Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN Tìm hiểu về Tây Nam Bộ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.74 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
Tìm hiểu về Tây Nam Bộ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Loan
Lớp : Kinh tế vận tải ô tô
Mã sinh viên : 1107145
Các tỉnh miền tây hay còn được gọi là đồng bằng sông Cửu Long, miền
tây Nam Bộ nhưng theo cách gọi của người dân miền Nam Việt Nam
ngắn gọn là miền tây, với 12 tỉnh thành và 1 thành phố trực thuộc trung
ương.
• Đồng Tháp
• Hậu Giang
• Kiên Giang
• Long An
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiều
nhất Đông Nam Á và thế giới, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực,
vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL cũng là vùng đất
quan trọng đối với Nam Bộ và cả nước trong phát triển kinh tế, hợp tác
đầu tư và giao thương với các nước trong khu vực và thế giới.
1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
a) Địa lý tự nhiên
Các điểm cực của đồng bằng trên đất liền, điểm cực Tây 106°26´(xã Mĩ
Đức, Thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang), cực Đông ở 106°48´(xã Tân
Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), cực Bắc ở 11°1´B (xã
Lộc Giang, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An) cực Nam ở 85°33´B (huyện
Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau).
Các tỉnh miền tây là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện
tích 39734km². Có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc
giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là
Biển Đông.
Nằm ở phần cuối bán đảo Đông Dương, liền kề với địa bàn kinh tế
trọng điểm phía Nam, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh nên có mối


quan hệ 2 chiều chặt chẽ, đa dạng.
Nằm gần đường hàng hải quốc tế từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình
Dương, gần Thái Lan, Malaixia, Xingapo, Inđônêxia, khu vực kinh tế
năng động của khu vực và thế giới. Đây là những thị thị trường và đối
tác đầu tư quan trọng đối với sự phát triển của vùng.
b) Khí hậu
Đồng bằng sông Cửu Long có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong
toàn vùng. Nhiệt độ trung bình 28 C. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung
bình cả năm 2226-2709 giờ. Tổng hoà những đặc điểm khí hậu đã tạo ra
ở Đồng bằng sông Cửu Long những lợi thế mang tính so sánh riêng biệt
mà các nơi khác khó có thể có được, đó là một nền nhiệt độ, một chế độ
bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định trong vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu đặc
biệt là bão. Những đặc điêm khí hậu này đã tạo ra một nguồn lực rất
thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, tạo ra một thảm thực
vật và một quần thể động vật phong phú đa dạng nhưng có tính đồng
nhất tương đối trong toàn vùng. Chính vì vậy đó là những điều kiện
thuận lợi để tổ chức sản xuất và phát triển sản xuất lương thực-thực
phẩm, phat triển sản xuất chế biến sản phẩm nông-thủy-hải sản lớn nhất
cả nước. Và cũng tạo ra các lợi thế so sánh khác của Đồng bằng sông
Cửu Long
2.Tài nguyên
a).Sông ngòi
Đồng bằng sông Cửu Long lấy nước ngọt từ sông Mê kong và nước
mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rỏ rệt. Lượng
nước bình quân của sông Mê kong chảy qua Đồng bằng sông Cửu Long
hơn 460 tỷ m
3
và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phú sa. Chính
lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi tụ đã tạo nên

Đồng bằng Châu thổ phì nhiêu ngày nay.
Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông rạch lớn nhỏ chằng chịt
thuận lợi cung cấp nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau,sông Mê kong là nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa
khô, lượng mưa trunh bình hàng năm dao động từ 2400 mm ở vùng phía
tây Đồng bằng Cửu Long đến 1300 mm ở vùng trung tâm và 1600 mm ở
vùng phía đông. Về ở lũ, thường xảy vào tháng 9, nước sông lớn gây
ngập lụt.
Chế độ thủy văn của Đồng bằng sông Cửu Long có 3 đặc điểm nổi bật :
+Nước ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa,phù du, ấu trùng
+Nước mặn vào mùa khô ở vùng ven biển
+Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn
Đồng bằng sông Cửu Long co trữ lượng nước ngầm không lớn
b) Biển
Vùng biển Tây Nam Bộ là vùng biển kín giới hạn từ 105000E về phía
Tây, ba mặt là đất liền, thông ra biển Đông ở phía Đông Nam với diện
tích thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khoảng 59.430 km
2
Thềm lục địa biển Tây Nam Bộ có độ sâu tăng dần tương đối đều đặn từ
bờ ra giữa vịnh, nền đáy trong vịnh tương đối bằng phẳng, chỉ có khu
vực cận đảo Phú Quốc địa hình đáy bị chia cắt phức tạp, có nhiều rãnh
ngầm và đồi ngầm. Độ sâu vùng biển không lớn, thường 30-40m, chỗ
sâu nhất không quá 80m. Bờ biển lồi lõm với nhiều vụng, vịnh nhỏ, chất
đáy chủ yếu là cát bột và cát. Thời tiết ở đây thể hiện hai mùa rõ rệt là
Đông Bắc và Tây Nam với chế độ mưa, dòng chảy, độ mặn khác nhau
tạo nên sự phong phú trong khu hệ sinh vật cư trú ở đó.
Nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển Tây Nam Bộ thể hiện rõ sự đa dạng sinh
học của biển nhiệt đới. Ở đây, tồn tại hầu hết các hệ sinh thái biển và
ven biển điển hình như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi bồi
và vùng triều, là nơi cư trú và sinh sản của nhiều loài sinh vật biển. Kết

quả nghiên cứu nguồn lợi ở đây đã thống kê 296 loài/nhóm loài thuộc 91
họ hải sản khác nhau, trong đó nhóm cá bắt gặp 228 loài, nhóm tôm bắt
gặp 33 loài tôm và nhóm mực bắt gặp 16 loài . Tổng trữ lượng nguồn
lợi hải sản ở vùng biển Tây Nam Bộ ước tính khoảng trên 1 triệu tấn,
chiếm 21% tổng trữ lượng nguồn lợi của toàn vùng biển. Trữ lượng
nguồn lợi hải sản đánh được bằng lưới kéo đáy ước tính khoảng 124
ngàn tấn
Dựa trên tập tính phân bố, nguồn lợi cá biển có thể được chia thành các
nhóm chính, gồm: cá nổi nhỏ, cá nổi lớn, cá đáy, cá rạn san hô. Mỗi
nhóm có những nét đặc trưng riêng về khu vực cũng như phạm vi phân
bố. Vùng biển Tây Nam Bộ có độ sâu không lớn, sự phân bố của các
nhóm cá biển tồn tại sự pha trộn nhất định, đặc biệt là giữa các nhóm cá
nổi và nhóm cá đáy.
c) Đất đai
Tổng diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, không kể hải đảo, khoảng
3,96 triệu ha, trong đó khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển
nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản chiếm 65%. Trong quỹ đất nông
nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu đất
lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại cây màu và cây công nghiệp
ngắn ngày khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000ha,
khoảng 8,2% diện tích tự nhiên. Vùng bãi triều có diện tích khoảng
480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có khẳ năng nuôi trồng thuỷ sản
nước mặn, nước lợ. Tỷ lệ che phủ rừng chỉ còn 5%. Các nhóm đất chính
ở Đồng bằng sông Cửu Long gồm:
Đất phù sa sông (1,2triệuha):Các loại này tập trung ở vùng trung tâm
Đồng bằng sông Cửu Long. Chúng có độ phì nhiêu tự nhiên cao và
không có các yếu tố hạn chế nghiêm trọng nào. Nhiều loại cây trồng có
thể canh tác được trên nền đất này.
Đất phèn (1,6triệuha): Các loại đất này được đặc trưng bởi độ axit cao,
nồng độ độc tố nhôm tiềm tàng cao và thiếu lân. Nhóm đất này cũng bao

gồm cả các loại đất này cũng bao gồm cả các loại đất phèn nhiễm mặn
nặng và trung bình. Các loại đất phèn tập trung tại Đồng Tháp Mười và
Tứ Giác Long Xuyên còn các loại đất phèn mặn tập trung tại vùng trung
tâm bán đảo Cà Mau. Đất nhiễm mặn (0,75triệuha): Các loại đất này
chịu ảnh hưởng của nước mặn trong mùa khô. Các vùng đất này khó có
thể được cung cấp nước ngọt. Hiện nay lúa được trồng vào mùa mưa và
ở một số khu vực người ta nuôi tôm trong mùa khô. Các loại đất khác
(0,35triệuha): Gồm đất than bùn (vùngrừngUMinh), đất xám trên phù sa
cổ (cực Bắc của Đồng bằng sông Cửu Long) và đất đồi núi (phía Tây
-Bắc Đồng bằng sông Cửu Long). Nhìn chung ở Đồng bằng sông Cửu
Long rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp không có hạn chế lớn. Do
nền đất yếu cho nên để xây dựng công nghiệp, giao thông, bố trí dân cư,
cần phải gia cố, bồi đắp nâng nền, do đó cần đòi hỏi chi phí nhiều.
e) Hệ sinh thái và động vật
-Hệ sinh thái:
Sông Mê kông đã tạo ra nhiều dạng sinh cảnh tự nhiên, thay đổi từ các
bãi thuỷ triều, giồng cát và đầm lầy ngập triều ở vùng đồng bằng ven
biển, các vùng cửa sông, cho đến vùng ngập lũ, các khu trũng rộng, đầm
lầy than bùn, các dải đất cao phù sa ven sông và bậc thềm phù sa cổ
nằm sâu trong nội địa. Các vùng đất ngập nước bị ngập theo mùa hoặc
thường xuyên chiếm một diện tích lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Những vùng này có chức năng kinh tế và sinh thái quan trọng. Các vùng
đất ngập nước là một một trong những hệ sinh thái tự nhiên phong phú
nhất. Mặt khác, chúng cũng là những hệ sinh thái vô cùng nhạy cảm dễ
bị tác động và không thể được do quản lý. Áp lực dân số và hậu quả của
chiến tranh đã thúc đẩy nhanh sự suy thoái, sự xáo trộn và phá hoại các
hệ sinh thái tự nhiên của Đồng bằng sông Cửu Long. Việc quy hoạch và
quản lý đúng đắn là hết sức cần thiết để chặn đứng xu thế này và để thực
hiện một tiến trình khôi phục và duy trì sự cân bằng sinh thái. Trong các
vùng đất ngập nước ở Đồng bằng sông Cửu Long, có thể xác định được

3 hệ sinh thái tự nhiên. Tất cả các hệ sinh thái này đều rất “nhạy cảm” về
môi trường. Những nét đặctrưng chủ yếu của 3 hệ sinh thái như sau:
+Hệ sinh thái rừng ngập mặn:
Rừng ngập mặn nằm ở vùng rìa ven biển trên các bãi lầy mặn. Các rừng
này đã từng bao phủ hầu hết vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long
nhưng nay đang biến mất dần trên quy mô lớn. Trong số các rừng ngập
mặn còn lại, trên 80% (khoảng 77.000 ha) tập trung ở tỉnh Bạc Liêu và
Cà Mau.
+Hệ sinh thái đầm nội địa (rừng Tràm):
Trước đây rừng Tràm đã từng bao phủ một nửa diện tích đất phèn. Hiện
nay chỉ còn lại trong khu vực đất than bùn U Minh và một số nơi trong
vùng đất phèn ở Đồng Tháp Mười và đồng bằng Hà Tiên là những nơi bị
ngập theo mùa. Rừng Tràm rất quan trọng đối với việc ổn định đất, thuỷ
văn và bảo tồn các loại vật. Rừng Tràm thích hợp nhất cho việc cải tạo
các vùng đất hoang và những vùng đất không phù hợp đối với sản xuất
nông nghiệp như vùng đầm lầy than bùn và đất phèn nặng. Cây tràm
thích nghi được với cácđiều kiện đất phèn và cũng có khả năng chịu
được mặn.
+Hệ sinh thái cửa sông:
Cửa sông là nơi nước ngọt từ sông chảy ra gặp biển. Chúng chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi các thuỷ triều và sự pha trộn giữa nước mặn và
nước ngọt. Cửa sông duy trì những quá trình quan trọng như vận chuyển
chất dinh dưỡng và phù du sinh vật, du đẩy các ấu trùng tôm cá, xác bồi
động thực vật và nó quyết định các dạng trầm tích ven biển. Hệ sinh thái
cửa sông nằm trong số các hệ sinh thái phong phú và năng động nhất
trên thế giới. Tuy nhiên chúng rất dễ bị ảnh hưởng do ô nhiễm môi
trường và do các thay đổi của chế độ nước (nhiệt độ, độ mặn, lượng phù
sa), những yếu tố có thể phá vỡ hệ sinh thái này
Nhiều loài tôm cá ở Đồng bằng sông Cửu Long là những loài phụ thuộc
vào cửa sông. Mô hình di cư và sinh sản của các loài này chịu ảnh

hưởng mạnh mẽ của chế độ sông và thuỷ triều, phụ thuộc rất nhiều vào
môi trường cửa sông.
-Hệ động vật.
Hệ động vật ở Đồng bằng sông Cửu Long gồm 23 loài có vú, 386 loài và
bộ chim, 6 loài lưỡng cư và 260 loài cá. Số lượng và tính đa dạng của hệ
động vật thường lớn nhất trong các khu rừng tràm và rừng ngập mặn còn
lại. Sự sống còn của các quần hệ động vật có vú đang bị đe doạ bởi săn
bắn, đánh bẫy và sự phá huỷ liên tục nơi cư trú. Chúng tập trung chủ yếu
trong những khu rừng tự nhiên (rừng U Minh và Bảy Núi). Đồng bằng
sông Cửu Long là một vùng trú đông quan trọng đặc biệt đối với các loài
chim di trú. Trong những năm gần đây, bảy khu vực sinh sản lớn của các
loài diệc, vòvằn, cò trắng và vạc đã được phát hiện trong các khu rừng
tràm, loài sếu mỏ đỏ phương đông, gần đây đã dược phát hiện ở huyện
Tam Nông trong Đồng Tháp Mười. Trong khu bảo tồn Tràm Chim có 92
loài chim đã được xác định. Trong vùng rừng U Minh, có 81 loài chim
đã được ghi nhận. Những vùng ngập nước ở Đồng bằng sông Cửu Long
cũng là nơi cư trú của các loài bò sát và động vật lưỡng cư. Nhiều loài
động vật có vú, chim, bò sát và động vật lưỡng cư bị đánh bắt phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng.
h) Khoáng sản
Có triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và
Vịnh Thái Lan gồm các bể trầm tích sau:-Bể trầm tích Cửu Long: thềm
lục địa tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long ở
phía Nam. Dự báo khoảng 2 tỷ tấn dầu quy đổi Bể trầm tích Nam Côn
Sơn: Tiềm năng dự báo địa chất khoảng 3 tỷ tấn dầu quy đổi Bể trầm
tích Thổ Chu –Mã Lai thuộc Vịnh Thái Lan có trữ lượng dự báo không
lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu. Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến
440 triệu tấn. Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m3. Sét gạch ngói
có trữ lượng đến 40 triệu m3. Cát sỏi có trữ lượng đến 10 triệu m3/năm
Than bùn có lượng 370triệutấn, trong đó U Minh khoảng 300 triệu tấn

Nước khoáng có ở Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Minh
Hải.
2.Kinh tế xã hội
a) Dân số
Dân tộc: ĐBSCL gồm có 53 dân tộc cùng chung sống với nhau. Nhiều
nhất là dân tộc Kinh (chiếm 92,0% dân số của cả vùng), kế đến là dân
tộc Khơ-me (6,0%), Hoa (1,0%: 177.178 người), Chăm (15.823 người)
và một số dân tộc thiểu số khác (chiếm không quá 2%). Đồng bào Khơ-
me, Chăm và nhiều DTTS khác chủ yếu sống ở nông thôn. Người Hoa
tập trung sống ở thành thị, với tỷ lệ cao hơn hẳn mọi dân tộc khác: 59%,
so với tỷ lệ dân thành thị của Vùng: 21,2%.(năm 2009)
Năm 2009 dân số toàn vùng đạt 17,21 triệu người . Mật độ dân số: 425
người/km
2
, tỷ lệ nữ giới chiếm 50,9%, tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành
thị là 21,2% (năm 2009). ĐBSCL là một trong 2 vùng có mức sinh thấp
nhất TFR: 1,84 con/phụ nữ. Tỷ số giới tính khi sinh của ĐBSCL ở mức
trung bình nhưng vẫn là đáng lo ngại khi SRB là 109,9.
Cơ cấu độ tuổi của vùng ĐBSCL có tỷ trọng trong độ tuổi lao động 15-
59 cao: 67,6%, vừa là một lợi thế so với toàn bộ vùng nông thôn cả
nước: 65,4%, đồng thời cũng tạo ra áp lực lớn trong vấn đề giải quyết
việc làm. Tỷ lệ độ tuổi 0-14 của vùng thấp hơn nông thôn toàn quốc
(21,5% so với 23,8%) và tỷ lệ trên 60 tuổi là tương đương (10,9%). Cơ
cấu độ tuổi như vậy cho thấy chi phí xã hội dành cho giáo dục và y tế
của vùng có thể thấp hơn nông thôn cả nước.
b) Nông nghiệp
Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của cả
nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích
nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng
thủy sản của cả nước. Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Long

An, Đồng Tháp, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm
hơn 50% so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2.3 lần so
với lương thực trung bình cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu
Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước. Ngoài ra cây ăn quả
còn đặc sản nổi tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng, cũng như
chất lượng ngày càng được nâng cao Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh.
Nuôi nhiều ở Đồng tháp, Hậu Giang, Bạo Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng Sản
lượng thủy sản chiếm 50 % nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang, An Giang . Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản
đang phát triển mạnh, theo quy mô công nghiệp Tài nguyên rừng cũng
giữ những vai trò quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven
biển, trong đó hệ thống rừng ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là
khu dự trữ sinh quyển thế giới, bên cạnh đó là những cánh rừng tràm U
Minh Cà Mau, Đòng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng
c) Công nghiệp
Những năm gần đây, công nghiệp trong vùng Đồng bằng sông Cửu
Long có tốc độ phát triển cao, bình quân tăng 21,8%. Đến đầu năm
2009, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 99.966 cơ sở sản xuất công
nghiệp nông thôn, tăng 15.931 cơ sở so với năm 2005. Trong đó tăng
nhiều nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (tăng 15.902 cơ sở),
chủ yếu là kinh tế cá thể (13.934 cơ sở). Kinh tế có vốn dầu tư nước
ngoài tăng bình quân 21,7%/năm nhưng số lượng còn hạn chế (đến cuối
năm 2008 có 83 cơ sở). Toàn vùng hiện có 65 Khu công nghiệp được
quy hoạch với diện tích 26.511ha, trong đó có 52 khu đang hoạt động
với diện tích 16.594 ha, thu hút 574 dự án đầu tư (có 140 dự án đầu tư
nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 2,795 tỷ USD. Tổng số cụm công
nghiệp đã được quy hoạch là 206 cụm, diện tích 33.044 ha, trong đó có
67 cụm đang xây dựng với tổng diện tích 9.754 ha. Hiện có 32 cụm đã đi
vào hoạt động với tổng diện tích 3.816 ha, tổng vốn đầu tư 46.373 tỷ
đồng, thu hút 109 dự án trong đó có 3 dự án có vốn đầu tư nước ngoài,

tạo việc làm cho 52.400 lao động.
Chế biến thủy sản xuất khẩu là ngành công nghiệp mũi nhọn, luôn chiếm
tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng cao nhất trong cơ cấu công nghiệp trong
vùng. Tòan vùng hiện có 133 nhà máy chế biến thủy sản với tổng công
suất trên 690.000T/năm. Sản phẩm chủ yếu là cá tra fillet, tôm đông
lạnh, mực, sản lượng năm 2008 đạt khoảng 597.600T, tăng bình quân
21% trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2008.
Chế biến rau quả cũng là thế mạnh của vùng với sản lượng rau quả đóng
hộp đạt 14.709T năm 2008. Trong đó doanh nghiệp có quy mô lớn nhất
là Công ty CP rau quả Tiền Giang có tổng công suất chế biến rau quả
hộp, đông lạnh, cô đặc khoảng 15.000 T/năm.
Ngành xay xát lương thực là ngành nghề truyền thống trong vùng, số cơ
sở xay xát phân bố đều khắp các tỉnh, thành phố với nhiều loại máy có
công suất khác nhau phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sản
lượng xay xát năm 2009 đạt 7.883.000T.
Các sản phẩm công nghiệp nông thôn của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long rất đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại. Ngoài các sản
phẩm đặc trưng, chủ lực của toàn vùng như: chế biến thủy sản, chế biến
rau quả, chế biến gạo xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
công nghiệp toàn vùng, mỗi tỉnh đều có những sản phẩm đặc trưng như:
rượu đế Gò Đen (Long An); bánh phồng Cái Bè, hủ tiếu Mỹ Tho, Mắm
tôm chà Gò Công (Tiền Giang); kẹo dừa, bánh tráng Mỹ Lòng, Bánh
phồng Sơn Đốc (Bến Tre); Khô, mắm và đồ mộc (An Giang); Than
đước, ghe xuồng (Hậu Giang); Bánh pía, lạp xưởng (Sóc Trăng)

Nhà máy chế biến tôm đông lạnh ở ĐBSCL
d) Du lịch
ĐBSCL là khu vực có tiềm năng về du lịch, độc đáo, không giống với
vùng miền nào của cả nước. Nơi đây, cảnh quan sinh thái đặc trưng là
đồng bằng và biển đảo, một vùng sông nước hữu tình và quyến rũ, cây

trái bốn mùa trĩu quả, môi trường trong lành, tài nguyên thiên nhiên
phong phú kết hợp với tinh hoa văn hóa, lịch sử của cộng đồng 4 dân tộc
anh em: Kinh, Hoa, Khmer, Chăm; với nhiều lễ hội dân gian truyền
thống mang bản sắc văn hóa độc đáo và “tính cách con người Phương
Nam” luôn thể hiện sự “hiền hòa, hiếu khách, phóng khoáng và hòa
hiệp” là những sản du lịch thật sự thú vị.
Dòng sông Mêkong bồi đắp phù sa màu mỡ cho ĐBSCL, với 2 nhánh
sông chính là sông Tiền và sông Hậu, hệ thống kênh rạch chằng chịt
giao thoa cùng núi rừng, biển đảo đã hình thành một vùng sinh thái đa
dạng, tạo nên những cảnh quan đặc sắc, hùng vĩ, chứa bao điều kỳ thú
mời gọi du khách gần xa. Đó là: rừng dừa Bến Tre màu xanh đam mê
cho trái xum xuê với nhiều sản phẩm từ dừa; tràm chim Tam Nông, làng
nghề hoa kiểng Sa Đéc (Đồng Tháp) nổi tiếng; chợ nổi Cần Thơ- Tiền
Giang với hàng ngàn loại trái cây; biển đảo Hà Tiên và Phú Quốc (Kiên
Giang) với hàng trăm đảo nhấp nhô giữa biển khơi gió lộng; phong cảnh
Thất sơn Bảy núi (An Giang); rừng đước Năm Căn, đất mũi Cà Mau đã
đi vào lịch sử như một huyền thoại; đặc biệt là những cánh đồng lúa
vàng mênh mông như thảm lụa, những xóm thôn ấm áp bên các dòng
kênh dài như vô tận, hòa quyện với một không gian sông nước ngút
ngàn, thơ mộng… cuốn hút và hấp dẫn du khách.
3. Hệ thống giao thông
a) Đường bộ
Đường bộ: Mạng lưới giao thông đường bộ khu vực ĐBSCL có
47.202,74 km đường bộ trong đó: quốc lộ: 1.960,23 km, tỉnh lộ:
3.720,57km, đường huyện: 8.402,45 km, đường xã: 33.119,49 km.
Tuyến đường huyết mạch của vùng ĐBSCL là quốc lộ 1A.
Quốc lộ 50: Cần Giuộc - Mỹ Tho dài 78,3 km, nằm trong vùng lũ 12
km.
- Quốc lộ 60: Tiền Giang - Sóc Trăng dìa 127 km, nằm trong vùng lũ 41
km.

- Quốc lộ 80: Mỹ Thuận - Hà Tiên dài 210,7 km. Đoạn Lộ Tẻ - Rạch Sỏi
và Rạch Sỏi - Hà Tiên cắt ngang hướng thoát lũ nên cần bố trí cầu cống
đường tràn.
- Quốc lộ 61: Nằm toàn bộ trong vùng chịu ảnh hưởng của lũ dài 96,1
km, từ ngã 3 Cái Tắc (Quốc lộ 1 - Cần Thơ) đến quốc lộ 80.
- Quốc lộ 62: Từ Tân An - Vĩnh Hưng (giáp Campuchia) dài 92,5 km.
- Tuyến TL 29: Từ Cai Lậy qua QL 1 đi dọc kênh 12 qua Tân Thạnh,
Mộc Hoá đến Bình Châu nối với QL 62 dài 38 km.
- Tuyến dọc kênh Phước Xuyên: Bắt đầu tư Cái Bè dọc kênh 28 qua Mỹ
An đi dọc kênh Phước Xuyên và Rạch Cái đến Thông Bình và nối vào
tuyến N1 dài 80 km.
- Quốc lộ 30: Từ ngã ba An Hữu đi Campuchia dài 119,6 km, tuyến này
cắt ngang hướng lũ tràn vào Đồng Tháp Mười. Vì vậy bố trí cầu, cống
thoả mãn yêu cầu của bài toán thủy lực.
- TL 888: Đề nghị nâng thành quốc lộ tờ Vĩnh Long qua sông Cổ Chiên
sang Bến Tre cắt QL 60 ở Mỏ Cày dài 125 km. Trước mắt đề nghị
chuyển bến phà Rạch Miễu lên phía trên tại Phú Túc. Khi có điều kiện
sản xuất xây cầu qua Sông Tiền tại Phú Túc nối Bến Tre với Tiền Giang.
- QL 91: Từ Cần Thơ - Tịnh Biên dài 142,1 km, trong đó dọc Châu Đốc
- Tịnh Biên dài 17 km.
- QL 63: Từ Gò Quao qua Vĩnh Thuận đến Cà Mau dài 79 km.
- QL 53: Từ Vĩnh Long - Long Toàn (Duyên Hải - Trà Vinh) dài 114
km.
- QL 54: Từ phà Vàm Cống đến Trà Vinh dài 153 km.
- Tuyến Cần Thơ - Tân Hiệp - Tri Tôn - Tịnh Biên nối vào N1 dài 142
km.
b) Đường thủy
. Đồng bằng sông Cửu Long nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng,
mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông
thuỷ vào bậc nhất so với các vùng ở nước ta.

Hệ thống kênh ở ĐBSCL có chiều dài trên 28.550km, trong đó khoảng
13.000km có thể phát triển cho mục đích vận tải thủy. So với mạng lưới
đường bộ, mật độ của các tuyến đường thủy cao gấp 3 lần và chiếm gần
70% tổng lượng hàng hóa vận chuyển hàng năm.
Tuy nhiên, ở ĐBSCL hệ thống cảng chủ yếu là các cảng đường thủy nội
địa nhỏ. Toàn vùng hiện có 2.167 cảng sông và bến xếp dỡ do nhà nước
quản lý. Trong đó, có 1.404 cảng, bến có công suất xếp dỡ nhỏ hơn
10.000 tấn/năm; khoảng 171 cảng và bến có thể xếp dỡ từ 10.000 tấn
đến 100.000 tấn/năm; chỉ có 151 bến có thể xếp dỡ hơn 100.000
tấn/năm.

Trong đó có các cảng trọng điểm tại khu vực sông Tiền là cảng Cao
Lãnh – Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp), Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang), Vĩnh Thái
(tỉnh Vĩnh Long), Hàm Luông (tỉnh Bến Tre) và một số cảng chuyên
dùng khác ven sông Tiền có khả năng cho tàu có tải trọng 5.000 tấn vào
bốc dỡ hàng.
Các cảng trọng điểm loại I khu vực sông Hậu gồm cảng Cái Cui, Trà
Nóc, Cần Thơ (thuộc thành phố Cần Thơ), Mỹ Thới (tỉnh An Giang),
Đại Ngãi (tỉnh Sóc Trăng), Trà Cú (tỉnh Trà Vinh) và một số cảng
chuyên dùng khác ven sông Hậu có khả năng cho tàu có tải trọng từ
10.000 – 20.000 tấn cập cảng bốc dỡ hàng. Ngoài ra, sẽ nâng cấp, xây
dựng mới các cảng biển loại II thuộc khu vực bán đảo Cà Mau và ven
biển khu vực vịnh Thái Lan như cảng tổng hợp Năm Căn (tỉnh Cà Mau),
cảng Hòn Chông, Bãi Nò, Bình Trị và một số cảng chuyên dùng bên bờ
biển Tây thuộc tỉnh Kiên Giang có khả năng cho tàu có tải trọng từ
5.000 – 10.000 tấn cập vào bốc dỡ hàng. Một số cảng có công suất vận
chuyển tương đương loại II hoặc nhỏ hơn như cảng Cà Mau (tỉnh Cà
Mau), Giao Long ( Bến Tre), Long Đức (Trà Vinh), An Phước (Vĩnh
Long), Sa Đéc (Đồng Tháp), Bình Long (An Giang), Tắc Cậu (Kiên
Giang) cũng được xây dựng.

Trong các cảng nói trên, nhóm cảng tại Cần Thơ được xem là cụm
cảng chính của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là đầu mối thương
mại, hàng hải phục vụ trực tiếp cho tiểu vùng Tây sông Hậu, tiểu vùng
giữa sông Tiền và sông Hậu. Hiện tại các cảng thuộc nhóm cảng chính là
cảng biển Cái Cui (Cần Thơ) đã được xây dựng mới, đến nay đã hoàn
thành giai đoạn một. Đây là cảng lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Khi hoàn thành, tàu có tải trọng 20.000 tấn có thể cập cảng. Hai cảng
Cần Thơ, Trà Nóc (cũng tại thành phố Cần Thơ) đã xây dựng cầu cảng
mới dài 90 mét, mở rộng kho bãi tăng thêm 12.000 m2, trong đó có bãi
chứa container rộng 9.000 m2. Hiện tàu có tải trọng 10.000 tấn có thể
cập cảng. Việc vận chuyển hàng hóa thông qua hai cảng này tiết kiệm 5
– 7 USD/ tấn so với vận chuyển tại các cảng thuộc khu vực Thành phố
Hồ Chí Minh./.
c)Đường hàng không
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long không có đường sắt, có 2 sân bay Trà
Nóc (Cần Thơ) và Phú Quốc (Kiên Giang) là đáng kể, còn lại sân bay
nhỏ.
4.Khó khăn và hạn chế
- Trừ diện tích khoảng 30% rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
diện tích còn lại như diện tích đất phèn 1,6 triệu ha, đất xám 134.000 ha,
nhìn chung là khó khăn cho phát triển nông nghiệp. Ngoài ra so nền đất
yếu cho nên rất khó khăn cho công tác xây dựng cơ bản.
- Đồng bằng sông Cửu Long chia 2 mùa rõ rệt, gắn chặt với chế độ thuỷ
văn, mùa khô gắn với xâm nhập mặn ở vùng ven biển với diện tích mặn
0,75 triệu ha.
Mùa mưa gắn với lũ lụt. Diện tích bị lũ lụt đã lên tới gần 2 triệu ha
khoảng 50% diện tích thuộc 8 tỉnh, tình trạng ngập lụt bắt đầu tháng 7 và
kết thúc vào tháng 12. Độ sâu thường 0,5 m đến 4m, trong đó diện tích
ngập trên 1m vào năm lũ lớn tới 1 triệu ha.
-Tuy nền kinh tế trong những năm qua có chuyển biến, theo hướng công

nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng lên và nông nghiệp có xu hướng
giảm, nhưng nhìn vào cơ cấu kinh tế ta thấy rõ kinh tế nông nghiệp vẫn
là cơ bản. Lao động làm việc trong ngành công nghiệp còn quá lớn
chiếm 73% mức thu nhập của vùng nông thôn thấp hơn mức trung bình
cả nước.
-Công nghiệp phát triển chậm, yếu kém và thiết bị, kỹ thuật và công
nghệ nhất là công nghiệp ngoài quốc doanh, lao động công nghiệp nhìn
chung không được đào tạo chính quy, lao động chủ yếu thợ thủ công,
mức độ cơ giới hoá thấp, chỉ có 4 - 5% lao động có trình độ đại học chủ
yếu làm nhiệm vụ quản lý. Công nghiệp nông thôn chưa có định hướng,
hình thành tự phát, sản xuất thô sơ đơn giản.
-Chênh lệch về kinh tế - xã hội của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long với
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam rất lớn GDP/người hiện nay chiếm
khoảng 1/3. Nếu Đồng bằng sông Cửu Long kinh tế kém phát triển hoặc
có phát triển nhưng vấn đề xã hội còn yếu kém thì không tránh khỏi
dòng người sẽ đổ về phía Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh khác trong Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
5.Giải pháp phát triển Đồng bằng sông Cửu Long
Tăng cường kết cấu hạ tầng, trước hết là mạng lưới đường bộ gắn với
mạng giao thông đường thuỷ cùng với việc nâng cấp quốc lộ 1A và xây
dựng cầu Cần Thơ, Mở rộng thêm tuyến để giải toả ách tắc giao thông.
Nạo vét luồng lạch, đặc biệt là luồng Định An, cửa Tiền, cửa Trần Đề,
Nâng cấp và xây dựng một số cảng sông. Nâng cấp các sân bay trong
vùng.
Nâng cấp các quốc lộ đến tỉnh lỵ, mở thêm tuyến dọc biên giới Tây
Nam. Xây dựng đường giao thông ở các vùng nông thôn, xoá cơ bản cầu
khỉ. Có biện pháp hạn chê tác hại của lũ lụt hàng năm, bảo vệ môi
trường sinh thái, môi trường sống, quy hoạch và xây dựng nhà ở trong
các vùng lũ lụt.
Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống cấp thoát nước cho các khu đô

thị, các khu công nghiệp. Thực hiện chương trình nước sạch và vệ sinh
môi trường nông thôn, xử lý môi trường ô nhiễm ở các khu dân cư tập
trung và dọc các kênh rạch. Phát triển công nghiệp chế biến lương thực,
thực phẩm, công nghiệp may mặc, dệt, da giầy, chế biến thức ăn gia súc,
cơ khí, vật liệu xây dựng.
Phát triển các khu công nghiệp hiện có, Triển khai xây dựng các cụm
công nghiệp sử dụng khí Tây Nam, xây dựng các khu, cụm công nghiệp
ở các địa bàn thích hợp,
Ổn định diện tích trồng lúa. Coi trọng thâm canh, nghiên cứu chuyển
đổi vụ mùa một số loại cây trồng để phòng tránh lũ lụt, hạn hán. Hình
thành các vùng chuyên canh lúa đặc sản và một số cây công nghiệp ngắn
ngày có năng suất, chất lượng cao. Tập trung khai thác vùng tứ giác
Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Tây sông Hậu và bán đảo Cà Mau.
Khôi phục tuyến rừng bảo vệ bờ biển: giữ vững diện tích cây tràm, ổn
định diện tích dừa nước, bảo vệ rừng ngập mặn và rừng phòng hộ Bảy
Núi. Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển phía Đông và phía Tây, các
công trình ngăn mặn, thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh
ngành khai thác và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt
là tôm, cua các loại đặc sản khác để có thể đóng góp 50% giá trị xuất
khẩu thuỷ, hải sản của cả nước.
Phát huy thế mạnh kinh tế của đảo Phú Quốc và Thổ Chu. Xây dựng
và phát huy vai trò trung tâm kinh tế - văn hóa vùng của thành phố Cần
Thơ. Xây dựng mới kết hợp với nâng cấp hệ thống các trường học, bệnh
viện, nhà văn hoá. Đầu tư nâng cấp trường Đại học Cần Thơ, hình thành
một số trường ở các tỉnh có điều kiện. Tập trung sức nâng cao dân trí và
đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng.

×