BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
KHOA KINH TẾ
---------- --------ThS: Lê Xn Hương
GIÁO TRÌNH
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
DÙNG CHO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC – KHỐI NGÀNH KINH TẾ
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
QUẢNG NINH - 2014
MỤC LỤC
Lời nói đầu ................................................................................................................ 1
Chương 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ ......................................... 3
A. Đại cương về tiền tệ ............................................................................................. 3
1.1 Bản chất tiền tệ ..................................................................................................... 3
1.2 Các chức năng của tiền tệ ..................................................................................... 8
1.3 Vai trò của tiền tệ ............................................................................................... 10
1.4 Giấy bạc ngân hàng Việt Nam............................................................................ 11
1.5 Cung và cầu tiền tệ ............................................................................................. 13
1.6 Lạm phát ............................................................................................................. 19
B. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH ........................................................................... 32
1.7 Tổng quan về tài chính ....................................................................................... 32
1.8 Hệ thống tài chính .............................................................................................. 34
Chương 2: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC................................................................... 40
2.1 Những vấn đề cơ bản của ngân sách nhà nước .................................................. 40
2.2 Thu ngân sách nhà nước ..................................................................................... 43
2.3 Chi ngân sách nhà nước ...................................................................................... 50
2.4 Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước56
2.5 Năm ngân sách và chu trình ngân sách .............................................................. 57
Chương 3: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP............................................................. 59
3.1 Những vấn đề chung về tài chính doanh nghiệp ................................................ 59
3.2 Tổ chức tài chính doanh nghiệp ......................................................................... 61
3.3 Những nội dung chủ yếu của hoạt động tài chính doanh nghiệp ....................... 63
Chương 4: TÍN DỤNG ............................................................................................. 76
4.1. Tín dụng ............................................................................................................. 76
4.2 Lãi suất tín dụng ................................................................................................. 84
Chương 5: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ............ 91
5.1. Ngân hàng trung ương ....................................................................................... 91
5.2. Chính sách tiền tệ .............................................................................................. 97
Chương 6: CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN .................................... 105
6.1. Những vấn đề chung về tổ chức tài chính trung gian ...................................... 105
6.2. Các loại hình trung gian tài chính.................................................................... 107
6.3. Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh tài chính, tiền tệ ............................... 131
Chương 7: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ................................................................ 137
7.1 Những vấn đề chung về thị trường tài chính .................................................... 137
7.2 Thị trường tiền tệ .............................................................................................. 146
7.3 Thị trường vốn .................................................................................................. 149
7.4 Thị trường chứng khoán ................................................................................... 152
Chương 8: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ ....................................................................... 157
8.1 Những vấn đề chung về tài chính quốc tế ........................................................ 157
8.2 Các hình thức chủ yếu của tài chính quốc tế .................................................... 160
8.3 Cán cân thanh toán quốc tế ............................................................................... 168
8.4 Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đối ............................................................ 171
8.5 Các tổ chức tài chính quốc tế............................................................................ 178
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 183
LỜI NĨI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang dần hồn thiện những đặc điểm của một nền kinh tế
tiền tệ. Trong đó, những hoạt động tài chính đóng vai trị kết nối chặt chẽ các chủ thể
kinh tế với nhau và qua đó quyết định đến hiệu quả của các chu chuyển kinh tế cũng
như của sự phân bổ nguồn lực xã hội. Thông qua mối quan hệ này, mỗi sự thay đổi của
các điều kiện tài chính của nền kinh tế sẽ dẫn đến những thay đổi tương ứng của các
biến số vĩ mô theo những quy luật nhất định với những điều kiện nhất định. Việc nắm
được bản chất của mối quan hệ này sẽ giúp hiểu được quy luật vận động khách quan
của nền kinh tế tiền tệ, để từ đó có những tác động thích hợp trong khi thực hiện
những mục tiêu cụ thể. Hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mơ thơng qua việc tác
động vào các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: lãi suất, tỷ giá hay khối lượng tiền trong lưu
thơng phụ thuộc vào sự phân tích những quan hệ mang tính quy luật này trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Giáo trình tài chính - tiền tệ hệ thống hóa những kiến thức nền tảng trong lĩnh
vực tài chính và tiền tệ, là tài liệu hữu ích cho các sinh viên thuộc khối ngành kinh tế.
Giáo trình đã cố gắng trình bày một cách khách quan và có hệ thống các khái niệm và
bản chất vận động của tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, hoạt động ngân sách nhà nước, hoạt
động của ngân hàng trung ương hay các tổ chức tài chính trung gian…
Tác giả đã cố gắng trong q trình biên soạn theo tinh thần cơ đọng, dễ hiểu và
cập nhật hệ thống lý luận hiện đại, tuy nhiên khó tránh khỏi thiếu sót, vì vậy mong
nhận được ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc nhằm xây dựng một cuốn giáo trình
có chất lượng, đảm bảo tính logic, khoa học cho lần tái bản tới.
Tác giả
1
2
Chương 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ
A. ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TỆ
1.1. Bản chất của tiền tệ
1.1.1. Sự ra đời của tiền tệ
Sự phát triển không ngừng các hoạt động kinh tế dưới những hình thức khác
nhau là động lực cho sự ra đời và phát triển của hệ thống tiền tệ. Quá trình ra đời của
tiền tệ có thể chia thành hai giai đoạn: trao đổi trực tiếp và trao đổi gián tiếp.
a. Trao đổi hàng hóa trực tiếp là quá trình trao đổi diễn ra giữa hàng và hàng
Điều kiện tiên quyết của quá trình trao đổi này là phải có sự trùng hợp kép về
nhu cầu giữa người tham gia trao đổi, về thời gian, địa điểm trao đổi cũng như giá trị
sử dụng của hàng hóa có nhu cầu trao đổi. Khả năng thực hiện các cuộc trao đổi này là
rất ít vì chi phí cơ hội rất cao (chi phí thời gian, chi phí đợi chờ và chi phí tìm kiếm tác
nhân thỏa mãn nhu cầu trao đổi…). Tính chất ngẫu nhiên của quá trình trao đổi làm
tốn thời gian và nguồn lực của cộng đồng, là cản trở lớn cho sự phát triển sản xuất xã
hội. Mặt khác, khi năng suất lao động không ngừng tăng cao, việc phân công lao động
xã hội ngày càng mở rộng thì khối lượng sản phẩm tham gia trao đổi ngày càng tăng
về khối lượng, mở rộng về phạm vi và đa dạng hóa về mối quan hệ. Để đổi được sản
phẩm theo yêu cầu, những người tham gia trao đổi phải thực hiện nhiều cuộc trao đổi
trung gian. Số lần trao đổi trung gian tỷ lệ thuận với số lượng sản phẩm tham gia trao
đổi. Hình thức trao đổi trực tiếp cịn gây khó khăn cho việc xác định giá trị tương đối
của hai loại hàng hóa tham gia trao đổi để hình thành tỷ lệ chuyển đổi cũng như việc
xác định tiền lẻ trả lại khi giá trị hai hàng hóa tham gia trao đổi khơng tương xứng về
mặt giá trị. Vì thế q trình trao đổi nhiều khi khơng được thực hiện trên cơ sở ngang
giá. Như vậy, hình thức hàng đổi hàng có thể cho phép một người có được loại hàng
hóa và dịch vụ mà anh ta khơng có kỹ thuật hoặc thời gian để tự sản xuất, nhưng
chúng cũng gây nhiều phiền hà làm cho hoạt động thương mại - do đó mà hoạt động
sản xuất xã hội chậm và không hiệu quả. Điều này làm xuất hiện một nhu cầu cấp bách
mang tính tự phát là phải có một hình thức trao đổi khác, đỡ tốn kém hơn và thuận lợi
hơn thích ứng với q trình chun mơn hóa ngày càng trở nên sâu sắc.
b. Trao đổi gián tiếp thông qua vật môi giới trung gian
Một vật được chấp nhận làm môi giới trung gian trong trao đổi và là phương
tiện thanh tốn các khoản nợ thì được coi là tiền tệ.
Sự xuất hiện vật môi giới trung gian trong trao đổi đã làm cho quá trình trao đổi
thuận tiện hơn; yêu cầu phải có sự trùng hợp kép về nhu cầu trở nên khơng cần thiết.
Những người có nhu cầu trao đổi hàng hóa chỉ cần đổi hàng hóa của mình ra tiền tệ và
sử dụng chúng để đổi lấy hàng hóa cần thiết. Sở dĩ họ có thể làm như vậy vì tiền tệ có
đặc tính trước hết là được chấp nhận chung làm phương tiện trao đổi cho cả thế giới
hàng hóa. Nhờ đó, tiền tệ góp phần tăng nhanh tốc độ trao đổi hàng hóa, tiết kiệm chi
phí trao đổi, đẩy mạnh q trình chun mơn hóa và hiệu quả sản xuất xã hội. u cầu
của việc hồn thiện trao đổi hàng hóa và sự thay đổi của các điều kiện trao đổi là lý do
của sự phát triển các hình thái tiền tệ trong lịch sử lưu thông tiền tệ.
3
1.1.2. Bản chất của tiền tệ
Quốc gia nào cũng có đồng tiền riêng, lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ đã
được ghi nhận từ những hoạt động sớm nhất của con người. Ở cuối thời kỳ công xã
nguyên thủy, chế độ tư hữu xuất hiện, sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền tệ đã xuất
hiện, việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng đổi hàng hoặc có thể mua
bán thơng qua tiền tệ.
Nhưng bản chất của tiền là gì?
Tiền có biểu hiện ở rất nhiều thứ khác nhau. Đối với hầu hết các dân tộc, tiền là
những đồng xu bằng kim loại, những tờ giấy bạc, những tấm thẻ hoặc là những khoản
tiết kiệm ở ngân hàng. Nhưng đối với một số dân tộc trong quá khứ không xa lắm,
tiền là những chuỗi hạt, vỏ ốc, đá, hạt ca cao… vì đó là những vật họ cho là có giá trị.
Các dân tộc đã từng coi những vật như vậy là tiền bởi vì chúng đều là những phương
tiện được thừa nhận và thỏa thuận trong thanh toán.
Lịch sử phát triển tiền tệ đã chứng minh rằng tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền
kinh tế hàng hóa. Suy cho cùng, về bản chất, tiền tệ là vật ngang giá chung, làm
phương tiện để trao đổi hàng hóa dịch vụ và thanh tốn các khoản nợ.
1.1.3. Sự phát triển các hình thái tiền tệ
a. Tiền dưới dạng hàng hóa (hóa tệ)
- Hóa tệ phi kim loại
Vào cuối thời kỳ La Mã cổ đại, các hàng hóa thơng thường có tần số trao đổi
nhiều nhất được lựa chọn một cách tự phát làm môi giới trung gian trong trao đổi.
Trong những thời kỳ và ở những địa phương khác nhau, những loại hàng hóa khác
nhau được lựa chọn làm phương tiện trao đổi: gạo, vải, muối, gia súc, thuốc lá, dầu
oliu, hạt cacao… Tuy nhiên quá trình sử dụng loại tiền hàng hóa này dần bộc lộ những
hạn chế:
+ Khó khăn trong việc chia nhỏ để trả lại tiền lẻ;
+ Bị ảnh hưởng mạnh bởi điều kiện tự nhiên;
+ Không thuận tiện trong di chuyển giữa các vùng khác nhau.
Vì vậy, hóa tệ phi kim loại dần biến mất và được thay thế bằng hóa tệ kim loại.
- Hóa tệ kim loại
Xã hội càng phát triển, yêu cầu sản xuất trao đổi hàng hóa ngày càng cao, việc
trao đổi hàng hóa khơng chỉ diễn ra trong một địa phương, một quốc gia mà đã phát
triển giữa những quốc gia với nhau, hình thức hóa tệ phi kim loại ngày càng tỏ ra
khơng thuận tiện trong việc di chuyển. Vì vậy, phải tìm một vật ngang giá chung thuận
tiện và dễ di chuyển, dễ trao đổi hơn. Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần
thứ hai - thủ công nghiệp tách khỏi nơng nghiệp - hình thức tiền tệ chuyển dần sang
các kim loại. Kim loại dùng làm tiền dưới dạng thỏi (tiền đúc).
Bạc được sử dụng để đúc tiền từ năm 700 trước Cơng Ngun bởi người Lydia
(ở phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Các đồng tiền vàng đầu tiên được người Lydia
đúc từ vàng trong thời gian giữa năm 640 và 600 trước Cơng Ngun, có nhiều kích
thước và giá trị khác nhau và được dùng như là một phương tiện thanh tốn, để đơn
giản hóa việc trả lương cho những người lính đánh thuê. Một lượng vàng nhất định
4
được nấu chảy thành đồng tiền và sau đó hình của nhà vua được dập nổi lên trên. Các
đồng tiền kim loại này đã làm cho hoạt động thương mại dễ dàng hơn rất nhiều vì
chúng có ưu điểm là kích thước, trọng lượng và hình dáng khơng thay đổi và thay vì
cân thì có thể đếm được.
Cuối thời kỳ này, hình thức tiền tệ đã được cố định ở vàng. Bởi vì vàng có
nhiều đặc tính ưu việt hơn các hàng hóa khác lúc bấy giờ trong việc thực hiện các chức
năng của tiền tệ. Đó là:
+ Dễ chia nhỏ, dễ hợp nhất mà không làm ảnh hưởng đến giá trị của vốn có của
nó. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc biểu hiện giá cả và lưu thơng hàng hóa
trên thị trường bởi lẽ thị trường hàng hóa rất đa dạng và giá cả rất khác nhau.
+ Bền vững, không ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên
+ Có giá trị lớn trong một khối lượng nhỏ - dễ di chuyển
+ Tính đồng nhất của vàng rất cao, điều đó rất thuận lợi trong việc đo lường,
biểu hiện giá cả của các hàng hóa trong q trình trao đổi
Đầu tiên các thỏi vàng với các trọng lượng và hình dáng khác nhau được sử
dụng làm phương tiện trao đổi. Sự bất tiện của nó chính là động lực để hình thành nên
các đồng tiền đúc bằng vàng với trọng lượng hình dáng và kích thước thống nhất. Lưu
thông tiền đúc bằng vàng kéo dài từ 1870 đến 1914 và được coi là thời kỳ lưu thông
tiền tệ ổn định nhất góp phần quyết định đến sự phát triển kinh tế và thương mại quốc
tế trong thời kỳ này.
Tuy vậy, sự bất lợi của lưu thông tiền vàng dần bộc lộ:
+ Vì tiền vàng nặng nên việc di chuyển vàng với khối lượng lớn trở nên bất
tiện, và điều quan trọng là
+ Việc lưu thông tiền vàng không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và trao
đổi hàng hóa ngày càng tăng lên, vàng trở nên khan hiếm, kích thích mong muốn tích
trữ vàng. Nhu cầu tích trữ vàng và đẩy các dấu hiệu của nó ra lưu thông ngày càng trở
nên phổ biến, đây thực chất là hành vi tự phát đánh dấu sự chấm dứt vai trò tiền tệ của
vàng.
b. Tiền giấy
Phần lớn các loại tiền trước đây đều có giá trị hoặc có thể thỏa mãn nhu cầu giá
trị sử dụng nào đó của con người và chính vì thế mà nó được chấp nhận làm phương
tiện trao đổi. Tuy nhiên, việc sử dụng tiền giấy trong lưu thông đã làm thay đổi hẳn
quan niệm về tiền tệ: ”ích lợi của bản thân tiền tệ lại là cái ít quan trọng nhất của nó…
Người ta muốn có tiền với danh nghĩa là tiền chứ khơng phải là hàng hóa, khơng phải
vì bản thân nó mà vì những thứ mà dùng nó có thể mua được”. Hiển nhiên tiền giấy có
lợi thế ở chỗ:
- Nhẹ, dễ di chuyển với khối lượng lớn
- Chi phí in ấn, khắc chạm và đảm bảo an toàn rẻ
- Dễ dàng hình thành một kết cấu tiền với các mệnh giá khác nhau thuận tiện
cho quá trình trao đổi hàng hóa.
5
Tuy nhiên lưu thông tiền giấy rất dễ rơi vào tình trạng bất ổn định vì việc giữ
cho tiền giấy khan hiếm trong lưu thơng và điều chỉnh cho nó phù hợp với nhu cầu
trao đổi hàng hóa là một nghệ thuật phức tạp.
c. Tiền qua ngân hàng (tiền ghi sổ hay bút tệ)
Sự phát triển của hệ thống thanh tốn cùng với vai trị của các ngân hàng cho
phép sử dụng séc và các phương tiện thanh toán khác để luân chuyển số dư trên các tài
khoản tiền gửi ở ngân hàng phục vụ cho quá trình luân chuyển hàng hóa. Việc sử dụng
các cơng cụ này cho phép thực hiện được các giao dịch mà không cần xuất hiện tiền
mặt. Những lợi thế của việc sử dụng tiền qua ngân hàng thông qua séc là:
- Tiết kiệm chi phí giao dịch vì có nhiều khoản thanh tốn có thể bù trừ cho
nhau thông qua ngân hàng;
- Tăng cường hiệu quả kinh tế do tăng nhanh tốc độ lưu thơng hàng hóa;
- Séc có thể được viết với bất kỳ lượng tiền nào trong phạm vi số dư tài khoản
khiến cho việc thanh tốn những món tiền lớn được thực hiện một cách dễ dàng hơn.
Tuy vậy việc dùng séc cũng có những hạn chế của nó do cần thời gian để
chuyển séc từ nơi này đến nơi khác, hoặc thời gian cần thiết để có thể sử dụng số dư
trên tài khoản cho thanh toán séc làm tăng chi phí về thời gian chờ đợi. Mặt khác, các
chi phí dành cho việc xử lý các chứng từ thanh toán cũng gây nên sự tốn kém đáng kể
cho xã hội.
d. Tiền điện tử
Tiền điện tử là một hệ thống cho phép người sử dụng có thể thanh tốn khi mua
hàng hoặc sử dụng các dịch vụ nhờ truyền đi các con số từ máy tính này đến máy tính
khác.
Giống như sêri trên tiền giấy, số sêri của tiền điện tử là duy nhất. Mỗi tờ tiền
điện tử được phát hành bởi một ngân hàng và được đại diện cho một lượng tiền thật
nào đó.
Hình thức giao dịch tiền điện tử phổ biến hiện nay là các thẻ thanh toán. Thẻ
thanh toán là tấm thẻ do ngân hàng hoặc các cơng ty tài chính phát hành mà nhờ đó
người ta có thể lưu thơng những khoản tiền điện tử. Thẻ thanh tốn có một số dạng sau
đây:
- Thẻ rút tiền ATM: Thẻ ATM được dùng để rút tiền hoặc chuyển khoản thông
qua máy rút tiền tự động ATM. Việc sử dụng thẻ chỉ đơn giản là đẩy thẻ vào máy,
nhập mã số, màn hình ATM sẽ chờ lệnh. Trong nửa phút, mọi hoạt động chuyển khoản
hoặc rút tiền ngay tại máy được hồn thành.
- Thẻ tín dụng: Đó là một tấm thẻ bằng nhựa cứng, hình chữ nhật với kích
thước chuẩn là 96 x 54 x 0,76 mm, mặt trước có in các thơng tin về tổ chức phát hành
thẻ (tên và lôgô), thông tin về người sử dụng thẻ (tên công ty và tên người ủy quyền sử
dụng thẻ - nếu là thẻ cho công ty hoặc tên cá nhân, đôi khi cả ảnh – nếu là thẻ cho cá
nhân), gồm 2 loại thẻ (thẻ chuẩn và thẻ vàng), số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ…mặt sau
có một dải băng từ trong đó lưu thơng tin cần thiết về thẻ và chủ thẻ (số thẻ, ngày hiệu
lực, tên chủ thẻ, mã số định danh pin, mã để kiểm tra giá trị hiệu lực của thẻ). Ngồi ra
cịn in chữ ký của chủ thẻ ở mặt sau. Các tổ chức phát hành thẻ tín dụng đảm bảo rằng
họ sẽ thanh tốn tiền mua hàng hóa hay dịch vụ cho người bán thay cho người sử dụng
6
thẻ trong hạn mức tín dụng của thẻ. Số tiền đó sẽ được người mua thanh tốn lại cho
các tổ chức này sau một thời gian nhất định. Vì người sử dụng thẻ tín dụng khơng phải
trả tiền ngay lúc mua hàng, nói cách khác là tổ chức phát hành thẻ đã cho họ vay để
thanh toán nên thẻ được gọi là thẻ tín dụng. Hàng năm người sử dụng thẻ tín dụng sẽ
phải trả cho tổ chức phát hành một khoản phí sử dụng, ngồi ra cịn phải trả phí thanh
tốn hộ cho mỗi lần thanh tốn thẻ. Thẻ tín dụng ngày nay được sử dụng ở các nước
phát triển cũng phổ biến như Séc. Nó có rất nhiều loại, chỉ riêng ở Mỹ đã có 3000 loại
khác nhau lưu hành, phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là thẻ Master Card, Visa
Card.
- Thẻ ghi nợ (Debit Card): Về hình thức thẻ ghi nợ tương tự như thẻ tín dụng.
Tuy nhiên, khác với thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ không phải công cụ để vay tiền mà để tiêu
tiền trong tài khoản. Khi thanh toán, người thu tiền sẽ quẹt thẻ qua một máy đọc thẻ,
sau đó yêu cầu chủ thẻ ký xác nhận vào hóa đơn bán hàng. Sau một số ngày nhất định
(thường là hai ngày) tiền sẽ được chuyển từ tài khoản của chủ thẻ sang tài khoản người
bán hàng.
- Thẻ thông minh (SmartCard): Thẻ thông minh là loại thẻ cao cấp hơn, thực
chất thẻ thông minh là dạng thẻ ghi nợ, chỉ khác là trên thẻ cịn gắn một bộ phận xử lý
(con chíp máy tính) cho phép lưu giữ ngay trên thẻ một lượng tiền kỹ thuật số. Tiền
này có thể nạp từ tài khoản ở ngân hàng vào thẻ thông minh qua các máy ATM, máy
tính cá nhân hoặc các điện thoại có trang bị bộ phận nạp tiền.
Các thẻ thơng minh cao cấp hơn còn gọi là Super SmartCard còn cho phép ghi
lại các giao dịch của người sử dụng thẻ và có màn hình hiển thị, thậm chí cả bàn phím.
Các thẻ thơng minh cịn tiến xa hơn, gần giống với những cái “ví điện tử”, nhờ khả
năng này có thể chuyển tiền trực tiếp từ thẻ thông minh này sang thẻ thông minh khác
qua một thiết bị không dây cầm tay. Ngồi tính năng dùng làm phương tiện thanh tốn,
có thể dùng nó như thẻ gọi điện thoại, thẻ căn cước trong đó lưu trữ các thơng tin về
người dùng thẻ, thậm chí cả nhóm máu của người đó.
1.1.4. Tính chất của tiền tệ
Việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái của tiền tệ cho thấy rằng việc một
vật nào đó được chấp nhận trong lưu thơng với tư cách là tiền tệ khơng phải vì nó có
giá trị mà ngược lại khi được chấp nhận là tiền tệ thì vật đó trở nên có giá trị, đó là khả
năng mua của nó. Để được chấp nhận là phương tiện trao đổi, một vật nào đó phải thỏa
mãn các tính chất sau:
- Tính được chấp nhận: là đặc tính quan trọng nhất của tiền tệ. Giờ đây chúng
ta đã biết yếu tố quyết định việc người ta có chấp nhận đồng tiền đó hay khơng là khả
năng đổi ra hàng hóa của nó. Dĩ nhiên khi khả năng này khơng thực hiện được hoặc bị
nghi ngờ thì đồng tiền sẽ khơng được chấp nhận, hình thức trao đổi trực tiếp sẽ xuất
hiện.
- Tính dễ nhận biết: Để hỗ trợ cho tính chấp nhận thì tiền phải có khả năng dễ
nhận biết. Những dấu hiệu và các đặc thù riêng của đồng tiền kim loại và tiền giấy sẽ
quyết định khả năng này.
- Tính có thể chia nhỏ: Nhằm thực hiện giá trị của các loại hàng hóa với các giá
trị trao đổi khác nhau, thuận tiện trong việc tính tốn tiền lẻ trả lại. Tính chất này khắc
phục được hạn chế của quá trình trao đổi hiện vật.
7
- Tính lâu bền: Đảm bảo cho tiền tồn tại được một thời gian thích hợp mà
khơng bị hư hỏng bởi điều kiện tự nhiên hoặc do quá trình sử dụng, đây chính là
nhược điểm của loại tiền bằng hàng hóa thơng thường.
- Tính dễ vận chuyển: Tiền được sử dụng làm phương tiện trao đổi, có thể ở
những vùng khác nhau, sự cồng kềnh, nặng nề của tiền sẽ cản trở q trình trao đổi
hàng hóa. Tính dễ vận chuyển sẽ làm cho quá trình trao đổi trở nên nhanh chóng thuận
tiện hơn.
- Tính khan hiếm: Để được chấp nhận trong trao đổi, tiền tệ phải có giới hạn về
mặt khối lượng. Các loại tiền hàng hóa có giới hạn vì bản thân nó có giá trị và là sản
phẩm của lao động, chúng có khả năng cất trữ và tự phát điều tiết khối tiền trong lưu
thông và ln giữ cho nó khan hiếm. Tiền giấy có thể khan hiếm bởi Nhà nước thường
sử dụng các chính sách để kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền trong lưu thơng.
- Tính đồng nhất: có nghĩa là bất kỳ đồng tiền nào trong một chế độ tiền tệ đều
phải có thiết kế, kích thước và sức mua như nhau nếu cùng mệnh giá.
1.2. Các chức năng của tiền tệ
1.2.1. Đơn vị đo lường giá trị
Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị của hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện trao
đổi. Người ta đo giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như người ta đo trọng
lượng của một vật bằng kg, đo chiều dài một vật bằng mét. Biểu hiện bằng tiền của giá
trị hàng hóa chính là giá cả của hàng hóa đó.
Đây là chức năng quan trọng của tiền tệ. Khi nền kinh tế có tiền tệ làm mơi
giới, thì người ta định giá bằng đơn vị tiền tệ cho tất cả các loại hàng hóa đem trao đổi
trên thị trường. Trên thị trường có bao nhiêu hàng hóa đưa ra trao đổi thì có bấy nhiêu
giá cả.
Để thấy được vì sao chức năng này quan trọng, chúng ta hãy so sánh quá trình
trao đổi hiện vật với trao đổi hàng hóa có tiền làm mơi giới trung gian.
Các nhà Kinh tế học người Mỹ đã tính tốn rằng nếu khơng có chức năng này
của tiền tệ, thì với 3 mặt hàng đưa ra trao đổi chúng ta chỉ cần biết 3 giá, với 10 mặt
hàng chúng ta phải tính tốn 45 giá để trao đổi, với 100 mặt hàng chúng ta cần biết
4.950 giá, với 1000 mặt hàng thì cần 499.500 giá….(cơng thức tổng qt tính số cặp
khi có N phân tử là N(N-1)/2)
Ví dụ:
1h lao động = 15 cái bánh mỳ
1h lao động = 01 cái áo
1h lao động = 1kg thịt
15 cái bánh mỳ = 01 cái áo
15 cái bánh mỳ = 1kg thịt
01 cái áo = 1 kg thịt
Khi nền kinh tế có tiền làm mơi giới thì người ta định giá bằng đơn vị tiền tệ
cho tất cả các mặt hàng đem trao đổi trên thị trường. Do vậy, có bao nhiêu hàng hóa
đưa ra trao đổi thì có bấy nhiêu giá cả. Có nghĩa là, nếu có 3 hàng hóa đưa ra trao đổi
8
thì có 3 giá, có 10 hàng hóa thì có 10 giá, có 1000 hàng hóa trao đổi thì có 1000 giá.
Vậy là, việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá sẽ thuận lợi rất nhiều cho quá trình trao đổi
hàng hóa, giảm được chi phí trong trao đổi do giảm được số giá cần xem xét.
Bảng 1-1. Số lượng giá trong một nền kinh tế hiện vật
ứng với số lượng giá trong nền kinh tế tiền tệ
Số mặt hàng
trao đổi
3
10
100
1000
10.000
Số lượng giá trong nền
kinh tế hiện vật
3
45
4.950
499.500
49.995.000
Số lượng giá trong nền
kinh tế hàng hóa
3
10
100
1000
10.000
1.2.2. Phương tiện trao đổi
Trong nền kinh tế, tiền tệ làm phương tiện trao đổi khi nó được dùng để mua
bán hàng hóa, dịch vụ hoặc thanh tốn các khoản nợ cả trong và ngồi nước. Việc
dùng tiền làm phương tiện trao đổi đã nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế,
bởi nó đã tiết kiệm được các chi phí quá lớn trong quá trình trao đổi trực tiếp hàng đổi
hàng, các chi phí giao dịch thường rất cao. Bởi vì, người mua - người bán phải tìm
được đối tượng trùng hợp với mình về nhu cầu trao đổi, thời gian trao đổi, không gian
trao đổi và giá trị trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ được diễn ra khi có đầy đủ những sự
trùng hợp đó. Tiền tệ làm mơi giới trung gian trong trao đổi đã hoàn toàn khắc phục
được các hạn chế đó của q trình trao đổi trực tiếp. Người có hàng bán lấy tiền, sau
đó sẽ mua được hàng mà họ cần. Bởi vậy, người ta coi tiền như một thứ dầu mỡ bôi
trơn, cho phép nền kinh tế hoạt động trơi chảy hơn, khuyến khích chun mơn hóa và
phân công lao động xã hội ngày một sâu rộng hơn.
`
Ví dụ: Một người nơng dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ lao động, một
người thợ thủ công muốn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa hai người này sẽ khơng bao giờ
có một cuộc trao đổi vì ý định bán của người nông dân không phù hợp với ý định mua
của người thợ thủ công. Cả hai người có thể phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp
được một người có ý định giao dịch phù hợp. Khi có tiền làm phương tiện trao đổi,
q trình này được đơn giản hố đi rất nhiều: Người nơng dân thứ nhất có thể bán ngũ
cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được để mua dụng cụ của người thợ thủ
cơng. Người thợ thủ cơng có thể dùng tiền thu được mua thịt của một người thứ tư.
Việc dùng tiền làm một phương tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền
kinh tế, qua việc loại bỏ được nhiều thời gian dành cho việc đổi chác hàng hoá hay
dịch vụ qua nhiều lần trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng.
1.2.3. Phương tiện dự trữ giá trị
Tiền tệ làm phương tiện dự trữ giá trị nghĩa là nó chứa giá trị, chứa sức mua
hàng hóa trong một thời gian nhất định. Theo đó người ta có thể tách thời gian từ lúc
có thu nhập đến lúc tiêu dùng nó. Chức năng này là quan trọng vì mọi người đều
không muốn chi tiêu hết thu nhập của mình ngay khi nhận nó, mà dự trữ để sử dụng nó
trong tương lai.
Tất nhiên tiền khơng phải là nơi duy nhất chứa đựng giá trị, mà các tài sản khác
cũng là nơi chứa giá trị như: cổ phiếu, bất động sản….Nhiều trong số những tài sản
9
này có lợi hơn so với tiền xét về mặt chứa giá trị, trong tương lai chúng thường đem lại
cho người chủ sở hữu lãi suất cao hơn so với lãi suất mà tiền đem lại. Nhưng tiền là tài
sản có “tính lỏng” cao nhất bởi nó là phương tiện trao đổi, không cần phải chuyển đổi
thành bất cứ cái gì khác khi mua hàng hóa hay chi trả tiền dịch vụ, thanh toán các
khoản nợ. Những tài sản khác địi hỏi chi phí giao dịch khi cần chuyển sang tiền.
Ví dụ như khi ta bán nhà, thường phải trả cho người mơi giới một khoản phí
mơi giới và nếu lại cần tiền mặt ngay để trả cho một nhu cầu khẩn cấp có thể buộc
phải bán với giá thấp hơn để bán nhanh ngôi nhà. Nhưng nếu ta giữ tiền mặt thì ta sẽ
khơng mất phí mơi giới và cũng không phải bán ngôi nhà với giá thấp hơn.
Vị thế của tiền cũng là một phạm trù lịch sử, có thể thay đổi theo sự phát triển
của nền kinh tế xã hội trong các giai đoạn khác nhau của xã hội lồi người.
1.3. Vai trị của tiền tệ
- Tiền tệ là phương tiện để mở rộng và phát triển kinh tế hàng hóa
Nhờ có tiền tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông
làm cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa vừa đơn giản, thuận lợi vừa
thống nhất và làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu thơng được tiến hành một
cách trơi chảy, cũng nhờ có tiền mà người sản xuất kinh doanh mới hạch toán được chi
phí và kết quả sản xuất kinh doanh, thực hiện tích lũy tiền tệ để mở rộng quy mơ sản
xuất kinh doanh.
- Tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mơ.
Vai trị này thể hiện trong các mặt sau:
+ Trong q trình Nhà nước hoạch định chính sách và đề ra các giải pháp kinh
tế, đều phải tính đến khả năng cung ứng của các nguồn tiền tệ cho các chính sách đó.
Để việc hoạch định các chính sách thành công, đồng thời trong các trường hợp mất cân
đối giữa tiền và hàng trong lưu thơng tiền tệ thì Nhà nước phải tính đến khả năng bồi
đắp khi bội chi và điều chỉnh khi bị lạm phát và mất giá.
+ Tiền tệ cịn đóng vai trị hướng dẫn các hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất
kinh doanh, hạn chế hoặc xóa bỏ các hoạt động kinh tế khơng phù hợp với pháp luật.
+ Tiền tệ góp phần điều chỉnh các quan hệ kinh tế, để các quan hệ kinh tế đó
thích hợp với những biến động hoặc những thay đổi của môi trường pháp lý, phù hợp
với thực tiễn phát triển của quốc gia.
- Tiền tệ là công cụ phục vụ cho mục đích của người sở hữu chúng
Tiền tệ không chỉ đơn thuần là một vật mà nó cịn biểu hiện quan hệ xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao độ thì hầu như mọi quan hệ
kinh tế - xã hội đều bị tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều khơng thể thốt
ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện đó, tiền tệ trở thành cơng cụ có quyền lực
vạn năng để xử lý và giải tỏa mọi ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội, khơng
những trong phạm vi quốc gia mà cịn ở phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà tiền tệ có
thể thỏa mãn hầu hết mục đích và quyền lợi đối với những người đang nắm giữ tiền tệ.
Chừng nào cịn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực của đồng tiền cịn
phát huy sức mạnh của nó. Vấn đề ở chỗ là con người sử dụng “thế lực” của đồng tiền
như thế nào và phục vụ quyền lợi cho ai mà thôi.
10
1.4. Giấy bạc ngân hàng Việt Nam
1.4.1. Lịch sử lưu thông tiền tệ ở Việt Nam
a. Thời kỳ phong kiến (Từ tháng 9/1858 về trước)
Ở Việt Nam trong thời kỳ bị phong kiến phương Bắc đô hộ đã lưu hành tiền đúc
bằng đồng. Đến thế kỷ thứ 6, khi Lý Nam Đế lên ngôi, nhà vua đã cho đúc tiền đồng
của triều Lý lấy tên là Thiên Đức Thông Bảo. Đây là tiền đúc đầu tiên ở Việt Nam.
Sau đó mỗi khi có một triều đại khác thay thế đều có xuất hiện các loại tiền đúc riêng.
Đến đời nhà Hồ (1400 – 1407) sau khi lên ngôi Hồ Quý Ly đã cho phát hành tiền giấy
cưỡng bức lưu hành để đổi lấy tiền đúc bằng đồng. Chính sách này của Hồ Quý Ly
nhằm trang trải các chi phí của triều đình, hơn thế nữa nhằm mục đích thu thập kim
loại làm vũ khí cho chiến tranh. Khi nhà Hồ bị sụp đổ thì tiền giấy cũng khơng cịn.
b. Thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến (tháng 10/1858 đến tháng 8/1945)
Từ giữa thế kỷ 18 khi Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, ở Việt Nam đã xuất hiện
nhiều loại tiền khác nhau. Ngoài tiền đúc bằng đồng kẽm của các triều đại phong kiến
đương thời, cịn có đồng bạc Mehico. Năm 1862 đồng bạc Mehico được chỉ huy quân
đội Pháp cho lưu hành chính thức ở Việt Nam, song song với đồng tiền phơrăng Pháp.
Lúc bấy giờ một đồng bạc Mehico nặng 27 gram ăn 5 quan tiền đồng Việt Nam và
bằng 5,35 FRF. Năm 1875 ngân hàng Đông Dương thành lập và phát hành tiền Đông
Dương. Đồng Đông Dương lúc bấy giờ là đồng tiền đúc bằng bạc và tiền giấy ngân
hàng. Tuy đồng Đông Dương phát hành vào năm 1875 những mãi đến năm 1905 nó
mới giữ vị trí chủ yếu trong hệ thống lưu thơng tiền tệ. Ngày 31/05/1930 tổng thống
Pháp ký sắc lệnh chuyển đồng Đông Dương từ chế độ bản vị bạc sang chế độ bản vị
vàng và quy định tỷ giá đồng Đông Dương với FRF như sau:
1 đồng Đông Dương = 10 FRF
1FRF = 0,0655 gram vàng
c. Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và đấu tranh thống nhất nước nhà (tháng
9/1945 – tháng 4/1975)
Sau cuộc cách mạng tháng 8 thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, nhà nước đã cho phép phát hành tiền tài chính
- Tháng 1/1946 phát hành tiền tài chính từ Nam Trung Bộ trở vào
- Tháng 10/1946 phát hành tiền tài chính từ Bắc Trung Bộ trở ra
- Tháng 11/1946 quốc hội khóa I giao cho Bộ Tài Chính phát hành tiền giấy
trong phạm vi cả nước
- Tháng 5/1951 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam (tiền thân của ngân
hàng nhà nước Việt Nam hiện nay) và tiền ngân hàng được chính thức phát hành ở
Việt Nam, để thu hồi tiền tài chính với tỷ lệ thu đổi 1đồng ngân hàng = 10 tài chính.
Đây được coi là cuộc cải cách tiền tệ lần thứ nhất ở Việt Nam. Cuộc cải cách đánh dấu
bước ngoặt quan trọng trong hệ thống tiền tệ Việt Nam, tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất và lưu thơng hàng hóa phát triển.
- Tháng 2/1959, cải cách tiền tệ lần thứ 2 với nội dung phát hành tiền mới thu
đổi tiền cũ với tỷ lệ 1 đồng ngân hàng mới bằng 1.000 đồng ngân hàng cũ.
11
Sau hiệp định Gionevo, ở miền Nam còn tồn tại một Chính Phủ. Ở đó ngân
hàng quốc gia (ngụy) cũng phát hành tiền ngân hàng và lưu thông trên lãnh thổ miền
Nam Việt Nam. Đồng tiền Ngụy chính thức bị loại bỏ sau tháng 9/1975.
d. Thời kỳ thống nhất đất nước
Trải qua nhiều cuộc cải cách tiền tệ vào tháng 9/1975, tháng 5/1978, tháng
9/1985…phát hành tiền mới thu hồi tiền cũ nhằm ổn định hệ thống tiền tệ Việt Nam
nhưng do đất nước có chiến tranh, nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu… nên lạm phát
đã xảy ra rất nghiêm trọng.
- Tháng 9/1975 phát hành tiền Giải phóng, thu hồi tiền Ngụy với tỷ lệ 1 đồng
Giải phóng = 500 đồng tiền Ngụy.
- Tháng 5/1978 phát hành tiền ngân hàng để lưu hành thống nhất trong cả nước.
Ở miền Bắc tỷ lệ thu đổi là 1/1, ở miền Nam tỷ lệ thu đổi quy định 1 đồng mới = 0,8
đồng Giải phóng.
- Tháng 5/1985 phát hành tiền mới thu đổi tiền cũ với nhiều tỷ lệ khác nhau:
Tiền mặt đổi theo tỷ lệ 10 đồng cũ đổi 1 đồng mới
Tiền gửi được đổi theo tỷ lệ 1/1
Tiền gửi tiết kiệm có nhiều tỷ lệ 2/1, 3/1, 6/1 và 9/1.
Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp quan trọng để kiềm chế và kiểm soát lạm
phát, cho đến nay sau nhiều biện pháp – tác động đồng bộ, ở Việt Nam đã hình thành
một hệ thống tổ chức lưu thơng tiền tệ bước đầu tương đối ổn định.
1.4.2. Giấy bạc ngân hàng Việt Nam
Giấy bạc ngân hàng Việt Nam là tiền dấu hiệu, do ngân hàng nhà nước
(NHNN) Việt Nam độc quyền phát hành vào lưu thông.
Tiền của Việt Nam gọi là “đồng”. Ký hiệu quốc gia là “đ”, ký hiệu quốc tế là
“VND”. Tiền đơn vị của Việt Nam là đồng.
Giá trị của mọi sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế Việt Nam đều được
đo lường bằng “đồng” và giá cả của nó được biểu hiện bằng số lượng “đồng”.
“Tiền ước số” là “hào” và “xu”.
1 đ = 10 hào và 1 hào = 10 xu.
“Tiền bội số”, có nhiều loại mệnh giá:
+ 50 đ, 100 đ, 200 đ và 500 đ.
+ 1.000 đ, 2.000 đ và 5.000 đ.
+ 10.000 đ, 20.000 đ và 50.000 đ
+ 100.000 đ, 200.000đ và 500.000 đ.
Cùng lưu thông với giấy bạc ngân hàng, hiện nay các loại tiền mệnh giá 1.000
đ, 2.000 đ và 5.000 đ được phát hành bằng tiền kim loại.
Các loại mệnh giá của tiền Việt Nam nêu trên là phù hợp với hệ thống tiền tệ
hiện hành. Tuy nhiên do giá cả hàng hoá - dịch vụ tăng, cho nên một số loại tiền có
12
mệnh giá thấp, như: hào, xu, 1 đồng, 50 đồng, khơng cịn lưu thơng bằng tiền mặt mà
chỉ là đơn vị tính.
Theo luật pháp CHXHCN Việt Nam, giấy bạc NHVN, có quyền lực lưu thơng
trên tồn lãnh thổ Việt Nam và được thanh tốn khơng hạn chế với mọi khoản trao đổi
hàng hoá dịch vụ. Mọi hành vi giả mạo, phá hoại giấy bạc NHVN là vi phạm luật pháp
và sẽ bị xử lý theo pháp luật hiện hành.
Trên thị trường Việt Nam, giấy bạc NH Việt Nam là phương tiện thanh tốn và
chi trả có “tính lỏng” cao nhất. Để cung ứng đầy đủ khối lượng giấy bạc ngân hàng
cho lưu thông, NHNN Việt Nam căn cứ vào tổng mức chu chuyển hàng hoá - dịch vụ
và các nhu cầu khác về tiền, tốc độ lưu thông tiền, tâm lý sử dụng tiền mặt trong dân
cư… để lập kế hoạch cung ứng. Đồng thời sử dụng công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc và
các công cụ khác để điều hồ khối lượng tiền trong lưu thơng.
Ở Việt Nam hiện nay, tiền mặt được sử dụng phổ biến trong hầu hết các giao
dịch của dân cư và một số của doanh nghiệp. Vì vậy đã làm cho tỷ trọng giấy bạc NH
trong tổng các phương tiện thanh toán là rất lớn. Tình trạng này khơng những làm cho
chi phí lưu thơng tăng lên, mà cịn làm cho các giao dịch kinh tế trở nên khơng an
tồn, khó kiểm sốt.
Ngồi tiền giấy ở Việt Nam còn được phép sử dụng các phương tiện thanh tốn
khác như: thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, séc, thương phiếu…
1.5. Cung và cầu tiền tệ
1.5.1. Cầu tiền tệ
1.5.1.1. Khái niệm mức cầu tiền tệ
Mức cầu tiền tệ là số lượng tiền tệ mà nền kinh tế (cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội…) cần để thoả mãn các nhu cầu chi dùng của mình.
Nói các khác, mức cầu tiền tệ là tổng khối lượng tiền tệ cần để đáp ứng nhu cầu
trao đổi và nhu cầu tích luỹ giá trị của các chủ thể trong nền kinh tế, trong điều kiện
giá cả và các biến số vĩ mô cho trước.
1.5.1.2. Các mức cầu tiền tệ
a. Mức cầu tiền cho giao dịch
Hoạt động giao dịch của các tác nhân và thể nhân (gọi chung là tác nhân) diễn
ra thường xuyên. Mọi giao dịch đều cần phải sử dụng tiền, như: trả công lao động (trả
lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán nợ, mua vật phẩm tiêu dùng… Các khoản chi
này hợp thành tổng cầu tiền cho giao dịch. Tiền cần thiết cho giao dịch được các tác
nhân giữ lại nhiều hay ít chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
- Giá trị giao dịch.
Số lượng, số lần và giá trị giao dịch quyết định đến mức cầu tiền, tức là lượng
tiền cần giữ lại của các tác nhân. Nếu giá hàng hoá trong kỳ tăng lên hay giảm xuống,
thì nhu cầu tiền cho giao dịch cũng thay đổi tương ứng.
- Sự không đồng bộ về thời gian giữa thu chi.
Nếu thu nhập và chi tiêu của các tác nhân phát sinh đều đặn, thì nhu cầu tiền
giữ lại cho giao dịch là ít nhất. Nếu có cách quãng về thời gian giữa thu và chi, thì số
13
tiền phải giữ lại nhiều hơn để đảm bảo các khoản chi thường xuyên. Sự “lệch pha” về
thời gian thu chi càng lớn thì nhu cầu tiền được giữ lại càng nhiều và ngược lại.
- Lãi suất tiền gửi.
Lãi suất tiền gửi tác động trực tiếp đến tổng cầu tiền. Giữ lại tiền chờ cơ hội
mua hoặc thanh toán là mất đi một khoản thu nhập tính theo lãi suất tiền gửi hoặc đầu
tư và thời gian. Lãi suất thay đổi sẽ tác động đến tư duy kinh tế của các tác nhân gửi
tiền. Những tác nhân này sẽ so sánh giữa lợi ích của việc giữ tiền và lợi tức mất đi. Họ
sẽ hành động theo hướng lợi ích vượt trội. Nhìn chung lợi tức giảm đi thì nhu cầu giữ
tiền sẽ tăng và ngược lai.
- Tập quán dân tộc và địa phương.
Tập quán dân tộc và địa phương được phản ánh khá nét trong nhu cầu tiền.
Những nơi kinh tế thuận lợi, kiếm tiền khơng khó khăn, thì tiền được giữ lại nhiều
hơn. Những điều kiện ấy đã hình thành tập qn thanh tốn của vùng, miền và dân tộc.
Tập quán này sẽ thay đổi theo đời sống kinh tế, nhưng rất chậm chạp.
b. Mức cầu tiền cho tích luỹ.
Ngồi các khoản chi thường xun cho giao dịch, các tác nhân cịn phải tích luỹ
một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu
tư, chuẩn bị cho kỳ du lịch sắp đến… Giá trị các khoản này chưa đến “độ sử dụng”,
chúng ở trong quỹ các tác nhân dưới dạng tiền nhàn rỗi.
Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền dành cho nhu cầu tích luỹ với các mục đích
trên sẽ cao. Nhu cầu tích luỹ phụ thuộc vào mức thu nhập và mục đích của các tác
nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì địi hỏi tác nhân tích luỹ càng nhanh.
Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích luỹ càng nhiều.
c. Mức cầu tiền cho dự phòng.
Khác với nhu cầu tiền giao dịch và tích luỹ khi các khoản chi tiêu đều đã được
dự tính trước, nhu cầu tiền dự phịng là nhằm đáp ứng các khoản chi tiêu khơng dự
tính trước được khi có các nhu cầu đột xuất như ốm đau, bệnh tật, hỏng xe, tai nạn
hoặc giá cả tăng bất ngờ…
Để đáp ứng các nhu cầu đột xuất một hộ gia đình hoặc cá nhân nào đó có thể sử
dụng một số cách:
- Nắm giữ tiền nhiều hơn dự định chi tiêu và do đó hình thành nên nhu cầu tiền
dự phòng
- Cắt giảm chi tiêu thường xuyên khi nhu cầu đột xuất phát sinh
- Có thể bán các tài sản sẵn có hoặc là đi vay…
Mỗi phương pháp có lợi thế cũng như cái giá phải trả của nó. Việc so sánh lợi
thế và cái giá phải trả cho các phương pháp này có ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu
tiền dự phòng.
d. Mức cầu tiền để cất trữ.
Sự phân hoá thu nhập giữa các thể nhân trong nền kinh tế thị trường là một quy
luật. Một số ít các thể nhân, do các nguyên nhân khác nhau đã giàu lên nhanh chóng,
họ có một số lượng “tiền thừa”. Đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có kế
hoạch sử dụng. Trong trường hợp này các thể nhân thường đưa số “tiền thừa” vào cất
14
trữ. Nhu cầu cất trữ của các thể nhân trong nền kinh tế thị trường tuy không lớn nhưng
là hiện thực. Cất trữ đã làm giảm khối lượng các phương tiện lưu thông.
1.5.2. Cung tiền tệ
1.5.2.1. Khái niệm
Cung tiền tệ là khối lượng tiền tệ được cung cấp cho nền kinh tế, đảm bảo các
nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hoá cũng như các nhu cầu chi tiêu trao đổi khác của
nền kinh tế - xã hội.
1.5.2.2. Các tác nhân tham gia vào quá trình cung ứng tiền
Khối lượng tiền trong lưu thông được cung ứng từ các tác nhân sau:
a. Ngân hàng trung ương.
Ngân hàng Trung ương giữ độc quyền phát hành và lưu thông giấy bạc ngân
hàng, ngân phiếu thanh tốn và các phương tiện lưu thơng – thanh tốn khác, thơng
qua các nghiệp vụ sau:
a1/ Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, các chứng từ có
giá… của các ngân hàng thương mại và của các tổ chức tín dụng.
Tại nghiệp vụ này của Ngân hàng trung ương “mua” các phương tiện như trên
chưa đến hạn thanh toán. Như vậy, một khối lượng tiền cung ứng đã được đưa vào lưu
thông, thông qua nghiệp vụ này. Lãi suất tái chiết khấu quyết định số lượng tiền trả
cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong mỗi nghiệp vụ tái chiết
khấu. Trong cả một thời kỳ, lãi suất chiết khấu là yếu tố quyết định khối lượng tiền
đưa vào lưu thơng. Vì vậy lãi suất tái chiết khấu được gọi là lãi suất cơ bản, để từ đó
ấn định các lãi suất khác trong hệ thống ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu là một yếu
tố quan trọng trong chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
Quy mô và khối lượng của các nghiệp vụ tái chiết khấu được thực hiện trên cơ
sở các nghiệp vụ chiết khấu. Quy trình này diễn ra theo sơ đồ sau:
Hình 1-1. Các nghip v chit khu trong h thng ngõn hng
NHTW
Th-ơng
phiếu
(3)
(4)
Tiền
Nghiệp vụ
tái chiết khấu
(II)
Tiền
Nghiệp vụ
chiết khấu
(I)
CáC NHTM
Th-ơng
phiếu
(2)
(1)
CáC DN
Ti nghip v (I) - Nghiệp vụ chiết khấu, tiền mà các doanh nghiệp (DN) nhận
được từ các ngân hàng thương mại (NHTM) qua nghiệp vụ (2) là một bộ phận tiền
trong lưu thông.
Tại nghiệp vụ (II) - Nghiệp vụ tái chiết khấu, tiền mà các NHTM nhận được từ
NHTW, là tiền mới đưa vào lưu thơng. Số lượng tiền này góp phần làm tăng thêm khối
15
lượng tiền trong lưu thơng. Vì vậy nghiệp vụ (II) được coi là “cửa sổ” cung ứng tiền.
Cửa sổ rộng hay hẹp, tức là lãi suất chiết khấu thấp hay cao, sẽ làm cho tiền cung ứng
vào lưu thông nhiều hay ít tương ứng.
a2/ Tái cầm cố các phương tiện nêu trên.
Các phương tiện mà các NHTM và các tổ chức tín dụng mang đến NHTW cầm
cố là các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, các chứng từ có giá (cổ phiếu, trái
phiếu, trái khốn, cơng trái, tín phiếu…) chưa đến hạn thanh toán. Khác với nghiệp vụ
trên - NHTM bán cho NHTW các phương tiện đã nêu, thì ở nghiệp vụ này, các NHTM
sử dụng các phương tiện làm vật đảm bảo để vay NHTW. NHTW căn cứ vào tổng giá
trị các phương tiện đưa đến cầm cố để phát tiền vay cho các NHTM. Tỷ lệ cho vay là
bao nhiêu trên tổng giá trị phương tiện cầm cố là do NHTW quyết định tại từng thời
điểm. Tỷ lệ cho vay này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tiền đưa vào lưu thơng.
Nó làm tăng thêm số lượng tiền trong lưu thông.
a3/ NHTW ứng tiền cho Ngân sách nhà nước.
Nhu cầu chi của NSNN là thường xuyên, nếu thu chưa có hoặc chưa đủ thì
NHTW sẽ ứng trước khoản thu này cho NSNN, khi nào NSNN có thu sẽ trả lại
NHTW. Tại thời điểm ứng trước, khối lượng tiền trong lưu thông đã tăng lên.
Trong trường hợp NSNN bội chi, NHTW có thể phải phát hành tiền để bù đắp.
Nghiệp vụ này sẽ làm tăng thêm số lượng tiền trong lưu thông.
Các nghiệp vụ của NHTW được thực hiện thường xuyên, do đó khối lượng tiền
trong lưu thông cũng thay đổi thường xuyên.
Khi thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cầm cố thương phiếu, các chứng
từ có giá… và ứng tiền cho NSNN, NHTW đã thực hiện “nghiệp vụ chi” . Khi đến
hạn thanh toán của thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi… và NSNN có kết dư, NHTW sẽ
thực hiện “nghiệp vụ thu” . Nghiệp vụ chi, làm tăng thêm khối lượng tiền trong lưu
thông, cịn nghiệp vụ thu thì ngược lại. Tổng khối lượng tiền trong lưu thông luôn luôn
theo chiều hướng gia tăng.
b. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cung tiền.
Những tác nhân này về nguyên tắc không có quyền cung ứng tiền vào lưu
thơng. Nhưng trong thực tiễn, chúng lại góp phần tích cực làm gia tăng khối lượng tiền
hiện có. Những nghiệp vụ làm tăng khối lượng tiền lưu thông của các NHTM và các tổ
chức tín dụng là:
b1/ Tổng nghiệp vụ “Có” lớn hơn tổng nghiệp vụ “Nợ”. Nghĩa là sử dụng vốn
nhiều hơn số vốn hiện có.
Nguồn vốn của các NHTM là một lượng có hạn. Nhưng trong thực tiễn, khi
thực hiện nghiệp vụ, chúng lại sử dụng số vốn lớn hơn nguồn thực có như:
- Cho khách hàng vay quá nguồn vốn huy động được. Các NHTM cho khách
hàng vay bằng hình thức chiết khấu, cầm cố các thương phiếu các chứng từ có giá
khác, hoặc bằng tín chấp… Tổng hợp lại, tại một thời điểm nào đó, tổng giá trị các
khoản cho vay này, có thể vượt quá nguồn vốn hiện có của NHTM. Nếu xảy ra hiện
tượng này nghĩa là các NHTM đã “góp phần” làm tăng khối lượng tiền trong lưu
thông.
16
- Cho khách hàng chi vượt quá số dư tiền gửi. Mỗi khách hàng có thể mở một
số tài khoản tại NHTM để thực hiện giao dịch. Nếu được NHTM tín nhiệm, thì một số
nghiệp vụ thanh tốn của khách hàng này, có thể được xử lý “trái quy định”, như:
+ Xử lý chứng từ thanh tốn địi tiền khách hàng, bằng cách ghi “Có” trước,
ghi “Nợ” sau. Thực chất là NHTM đã ứng tiền cho khách hàng để trả cho người bán.
Đây cũng là một loại cho vay không đảm bảo của NHTM.
+ Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.
Những nghiệp vụ như trên được coi là nghiệp vụ tạo tiền của các NHTM. Tuỳ
theo quy chế quản lý tài chính của mỗi quốc gia và chính sách tiền tệ của NHTW,
nghiệp vụ trên có thể bị ngăn cấm hoặc giới hạn phạm vi. Nhưng trên thực tế nghiệp
vụ này vẫn được thực hiện và một số lượng tiền mới lại được tăng thêm trong lưu
thông. Các nghiệp vụ trên tuy được thực hiện bằng hình thức ghi sổ và tiền tồn tại dưới
dạng “bút tệ”, nhưng chúng vẫn phát huy chức năng thực sự của tiền. Đồng thời sau
đó chúng có thể chuyển hố thành những phương tiện chuyển tải giá trị khác nhau.
b2/ Các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các phương tiện có giá trị thanh
toán khác, được NHTM phát hành theo quy chế quản lý tài chính.
Những phương tiện này có thể thay tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu
thông và phương tiện thanh tốn. Chúng đã góp phần làm tăng khối lượng tiền trong
lưu thông.
c. Các tác nhân và các tổ chức phi ngân hàng cung tiền.
Các tác nhân này rất đa dạng. Mỗi tác nhân có thể phát hành vào lưu thơng
những phương tiện lưu thơng và thanh tốn đặc thù, được quy chế tài chính cho phép.
- Chính phủ: Phát hành cơng trái, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đơ thị (cấp
tính hoặc cấp bang) trái phiếu cơng trình, trái phiếu kho bạc…
- Các tác nhân mở tài khoản trong hệ thông NHTM, như: Các doanh nghiệp,
các tổ chức không kinh doanh, các thể nhân… Các tác nhân này, tuỳ theo mục đích
hoạt động, quy chế tài chính có thể cho phép họ phát hành: Cổ phiếu, trái khoán, séc
các loại…
Các phương tiện nêu trên làm cho thành phần của tiền trong lưu hơng thêm
phong phú. Tuy nhiên “tính lỏng” của chúng kém hơn các thành phần khác của tiền.
Vì vậy những tác nhân và thể nhân sở hữu chúng ln ln tìm cách chuyển hố
chúng về những phương tiện có “tính lỏng” cao hơn, để từ đó tiếp tục chuyển hoá
thành những phương tiện khác phù hợp. Sự chuyển hoá này là thường xuyên. Nhưng
tại thời điểm chuyển hoá, nó chỉ làm thay đổi các thành phần của tiền, chứ không làm
thay đổi tổng khối lượng tiền.
Nghiệp vụ cung ứng tiền cho lưu thơng rất đa dạng. Có nhều tác nhân tham gia
vào q trình này, trong đó NHTW giữ vai trị quan trọng nhất vì:
- NHTW quyết định khối lượng tiền đưa vào lưu thông và khối lượng giấy bạc
ngân hàng trong lưu thông qua lãi suất tái chiết khấu.
- NHTW quyết định quy mơ đầu tư tín dụng của các NHTM bằng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng tiền đang lưu thông.
- NHTW quyết định việc điều chuyển vốn trong hệ thống NH và do đó tác động
đến điều hoà tiền trong nền kinh tế.
17
1.5.3. Cân đối cung cầu tiền tệ
1.5.3.1. Quan điểm của C.Mác
Ông cho rằng số lượng tiền cần thiết cho lưu thơng nhiều hay ít là do số lượng
hàng hóa đang lưu thơng nhiều hay ít, mức giá cả hàng hóa cao hay thấp và tốc độ lưu
thông tiền tệ nhanh hay chậm. Hai nhân tố số lượng hàng hóa và mức giá cả gộp lại
thành khái niệm tổng giá cả hàng hóa. Nhân tố này có quan hệ tỷ lệ thuận với số lượng
tiền cần thiết.
Trên thực tế số lượng tiền trong lưu thơng ít hơn nhiều so với tổng số giá cả
hàng hóa bán ra, bởi lẽ mỗi đơn vị tiền tệ trong một thời gian nhất định được luân
chuyển nhiều lần từ tay người này sang tay người khác để phục vụ cho lưu thơng hàng
hóa. Như vậy, số vịng lưu thơng của một số lượng tiền tệ nhất định trong một thời
gian nhất định gọi là tốc độ lưu thơng tiền tệ, nhân tố này có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với lượng tiền cần thiết.
C.Mác đưa ra một quy luật về số lượng tiền cần thiết trong lưu thông như sau:
Số lượng các phương tiện lưu thơng là do tổng số giá trị của hàng hóa lưu thơng và do
tốc độ trung bình của lưu thơng tiền tệ quyết định:
Kc =
Trong đó:
H
V
Kc : là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H: là tổng giá trị hàng hóa
V: là tốc độ lưu thơng tiền tệ
Nếu gọi KT là lượng tiền thực có trong lưu thơng, là lượng tiền mà ta chủ động
cung ứng vào lưu thông, thì yêu cầu của quy luật là phải đảm bảo quan hệ cân đối giữa
Kc và KT; những trường hợp vi phạm yêu cầu của quy luật sẽ xảy ra như sau:
KT > Kc dẫn tới thừa tiền
KT < KC dẫn tới thiếu tiền
Cả hai trường hợp đều có ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế - xã hội. Vì
vậy để đảm bảo tơn trọng quy luật lưu thơng tiền tệ, theo quan điểm của C.Mác địi hỏi
chúng ta phải nắm bắt nhu cầu về tiền trong lưu thơng, qua đó đưa tiền vào lưu thơng
cho phù hợp, như vậy nhu cầu về tiền tệ thực sự đóng vai trị chủ động và nguồn cung
tiền tệ thường có tính chất thụ động, nó sẽ tăng, giảm và được chúng ta điều chỉnh để
phù hợp với nhu cầu về tiền tệ.
1.5.3.2. Quan điểm của P.A.Samuelson
Mức cầu tiền phụ thuộc vào hai nhân tố:
- Mức cầu giao dịch về phía các doanh nghiệp, từ dân cư cần tiền làm phương
tiện giao dịch, mức cầu giao dịch sẽ chịu tác động lớn từ lãi suất, nếu trong điều kiện
các tác động khác của điều kiện kinh tế khơng đổi thì khi lãi suất tăng sẽ làm giảm
mức cầu tiền tệ, lãi suất trở thành một công cụ hấp dẫn để giảm lượng tiền trong tay
dân cư hoặc trong quỹ của doanh nghiệp.
18
- Ngoài việc giữ tiền để đảm bảo nhu cầu giao dịch người ta cịn giữ tiền để tích
luỹ nhằm dự phòng cho tương lai. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường phát
triển ngày nay với khoản tiền tích luỹ được, người ta cịn tìm các biện pháp để sinh lợi
thông qua đầu tư, vừa phân tán được rủi ro, vừa phát huy được đồng vốn.
Trên cơ sở mức cầu về tiền tệ trong từng thời kỳ, Nhà nước sẽ chủ động cung
ứng tiền vào lưu thông và vận dụng những công cụ điều tiết vĩ mô để cân đối cung
cầu, như: lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở…
1.5.3.3. Cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
Theo các văn bản pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về “Chế độ tổ
chức điều hịa lưu thơng tiền tệ trong hệ thống ngân hàng” đã nêu rõ nguồn cung ứng
tiền tăng thêm mỗi năm sẽ được dựa trên các căn cứ sau:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm: Nghĩa là ở đây chúng ta vẫn thừa nhận
mối liên hệ trực tiếp giữa nhu cầu về tiền tệ với khối lượng hàng hoá - dịch vụ trong
lưu thơng và với mục đích đảm bảo cân đối tiền – hàng, ngân hàng Trung ương sẽ chủ
động đưa tiền vào lưu thông phù hợp với nhu cầu sản xuất và lưu thơng hàng hố.
- Chỉ số trượt giá của hàng hoá: Nhân tố này phản ánh tình hình lạm phát làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của đồng tiền.
- Mức thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế: Nhân tố này phản ánh khoản bội chi
trong quan hệ đối ngoại sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến nhu cầu về ngoại hối trong năm.
Việc cung tiền vào trong lưu thông hàng năm sẽ được phát ra theo hai kênh chủ
yếu:
- Kênh tín dụng: Ngân hàng Trung ương sẽ đáp ứng nhu cầu tín dụng, nhằm
khai thơng năng lực thanh tốn cho các ngân hàng thương mại qua con đường tái chiết
khấu.
- Kênh ngân sách: Ngân hàng Trung ương sẽ cho Ngân sách Nhà nước vay.
Ngoài ra, ngân hàng Trung ương cịn có thể phát hành tiền để mua vàng, ngoại
tệ nhằm tăng quỹ dự trữ ngoại hối.
Hiện nay, trong q trình thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã từng bước vận dụng linh hoạt các công cụ như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức
tín dụng, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tín dụng…nhằm điều tiết cung cầu tiền tệ. Việc
làm này đã đóng góp tích cực trong quá trình kìm giữ và đẩy lùi lạm phát ở nước ta
trong thời gian vừa qua.
1.6. Lạm phát
1.6.1. Khái niệm, phân loại lạm phát
a. Khái niệm
Khi nghiên cứu hệ thống tiền giấy, chúng ta thấy rằng: tiền giấy là dấu hiệu của
vàng, thay thế cho vàng trong chức năng phương tiện lưu thơng, thanh tốn. Tiền giấy
là vật khơng có giá trị nội tại mà chỉ có giá trị danh nghĩa do Nhà nước quy định vì vậy
nó khơng thể tự phát điều hoà giữa chức năng phương tiện lưu thơng và phương tiện
cất trữ. Do đó, tiền giấy bị mất giá trở thành một hiện tượng phổ biến và thường xuyên
19
- từ đó có thể nói rằng: lạm phát là hiện tượng phổ biến, xảy ra thường xuyên trong các
quốc gia thực hiện hệ thống tiền giấy hiện nay.
Vậy lạm phát là gì? Cho đến nay, có nhiều quan điểm nhìn nhận và định nghĩa
lạm phát rất khác nhau:
Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả, nói cách khác
đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng liên tục. Theo quan điểm này thì khơng kể giá
cả tăng lên do ngun nhân nào đều là lạm phát.
Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành thừa tiền giấy vượt quá
mức bảo đảm bằng vàng, bạc, ngoại tệ… của Quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của
tiền giấy làm cho giá cả hàng hoá bị đẩy lên cao. Quan điểm này quá coi trọng cơ sở
đảm bảo bằng vàng, ngoại tệ cho tiền trong nước và người ta cho rằng để chống lạm
phát cần phục hồi lại chế độ tiền giấy chuyển đổi ra vàng theo một mức giá quy định.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và
hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối tiền lớn hơn hàng khiến cho giá cả tăng lên ở
mọi lúc mọi nơi. Để khắc phục tình trạng này, cần dùng mọi biện pháp để thiết lập lại
sự cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Việc nhìn nhận lạm phát bằng định nghĩa này hay định nghĩa khác khó đi đến
thống nhất theo từng quan điểm riêng biệt. Tuy nhiên dù sao lạm phát vẫn thể hiện qua
những đặc trưng cơ bản:
- Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng quá mức
- Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy
- Sự phân phối lại qua giá cả
- Sự bất ổn về kinh tế - xã hội
Từ những quan điểm trên Milton Friedman đưa ra một quan điểm về lạm phát
được nhiều nhà kinh tế học đồng ý: Lạm phát là việc đưa quá nhiều tiền vào lưu thông
làm cho chúng bị mất giá dẫn đến giá cả hàng hoá tăng lên.
b. Đo lường lạm phát:
Vì sự thay đổi giá cả các hàng hố và dịch vụ khơng đều nhau, có một số mặt
hàng giá tăng nhanh, một số khác tăng chậm, thậm chí có mặt hàng giảm giá, nên để
đo lường sự thay đổi mức giá cần tính mức giá bình quân thông qua các chỉ số giá.
* Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index)
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát. CPI đo
lường mức giá bình qn của một nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng trong
một giai đoạn. Người ta thường chọn một “rổ” hàng tiêu dùng có chia nhóm (ăn uống,
may mặc, đồ dùng gia đình, vật liệu xây dựng, vận tải, y tế, chất đốt…) và xác định
mức độ quan trọng của từng nhóm hàng trong tổng chi tiêu để làm cơ sở tính chỉ số giá
bình qn. Vào đầu kỳ tính CPI (tháng, q, năm) các số liệu về giá cả hàng hoá, dịch
vụ cần thiết được thu thập. Chỉ số CPI sau đó sẽ được tính bằng cách so sánh giá trị
hiện tại và giá trị gốc của “rổ” hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn.
Giả sử, một “rổ” hàng hoá, dịch vụ chỉ gồm 3 loại: cam, dịch vụ cắt may và
dịch vụ giao thông (xe bus), các số liệu về giá cả năm gốc, giá cả năm hiện tại và số
lượng tiêu thụ được thể hiện trên bảng sau:
20
Bảng 1-2
“Rổ” hàng hoá, dịch
vụ được lựa chọn
Cam
Cắt may
Xe bus
Tổng
Đơn vị tính: nghìn đồng
Số lượng
5 kg
6 lần
200 vé
Năm gốc
8
11
7
40
66
140
246
Năm hiện tại
12
12.5
7.5
60
75
150
285
Chỉ số giá năm gốc là 246/246 = 1 hay 100%
Chỉ số giá năm hiện tại là 285/246 = 1,158 hay 115,8%
Ở Việt Nam, CPI được tính cho tồn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá
bình quân được thông báo theo tháng, quý và tổng hợp cả năm.
Trên cơ sở xác định chỉ số giá tiêu dùng bình quân, tỷ lệ lạm phát phản ánh sự
thay đổi mức giá bình quân của giai đoạn này so với giai đoạn trước được tính theo
cơng thức:
Tỷ lệ lạm phát =
Mức giá năm hiện tại - Mức giá năm trước
Mức giá năm trước
x 100%
Chỉ số CPI mặc dù được tính một cách khoa học, nhưng chưa hồn tồn chính
xác, vì nó mới chỉ phản ánh giá cả của những hàng hoá trong “rổ” chứ chưa phải là
tồn bộ lượng hàng hố trên thị trường. Mặt khác CPI chỉ phản ánh được sự thay đổi
giá bên ngồi cịn yếu tố nội tại làm tăng giá như: đầu tư về khoa học công nghệ làm
cho mẫu mã hàng hoá đẹp hơn, bền hơn, nhiều công dụng hơn… yếu tố làm tăng giá
này trên một sản phẩm mang tên cũ không phải là yếu tố làm tăng lạm phát thì CPI
khơng phản ánh được.
* Chỉ số giá sản xuất PPI (Producer Price Index)
PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn
định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế (ở
Mỹ, chỉ số này được tính cho khoảng 3.400 sản phẩm).
* Chỉ số giảm phát GNP (GND Deflator)
Chỉ số này được xác định bằng cách so sánh giữa giá danh nghĩa và giá thực tế
của GDP. Chỉ số này cho thấy được một cách toàn diện sự tăng hoặc giảm giá của toàn
bộ của cải vật chất của nền kinh tế. Từ đó thấy được giá trị thực của toàn bộ của cải
vật chất lúc ban đầu.
* Chỉ số giảm phát GDP (GDP Deflator)
Chỉ số này được xác định bằng cách so sánh giữa GDP theo giá trị hiện hành và
GDP theo giá một năm nào đó được chọn làm gốc. Chỉ số này cho thấy sự thay đổi giá
của tất cả các mặt hàng tạo nên tổng sản phẩm quốc nội. Nó được sử dụng để phân tích
sự ảnh hưởng của giá cả lên các cân đối vĩ mô của nền kinh tế quốc dân.
c. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
* Xét về mặt định lượng: người ta chia lạm phát thành 3 loại:
21
- Lạm phát vừa phải: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với
mức lạm phát này không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thậm chí
nó cịn tác động ngược lại làm cho nền kinh tế năng động hơn. Vì vậy mà nhiều Chính
phủ cịn có kế hoạch duy trì lạm phát vừa phải trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của mình.
- Lạm phát phi mã: Tỷ lệ lạm phát ở mức hai hoặc ba con số: 10%, 20%,
100%... Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (10%, 12%...) nói chung những tác động tiêu
cực là khơng đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ lạm
phát ở mức cao hơn, lạm phát trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác
động tiêu cực của nó là khơng nhỏ, đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: Là loại lạm phát mà giá cả của tất cả các loại hàng hoá tăng cao
gấp nhiều lần lạm phát phi mã. Loại lạm phát này có tốc độ tăng rất nhanh, liên tục và
không thể kiềm chế được. Loại lạm phát này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển kinh tế - xã hội: kinh tế suy sụp nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao
động giảm mạnh.
* Xét về mặt định tính:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng: Khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát
không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: Tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập.
Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước: Là lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài
với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đốn
trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen
với tình hình lạm phát đó và có sự chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.
Lạm phát bất thường: Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề
xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích
nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin
tưởng của người dân vào chính quyền đương nhiệm.
1.6.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
a. Lạm phát do cầu kéo
Đây là nguyên nhân do tổng cầu của xã hội tăng lên vượt quá mức cung ứng
hàng hoá của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Nói cách khác, bất kỳ lý do nào
làm cho tổng cầu tăng lên đều dẫn đến lạm phát về mặt ngắn hạn. Trong thực tế, Chính
phủ có thể kiểm sốt loại lạm phát này ở mức độ nhất định, lợi dụng lạm phát cầu kéo
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm cơng ăn việc làm.
Có rất nhiều ngun nhân dẫn đến lạm phát cầu kéo, thông thường do các
nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do bội chi ngân sách Nhà nước thường xuyên và kéo dài, ngân hàng Trung
ương phải phát hành tiền tạm ứng cho Chính phủ chi tiêu.
22