xã hội để làm sao mỗi cá nhân giành được lợi ích nhiều hơn so
với khi họ sống đơn lẻ.[7]
Trong tác phẩm xuất bản gần đây tại Việt Nam “ Công lý: Đâu là việc
đúng nên làm?”
[8]
, giáo sư Michael Sandel của Đại học Harvard cho
rằng câu hỏi một xã hội có công bằng hay không chính là câu hỏi về
cách phân phối những điều chúng ta được hưởng thụ: Thu nhập và sự
giàu có, Trách nhiệm và quyền lợi, Quyền lực và cơ hội, Chức vụ và
danh dự. Một xã hội công bằng phân phối những thứ này đúng cách,
mỗi người nhận đúng phần mình đáng được hưởng. Nhưng câu hỏi
khó khăn là ai xứng đáng được hưởng gì và vì sao? Từ cách đặt vấn
đề này, người ta đã xác định ba cách phân phối theo 03 cách tiếp cận
về phúc lợi, tự do và đạo đức.
(1) Xuất phát điểm từ yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh
vượng chung, từ đó đóng góp, mang lại phúc lợi cho mỗi người,
thuyết vị lợi, một triết thuyết quan trọng đã lý giải một cách sâu sắc
nhất về công lý từ khía cạnh tại sao và bằng cách nào chúng ta nên tối
đa hoá hạnh phúc, tìm kiếm hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất.
(2) Cách tiếp cận thứ hai là triết thuyết về tự do với mục đích cố gắng
kết nối công lý với tự do. Cách tiếp cận này đặt trọng tâm và nhấn
mạnh cần phải tôn trọng các quyền cá nhân. Tư tưởng công lý có

nghĩa là tôn trọng một số quyền phổ quát (một số quyền tự do của con
người) được chấp nhận ngày càng rộng rãi trên thế giới ngày nay.
(3) Từ khía cạnh khuyến khích đạo đức, triết thuyết về công lý nhấn
mạnh những giằng xé, mẫu thuẫn khó khăn trước những nhận định,
đánh giá về đạo đức và lối sống tốt đẹp. Công lý phải gắn liền với
những đức tính và quan niệm về lối sống tốt đẹp.
Các nghiên cứu ngày nay liên quan đến công lý trong lĩnh vực tư pháp
xét xử cho rằng các thủ tục tố tụng chính là những cơ chế, những công
cụ xã hội giúp các cá nhân tiếp cận được công lý. Nếu các cơ chế tố
tụng không đủ mạnh và hiệu quả thì có thể làm vô hiệu hoá quá trình
thực thi các quyền cơ bản của các cá nhân. Các cơ chế tố tụng phải
đáp ứng ứng kịp thời, đầy đủ yêu cầu của xã hội và phải thực sự là
người đầy tớ phục vụ, thúc đẩy công lý chứ không phải là ông chủ của
công lý. Lý thuyết tìm kiếm sự thật (The truth-finding theory), một
trong những học thuyết có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực tố tụng tại
các quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển, cũng nhấn mạnh rằng
mặc dù các cơ chế tố tụng đều hướng tới việc tìm ra sự thật khách
quan của vụ việc nhưng công lý và sự thật khách quan của vụ việc
không hoàn toàn đồng nhất. Công lý là một điều gì đó rộng lớn và có
ý nghĩa sâu sắc hơn so với sự thật. Sự thật khách quan của vụ việc chỉ
là một trong những thành tố cơ bản của công lý.[9] Trong quá trình
cải cách cơ chế tố tụng, các nghiên cứu cho rằng công lý có ba yếu tố
định tính cơ bản: Thứ nhất, khả năng tìm ra sự thật và tính chính xác
của quyết định của toà án. Thứ hai, thời gian tiếp cận công lý phải
đảm bảo, công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối (justice delayed is
justice denied). Thứ ba, chi phí tài chính cho quy trình tiếp cận công
lý phải đảm bảo tính hợp lý, không mang tính chất rào cản đối với quá
trình tìm kiếm công lý của các tổ chức và cá nhân. Đây chính là
những tiêu chí cơ bản được dùng để đánh giá mức độ thành công các
cuộc cải cách tư pháp xét xử của các quốc gia trên thế giới.[10]

Tại Hoa Kỳ, nền khoa học pháp lý có sự phân biệt khá sâu sắc giữa
“công lý theo thủ tục” và “công lý theo bản thể”. Nếu một người giết
hại người khác, công lý bản thể (công bằng về nội dung) đòi hỏi kẻ sát
nhân phải bị trừng phạt theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, nếu kẻ sát
nhân bị tra tấn một cách bất hợp pháp để phải thú tội thì công lý thủ
tục đã không được thực thi. Trong trường hợp đó, theo truyền thống
pháp luật phương Tây, công lý theo thủ tục sẽ thắng công lý theo bản
thể.[11]
2. Khái niệm “công lý” tại Việt Nam.
Trong xã hội Việt Nam phong kiến, khát vọng công lý luôn lan toả
trong những thành ngữ, tục ngữ phê phán thói hư, tật xấu của đội ngũ
quan lại phong kiến từ xa xưa: Nén bạc đâm toạc tờ giấy (Công lý bị
đồng tiền chi phối), Đất thấp trời cao (Hoàn cảnh trớ trêu, người có
địa vị thấp hèn khó có thể giãi bày, kêu oan với bề trên), Quan châu
có quyền đốt đuốc, thiên hạ không được thắp đèn (Nhận xét về sự bất
công giữa kẻ có chức quyền và nhân dân), Quan thấy kiện như kiến
thấy mỡ (Nhận định về tệ tham nhũng của quan lại phong kiến)… Có
thể nói, công lý, lẽ phải và sự công bằng đã trở thành khát vọng ngàn
đời nay của người dân Việt Nam.
Những tư tưởng về một nền công lý đích thực, chân chính đã được
truyền bá vào Việt Nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra
nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm
vạch trần nền “công lý thực dân” giả tạo: “Ở Đông Dương có hai thứ
công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người
Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng
bồi thẩm, cũng không có luật sư người An Nam. Thường thường
người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu
có vụ kiện cáo giữa người An Nam và người Pháp thì lúc nào người
Pháp cũng có lý cả mặc dù tên này ăn cướp hay giết người…”. Người
cũng lên án chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp

quyền của Chính phủ Pháp tại thuộc địa Việt Nam. Bằng ngòi bút sắc
sảo, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một hình ảnh về chế độ phi pháp
quyền, vô nhân đạo và phản tiến hoá mà người Pháp áp đặt tại Việt
Nam: “Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền,
một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đông
Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng
bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện
hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc
cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội, và nhất là
người vô tội”.
Khát vọng và tình yêu công lý đó đã được Đảng ta tiếp tục vận động,
tuyên truyền và thắp sáng thành ý nguyện của dân tộc ta, của nhân dân
ta. Trong bài thơ làm công tác binh vận “Là thi sĩ’ năm 1942, đồng chí
Trường Chinh với bút danh Sóng Hồng đã viết:
Là thi sĩ phải là hồn cao khiết,
Chí kiên cường và sứ mệnh cao siêu;
Ca tự do, tiến bộ với tình yêu
Yêu nhân loại, hoà bình và công lý.
Chính tình yêu công lý, khát khao công lý này đã làm thức tỉnh lòng
yêu nước của nhân dân ta, đưa dân tộc ta, nhân dân ta đến Cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945 - một cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc
đoàn kết sau gần 100 năm người dân Việt Nam phải sống dưới xiềng
xích thực dân.
Ngày nay, câu chuyện về lẽ phải, về lương tri và công lý vẫn tiếp tục
là một đề tài nóng bỏng giành được sự quan tâm sâu sắc trong xã hội
Việt Nam. Người ta vẫn sôi nổi bàn luận những câu chuyện về thói hư
tất xấu như “Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” với cái kiểu
“công lý của làng - công lý tình cảm” ấu trĩ và yếu ớt, với tâm lý co
cụm, bấu víu và đan kết trong tình cảm của người Việt để rồi không
minh định được cái đúng cái sai, cái thiện cái ác. Người ta cũng còn

mạnh mẽ phê phán cái thói “Cậy thế, ỷ quyền”, “Nhất thân, nhì quen”
với nhận định: Ỷ lại, cậy thế, cậy quyền sẽ chỉ làm lụi bại ý chí, đạo
đức và nhân cách của các thế hệ trẻ trong xã hội. Xử lý một cách triệt
để những hiện tượng tiêu cực này cần lắm những Bao Công thời hiện
đại, và cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của mọi công dân. Có như
vậy thì xã hội mới thực sự đi lên, chiếc cân công lý mới thực sự công
bằng đối với mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội…[12]
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một
số quan điểm nghiên cứu đã cho rằng pháp luật không chỉ đơn thuần
là sản phẩm “độc quyền” của nhà nước mà trước hết phải là sự kết
tinh thiêng liêng những giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng
dân chủ, nhân bản, lương tri và đạo lý mà không một ai bác bỏ được
để trở thành lẽ phải đương nhiên như tự do, bình đẳng, công lý, công
minh. Nhà nước phải thừa nhận và phục tùng lẽ phải và công lý, lấy
đó làm thước đo để hướng tới sự phù hợp và hoàn thiện để củng cố
lòng tin của nhân dân vào sự công minh của mình.[13] Công lý chính
là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì chân lí, vì công bằng
và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí của nhân dân, được
xã hội và pháp luật thừa nhận.
3. Về khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 tại Việt Nam.
Những giá trị của công lý có thể được nhận diện trong các chính sách
bảo đảm công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ
hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội nhằm thoả mãn một cách
hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá
nhân, xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định. Những giá trị của công lý cũng hiện thân trong các yêu
cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ
thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và
đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp.

Trong cả lý luận và thực tiễn, những quyền cơ bản của cá nhân có thể
bị vô hiệu hoá hoặc bị từ chối thực thi do các cơ quan bảo vệ pháp
luật và các cơ chế tố tụng không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời yêu
cầu phát triển của xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng và các thủ tục
tố tụng luôn được xác định là những yếu tố quan trọng trong quá trình
giúp các tổ chức, cá nhân tìm kiếm, tiếp cận công lý. Ở mỗi quốc gia
với các nền văn hoá pháp lý khác nhau sẽ tìm kiếm những phương
thức khác nhau để đạt được mục tiêu này như cơ chế đối tụng
(adversary system) của hệ thống luật án lệ hay cơ chế tố tụng thẩm
vấn (inquisitorial system) của hệ thống dân luật.
Trong lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý được xác định là
một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp của
Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6
năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
khẳng định yêu cầu xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa
của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con người. Chiến
lược cũng xác định rõ mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh và bảo vệ công lý. Hoạt động tư
pháp mà trong đó toà án được xác định giữ vị trí trung tâm và công tác
xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải được tiếp tục cải cách, nâng
cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả cao. Thủ tục hành
chính trong các cơ quan tư pháp cần tiếp tục được đổi mới nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Các thủ tục, quy
trình tố tụng cần tiếp tục được rà soát, hoàn thiện nhằm tạo một cơ chế
tiếp cận công lý hữu hiệu, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt
Nam.
Như vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp là công
lý trong lĩnh vực tư pháp xét xử. Công lý ở đây được hiểu là yêu cầu
xử lý các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm

bảo vệ lợi ích của xã hội và bảo vệ các quyền con người một cách
nghiêm minh. Công lý trong tư pháp xét xử không chấp nhận hiện
tượng còn để xảy ra tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ,
truy tố và xét xử. Công lý trong tư pháp xét xử cũng đòi hỏi sự đồng
thuận cao của xã hội đối với cơ chế tố tụng, cơ quan tư pháp và các
bản án, quyết định của cơ quan tư pháp. Các giá trị cao cả của lẽ phải,
đạo lý, lương tâm, lương tri, đạo đức, sự vị tha, lòng trắc ẩn và các giá
trị tiến bộ xã hội khác cần phải là điểm tựa, là các chuẩn mực để soi
rọi các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp. Gần đây, trên website
của Tạp chí Xây dựng Đảng, khi đánh giá văn bản số 1594/MTTW-
BBT ngày 12 tháng 8 năm 2011 của Ban thường trực Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
và Chánh án Toà án nhân dân tối cao kiến nghị đình chỉ vụ án, đình
chỉ điều tra bà Trần Ngọc Sương - nguyên Giám đốc Nông trường
Sông Hậu về tội danh “lập quỹ trái phép” và xử lý sai sót của bà trong
lĩnh vực tài chính bằng các biện pháp hành chính và dân sự, bài viết
trên Tạp chí đã có một nhận định sâu sắc trong quá trình phát triển
nhận thức về công lý tại Việt Nam: Lương tri không thay được pháp
luật lại càng không thể đứng trên pháp luật. Nhưng nó là cái duy nhất
mách bảo giải pháp đúng trong tình huống phức tạp. Cao hơn, lương
tri làm cho mọi hành vi xã hội được thừa nhận và có tình người.[14]
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta cũng đã khẳng
định những hạn chế, bất cập của tư pháp xét xử trong quá trình giúp
các tổ chức, cá nhân tiếp cận công lý. Đó là chính sách hình sự, chế
định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất
cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm
vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ
cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản
lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí còn có hiện
tượng sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Cơ

sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn,
lạc hậu. Những bất cập nói trên đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu
quả của các cơ quan tư pháp trong quá trình bảo vệ công lý. Nhận
thức đầy đủ về công lý và yêu cầu bảo vệ công lý và quyền tiếp cận
công lý của các tổ chức và cá nhân, Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Đảng ta đã khẳng định những phương hướng cải cách
cơ bản sau trong lĩnh vực tư pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính
đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người.
Thứ hai, tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương
tiện làm việc; trong đó xác định toà án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm; xã hội hoá mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
Thứ ba, xây đựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán
bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý, nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất,
đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối
với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số
chức danh.
Thứ tư, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò
giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối
với hoạt động tư pháp./.

Ths. Luật so sánh Nguyễn Xuân Tùng - Trưởng phòng Công tác cán
bộ Vụ TCCB


[1] Nguyễn Anh Tuấn: Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước
lưỡng hà cổ đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2008.

[2] Will Durant: Nguồn gốc văn minh, Nhà Xuất bản văn hoá thông
tin, năm 2006.

[3] Will Durant: Câu chuyện triết học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm
2009.

[4] Raymond Wacks: Triết học luật pháp (Phạm Kiều Tùng dịch),
Nhà xuất bản tri thức, năm 2011.

[5] Vũ Dương Minh (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới, Nhà xuất
bản giáo dục, năm 2007.

[6] F.A. Hayek: Đường về nô lệ (Phạm Nguyên Trường dịch), Nhà
xuất bản tri thức, năm 2009.

[7] John Rawls: Theory of Justice, The Belknap Press of Havard
University Press, 1977.

[8] Michael Sandel: Justice:What’s the Right Thing to Do?: Công lý:
Đâu là việc đúng nên làm?, Nhà xuất bản Trẻ, năm 2011.

[9] M.P. Golding: On the Adversary system and Justice, in Bronaugh,
ed, Philosophical Law – Authority, Equality, Adjudication, Privacy,
1978.

[10] Adrian Zuckerman: Justice in Crisis, from Civil Justice in Crisis:
Comparative Perpectives of Civil Procedure (1999).


[11] Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (Đồng chủ
biên): Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến (Một số tiểu luận của các
học giả nước ngoài), Nhà xuất bản Lao động – xã hội, năm 2012,
trang 33.

[12] Nhiều tác giả: Người Việt- Phẩm chất và thói hư tật xấu, Nhà
xuất bản Thanh niên - Báo Tiền phong, năm 2008.

[13] TS. Huỳnh Văn Thới: Pháp luật được “đặt ra” hay “tìm ra”?,
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh tại
hay-tim-ra.htm

[14] Nguyễn Thuý Hoàn: Đắc nhân tâm, Tạp chí Xây dựng Đảng tại
nhan-tam.aspx




×