Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Báo cáo thực tập tổng quan TỔNG CÔNG TY CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM (VINAMOTOR)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.04 KB, 78 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành được chuyên đề này em đã nhận được sự giúp đỡ của các
Cô chú cán bộ nhân viên tại Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt chi nhánh Hà
Nội đặc biệt là sự hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình của Cô giáo Thạc sĩ
Nguyễn Thị Thùy Dương. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Cô
giáo và Cô chú cán bộ nhân viên tại Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt chi
nhánh Hà Nội.
Sinh viên
Nguyễn Thị Bích Ngọc
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
1
1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân
hàng Thương mại – đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động
của Ngân hàng. Vốn của Ngân hàng là điều kiện ban đầu để thành lập Ngân
hàng. Vốn là nguồn tài trợ chính cho xây dựng trụ sở Ngân hàng, mua sắm thiết
bị và duy trì hoạt động của Ngân hàng.
Trong điều kiện nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng một nền kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội
nhập kinh tế toàn cầu thì vốn là một bài toán quan trọng không chỉ đặt ra cho các
Ngân hàng mà là cho cả nền kinh tế. Để đáp ứng cho nhu cầu giải quyết các vấn
đề về nguồn lực, vấn đề vốn – vấn đề thuộc cơ sở hạ tầng mềm cho phát triển,
đòi hỏi chúng ta cần có cái nhìn toàn diện về vốn và đề ra những giải pháp huy
động vốn mang tính thiết thực và cụ thể, những chiến lược mang tính cách mạng
trong dài hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốncũng như nâng cao khả năng hấp
thụ vốn của nền kinh tế. Trong đó, Ngân hàng thương mại với chức năng của
mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn còn nhàn rỗi


trong dân cư, nhất là khai thác nguồn trung và dài hạn để cho vay và đầu tư .
Tuy nhiên, tình trạng chung của các Ngân hàng thương mại hiện nay nói
chung và Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt chi nhánh Hà Nội nói riêng là hiệu
quả huy động vón chưa cao do đó làm hạn chế khả năng sử dụng vốn cũng như
tác động đến tốc độ tăng trưởng của mình. Giảỉ pháp mang tính cấp thiết, có ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn là giải quyết bài toán nâng cao hiệu quả huy
động vốn. Vì thế, trong thời gian thựuc tập tại Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt
chi nhánh Hà Nội em đã chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt chi nhánh Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề
tốt nghiệp.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
2
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài lời mở đầu và kết lận thì kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
Chương 2. Thực trạng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng Liên
doanh Lào – Việt chi nhánh Hà Nội
Chương3. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
Liên doanh Lào – Việt chi nhánh Hà Nội
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
3
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1: Tổng quan về hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
 Khái niệm về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế,

là tổ chức hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết trong nền kinh tế. Ngân hàng là
một loại hình doanh nghiệp đặc biệt bởi vì nó có mối liên hệ với hầu hết các đối
tượng trong nền kinh tế. Nhiều cá nhân tổ chức, hộ gia đình và các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hôi đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng giữ
vai trò thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với
các doanh nghiệp, các cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức xã hội. Không thể đưa
ra một định nghĩa chính xác và duy nhất về khái niệm Ngân hành thương mại do
có nhiều cách tiếp cận Ngân hàng dưới nhiều góc độ khác nhau.
Xuất phát từ sự ra đời của Ngân hàng thương mại từ những chức năng sơ
khai về Ngân hàng thương mại khái niệm Ngân hàng thương mại được hiểu là: “
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ. Nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền
gửi của khách hàng dưới nhiều hình thức khác nhau”. Như vậy, Ngân hàng là tổ
chức trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu
dùng, là một thành viên quan trọng trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do Nhà
nước hoặc chính quyền địa phương phát hành, cũng như của một số tổ chức cung
cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp cũng như cho doanh
nghiệp vay trung và dài hạn để mua sắm tài sản cố định.
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế Ngân hàng ngày
càng đảm nhiệm nhiều chức năng hơn trong nền kinh tế. Hoạt động của Ngân
hàng ngày càng hướng đến đa dạng như vươn sang lĩnh vực kinh doanh bất động
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
4
4
Chuyên đề tốt nghiệp
sản, chứng khoán, bảo hiểm, cho thuê tài chính và mở rộng doanh mực dịch vụ
thỏa mãn đa dạng yêu cầu của khách hàng. Ở Mỹ, một số nhà kinh tế học đã tìm
cách phân biệt Ngân hàng với các tổ chức tài chính phi Ngân hàng bằng cách
tiếp cận từ những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp để từ đó đưa ra định
nghĩa: “ Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một

danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế “.
Theo luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt
Nam, Ngân hành thương mại được định nghĩa là “ Ngân hàng là loại hình tổ
chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán “. Ngân hàng
thương mại chịu sự điều tiế vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước trong việc tôn trọng
và chấp hành các chính sách và các biệ pháp quản lý mà Ngân hàng Nhà nước
đưa ra, đồng thời Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ về đại lý, ủy nhiệm cho
Ngân hàng Nhà nước.
1.1.1. Chức năng và vai trò của Ngân hàng thương mại.
 Trung gian tài chính.
Ngân hàng là trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm
thành đầu tư, đòi hỏi phải có sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong
nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâ hụt chi tiêu và (2) các cá
nhân tổ chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu. Sự tồn tại của hai laọi cá nhân tổ
chức này hoàn toàn độc lập với Ngân hàng. Điều tất yếu tiền sẽ chuyển từ nhóm
(2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nập gia tăng là động lực
tạo mối quan hệ giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay
trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó chính
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
5
5
Chuyên đề tốt nghiệp
là quan hệ tín dụng. Có hai laọi quan hệ tín dụng: tín dụng trực tiếp và tín dụng
gián tiếp. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có rất lâu và tồn tại đến ngày nay tuy
nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do không phù hợp về quy mô, thời

gian, không gian… diều này cản trở quan hệ tín dụng trực tiếp phát triển chính là
điều kiện phát triển quan hệ tín dụng gián tiếp. Những trung gian tài chính
chuyển vốn từ người cho vay – người tiết kiệm sang người vay – người chi tiêu.
Như vậy các trung gian tài chính làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó
khuyền khích tiết kiệm, đồng thời làm giảm phí tổn cho người đầu tư (làm tăng
thu nhập cho người đầu tư) từ đó khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính tập
hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy giải quyết được mâu thuẫn mà tín dụng
trực tiếp bị hạn chế. Cơ chế hoạt động của trung gian tài chính hiệu quả khi nó
gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và
giảm chi phí giao dịch.
 Tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các
Ngân hàng không có chức năng tạo tiền kim loại nhưng các Ngân hàng có thể
tạo ra phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nợ với khách hàng. Giấy nợ do
Ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất đinh đã trở thành phương tiện thanh toán
rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các Ngân hàng đã tạo ra
các phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số tiền kim loại đang
nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim
loại làm phương tiện lưu thông và cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền
mang lại lợi nhuận lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất
dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ
chức là Bộ tài chính hoặc Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc Ngân
hàng thương mại tạo ra giấy bạc riêng cho mình.
Trong diều kiện phát triển thanh toán qua Ngân hàng, khách hàng nhận thấy
nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả được
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
6
6
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, lượng tiền này

bao gồm nhièu bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (M0), thứ hai là số
dư trên khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại các Ngân hàng, thứ ba là tiền
gửi trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn… Khi Ngân hàng cho
vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách
hàng có thể dùng để mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo
tín dụng) các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1)
Toàn bộ hệ thống Ngân hàng tham gia tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên cơ sở
chovay.
 Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa
và dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, và tiết kiệm chi phí, Ngân
hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện
thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các
trung tâm thanh toán. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo
tính thống nhất không chhỉ giữa các Ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa
các Ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết
lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành
trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế
toàn cầu.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
7
7
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại,

đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Để
bắt đầu hoạt động ngân hàng ( được pháp luật chi phép) chủ Ngân hàng phải có
một khối lượng vốn nhất định gọi là vốn chủ sở hữu. Đây là loại vốn Ngân hàng
có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị nhà cửa cho Ngân hàng.
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính
chất sở hữu, năng lực của chủ Ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị
trường.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân
hàng thương mại. Khi một Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách
đó Ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền là nguồn tiền quan trọg chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân
hàng.
Để gia tăng tiền gửi trong môi trờng cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất
lượng ngày càng cao, các Ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức huy động
khác nhau. Một trong các hình thức huy động vốn của Ngân hàng là huy động
nguồn tiền gửi thanh toán. Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào
Ngân hàng để nhờ Ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho
phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân được Ngân hàng thực
hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được
nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền
này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ của tài có thể được hưởng các
dịch vụ của Ngân hàng với mức chi phí thấp. Ngân hàng mở các tài khoản tiền
gửi thanh toán (tài khoản có thể viết séc) cho khác hàng. Thủ tục mở rất đơn
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
8
8
Chuyên đề tốt nghiệp
giản. Yêu cầu của Ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ được thanh toán
trong phạm vi số dư cho phép của tài khoản. Một số Ngân hàng kết hợp tài

khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư
của tài khoản thanh toán). Một số Ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến
tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh
tranh với các tổ chức tín dụng khác.
Nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Ngân hàng là nguồn huy động
từ tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhiều khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời
gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán
song lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu cho người gửi tiền, Ngân hàng
đưa ra hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi tiền không được sử
dụng các hình thức thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi
tiêu, người gửi phải đến Ngân hàng rút tiền ra. Tuy không thuận lợi trong tiêu
dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi
suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn.
Ngoài ra các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử
dụng (các khoản tiền tiết kiện). Trong điều kiện khả năng tiếp cận với Ngân
hàng, họ đều có thể gửi tiết kiện nhằm thực hiện các nục tiêu bảo toàn và sinh lời
đối với các khoản tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư
thay đổi thói quen gữi tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động
bằng cách đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Ngân hàng có thể mở rộng cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm
(hoặc sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Tiền tiết kiệm này
dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu
được Ngân hàng cho phép.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
9
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài ra, nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác,
Ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại Ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy

mô nguồn này thường không lớn.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất cảu Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên
khi cần, Ngân hàng có thể huy động thêm vốn bằng cách vay mượn thêm. Tại
nhiều nước, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy
động và vốn chủ sở hữu. Do đó nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể
phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động vốn bị
hạn chế.
Hoạt động của Ngân hàng còn bao gồm các hoạt động ủy thác như: ủy thác
cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ ..v..v. Các
hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn của Ngân hàng.
1.1.2.2. Hoạt động cho vay đầu tư.
Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn
(huy động vốn) để sử dụng vốn nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là
quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau cho Ngân hàng, trong đó cho vay và
đầu tư là hai hoạt động chính và quan trọng nhất của Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp king doanh tiền tệ. Do đó, đặc thù
là phần lớn tài sản của Ngân hàng là các tài sản chính gồm có các hợp đồng cho
vay, hợp đồng thuê – mua, các chứng khoán, các khoản tiền gửi..v..v. Một phần
nhỏ trong khối tài sản của Ngân hàng là các tài sản cố định. Mỗi loại tài sản
được hình thành theo các cách thức khác nhau, vì những mục tiêu khác nhau
song đều tập trung đảm bảo an toàn và sinh lợi tối đa cho Ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện đầu tư vào nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế nhằm đa
dạng hóa tài sản vì mục tiêu sinh lợi. Ngân hàng nắm giữ chứng khoán hay đầu
tư vào chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và Ngân hàng có
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
10
10
Chuyên đề tốt nghiệp
thể bán đi để gia tăng thêm ngân quỹ khi cần thiết. Ngân hàng thường chia
chứng khoán thành loại thanh khoản và kém thanh khoản. Thông thường các

chứng khoán có tính thanh khoản cao (chứng khoán thanh khoản) là chứng
khoán an toàn, dễ bán, ít giảm giá, nhưng có tỷ lệ sinh lợi thấp; ngược lại các
chứng khoán kém thanh khoản (chứng khoán đầu tư) có mức độ rủi ro cao và
thường có tỷ lệ sinh lời cao.
Hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản ở phần lớn
các Ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Hoạt
động cho vay dầu tư của Ngân hàng bao gồm:
• Cho vay thương mại:
Ngay ở thời kỳ dầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho Ngân
hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu
sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để
mua hàng hóa dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng:
Trong giai đoạn đầu hầu hết các Ngân hàng không tích cực cho vay đối với
các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro
vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong cho vay đã buộc các Ngân hàng hướng tới người tiêu dùng như một khách
hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở
thành loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát
triển.
• Tài trợ dự án:
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các Ngân hàng còn
ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc
biệt là trong nghành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
11
11
Chuyên đề tốt nghiệp
chung là cao song lãi lại lớn. Một số Ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất

đai.
1.1.2.3. Hoạt động trung gian.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia, Ngân hàng là tổ chức trung gian thanh
toán lớn nhất. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng
hóa và dịch vụ. Khi các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân
hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của
họ. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt,
tức là người gửi tiền không cần phải đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết
giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến Ngân
hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi Ngân hàng mở chi
nhánh, thanh toán qua Ngân hàng được mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích
cho các doanh nhân. Điều này khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào Ngân
hàng để nhờ thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được
phát triển là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh
toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới
này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp
Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh
toán được phát triển như Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện,
thẻ…
Nghiệp vụ bảo lãnh là một trong những hoạt động trung gian mà ngân hàng
cung cấp cho khách hàng. Do khả năng thanh toán của Ngân hàng cho một
khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên
Ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây,
nghiệp vu bảo kãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
12
12
Chuyên đề tốt nghiệp

bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát
hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…Nhiều ngân hàng đang
phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn
mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các Ngân hàng bắt đầu bán các
dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách cơ hội mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng
khoán. Trong một vài trương hợp, các Ngân hàng tổ chức ra các công ty chứng
khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
Ngoài ra, nhiều Ngân hàn trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều Ngân hàng (thường là Ngân hàng
lớn) cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán
hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài
trợ…làm phong phú thêm các hoạt đông trung gian của Ngân hàng trong nền
kinh tế.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn và cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại.
1.2.1.1. Khái niệm vốn:
Tiền tệ ra đời là một trong những phát minh vĩ đại của loài người và làm
thay đổi bộ mặt của nền kinh tế - xã hội. Mọi sự vận động của sản xuất và tiêu
dùng đều liên quan mật thiết đến sự vận động của tiền tệ và có sự tác động qua
lại.
Đồng tiền trở thành thước đo chung cho tất cả hoạt động kinh doanh của
nền kinh tế. Khái niệm vốn xuất hiện và vai trò của vốn ngày càng qua trọng.
Vốn trở thành yếu tố quyết định của sản xuất. Tuy nhiên, khi nền kinh tế còn
mang tính tự cung, tự cấp, người ta ít chú ý đến vốn. Nhưng từ sau cách mạng
Công nghiệp (cuối thế kỷ XVIII ), vấn đề vốn đã được quan tâm nhiều hơn. Vốn
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
13
13
Chuyên đề tốt nghiệp

theo khái niệm rộng, không chỉ là tiền tệ mà là nguồn lực như tài nguyên thiên
nhiên, đất đai, lao động, trí tuệ... Khi hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài
chính phi Ngân hàng ra đời và phát triển, vốn đồng nghĩa với tiên và được gọi là
vốn tài chính.
Trong nền kinh tế hàng hóa, vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu, là
điều kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu tư cho sản xuất và kinh doanh. Thông
qua thị trường, vốn giao lưu rộng rãi và càng thể hiện rõ bản chất cũng như vai
trò của nó. C.Mác đã khái quát hóa phạm trù vốn qua phạm trù “tư bản” “ tư bản
là giá trị mang lại giá trị thặng dư”. Định nghĩa cô đọng này đã thể hiện cả nội
dung, đặc trưng và vai trò, tác động của vốn. Để nhận thức đúng quan điểm của
C.Mác, cần phải hiểu một cách sâu sắc phạm trù vốn cùng các đặc trưng của nó.
Lịch sử phát triển trong nhiều năm qua đã chứng minh rằng các Tổ chức
Tài chính – tín dụng vẫn là các trung gian tích tụ và tập trung vốn lớn nhất trong
nền kinh tế. Ngoài kênh dẫn vốn là thj trường chứng khoán ra thì Ngân hàng là
cầu nối đáp ứng mối quan hệ cung – cầu vốn trong nền kinh tế. Ngân hàng trở
thành nhân tố quan trọng trong đầu tư phát triển. Về tổng thể vai trò của vốn tín
dụng Ngân hàng được thể hiện rõ thông qua các mặt sau:
• Góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển:
Nguồn vốn tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của
nền kinh tế, thông qua các hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại, nó tạo
ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp
và các dịch vụ của đất nước.
Đối với ngành công nghiệp, nguồn vốn tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện
để duy trì thường xuyên mối liên hệ không tách rời giữa sản xuất, lưu thông hàng
hóa và tiêu dùng xã hội. Vốn tín dụng NH không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn
hạn để dự trữ vật tư hàng hóa,trang trải các chi phí sản xuấtvà thanh toán những
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
14
14
Chuyên đề tốt nghiệp

khoản nợ,mà còn cho vay đầu tư XDCB, như xây dựng các xí nghiệp mới, các
cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ thuật bằng vốn trung và dài hạn.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhờ vốn tín dụng mà nông dân có khả năng
mua các loại giống, thức ăn, phân bón, thiết bị máy móc và thuê mướn công
nhân cho việc trồng trọt và thu hoạch trên đồng ruộng của họ.
Trong thương nghiệp, các cửa hàng bán buôn và bán lẻ có khả năng dự trữ
những hàng hóa và vận chuyển những hàng hóa đó đến tay người tiêu dùng, nhờ
nguồn tín dụng của NH. Ngoài ra, nguồn tín dụng Ngân hàng đáp ứng đáng kể
nhu cầu tín dụng trong tiêu dùng.
Đối với Ngân sách Nhà nước do thu nhập của Nhà nước không phải lúc nào
cũng tương ứng với các khoản chi, dẫn đến tình trạng thiếu hụt Ngân sách tạm
thời, đòi hỏi phải đáp ứng. Hiện nay, theo luật Ngân sách được nhà Quốc hội phê
chuẩn, thì “Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho Ngân sách Trung ương để xử lý
thiếu hụt Ngân sách tạm thời Quỹ Ngân sách Nhà nước theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Khoản tạn ứng này phải được hoàn trả trong năm Ngân sách,
trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định “. Tuy nhiên, việc
cải thiện tình hình thiếu hụt Ngân sách không phải lúc nào cũng vay Ngân hàng,
mà có thể vay dân chúng thông qua phát hành chứng khoán công cộng hoặc vay
nước ngoài. Vậy bằng việc mua các chứng khoán công cộng, Ngân hàng thực
hiện việc cung ứng vốn cho Nhà nước và Nhà nước sử dụng vốn đó cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng và các công việc của Nhà nước.
Cùng với vốn Ngân sách, vốn tín dụng Ngân hàng đã hỗ trợ đầu tư dưới
dạng cho vay vào lĩnh lực công cộng sẽ thu hút thêm số lượng lao động, đặc biệt
là các chương trình tạo việc làm của Chính phủ. Việc đầu tư vào vốn tín dụng
Ngân hàng được tăng lên sẽ có điều kiện để gia tăng thêm việc sử dụng thêm
nguồn nhân lực.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
15
15
Chuyên đề tốt nghiệp

• Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của nền kinh tế nói chung và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nội bộ trong từng ngành kinh tế, kỹ thuật nói riêng sẽ có ý
nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nền
kinh tế. Nước ta đang trên đường tiến lên công nghiệp hóa hiện đại hóa, nên tất
yếu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp, giảm dần tỷ trọng
trong nông nghiệp và tăng trưởng dần tỷ trọng trong các ngành công nghiệpvà
dịch vụ. Do đó nhằm tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một trong các yếu tố
quan trọng là phân phối và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng Ngân hàng
để đầu tư vào các ngành, lĩnh vực theo chiến lược phát triển kinh tế đã đề ra.
Vốn tín dụng của Ngân hàng được thể hiện thông qua việc kích thích hay hạn
chế quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
• Nâng cao khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp:
Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng tác động đến hiệu quả, đến nhịp độ
phát triển sôi động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong môi
trường cạnh tranh, các chủ thể kinh tế phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều
biện pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh như ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản trị nhân lực.
1.2.1.2. Đặc trưng của vốn:
• Truớc hết vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản.
Tức là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất
định, bao gồm tài sản hữu hình như tư liệu sản xuất, nhà máy, đất
đai, nguyên vật liệu... và tài sản vô hình như chất xám, nhân lực,
thông tin... Điều đó phân biệt rõ vốn khác với tiền. Có người ngộ
nhận rằng có sự đồng nhất giữa đồng tiền phát hành với “đồng vốn”
và cho rằng tiền do Nhà nước phát hành cũng là vốn. Suy nghĩ như
vậy là không chính xác. Vì nếu một lượng tiền được in khống, phát
hành không trên cơ sở giá trị thực của hàng hóa để đưa vào lưu thông
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
16

16
Chuyên đề tốt nghiệp
thì đó chỉ là vốn “giả tạo” chứ không phải là vốn đầu tư thực chất.
Chỉ những đồng tiền phát hành trên cơ sở được đảm bảo bằng giá trị
hàng hóa mới được gọi là vốn.
• Vốn phải vận động: Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng không phải
là tiền được vận động với mục đích sinh lời. Do đó các tài sản cố định
không sử dụng, hàng hóa vật tư ứ đọng, tiền để dành trong két... Chỉ là
đồng vốn chết.
• Trong quá trình vận động, vốn – tiền đều có điểm xuất phát và kết thúc
là T, sau mỗi chu kỳ vận động T sẽ “lớn hơn” một lượng là T = T+∆T
• Để có thể phát huy được tác dụng, vốn phải được tích tụ, tập trung đến
một lượng nhất định. Trong đầu tư sản xuất kinh doanh , thường đòi
hỏi phải có một lượng vốn nhất định, mới có thể xản xuất kinh doanh
bình thường và mang lại hiệu quả , đồng thời tăng sức cạnh tranh lẫn
nhau. Do đó, nếu vốn bị phân tán thì không phát huy được tác dụng
mạnh mẽ. Vì thế các nhà đầu tư ngoài việc khai tiềm năng vốn của đơn
vị, còn tìm cách huy động vốn thông qua các hình thức như: hùn vốn
liên doanh, phát hành trái phiếu, cổ phiếu..vv..
• Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hóa đặc biệt và
được gắn với một chủ sở hữu nhất định.
• Đối với hàng hóa thông thường, được lưu thông, mua bán trên thị
trường hàng hóa và người sở hữu hàng hóa đã bán quyền sở hữu của
mình. Còn “hàng hóa vốn” thì đã được lưu thông, mua bán trên thị
trường vốn và người sở của hữu vốn lại không bán quyền sở hữu vốn
mà chỉ bán quyền sử dụng vốn. Sau một thời gian nhất định, người
mua quyền sử dụng vốn phải trả cho người chủ sở hữu vốn một khoản
gọi là lợi tức. Như vậy, lợi tức là giá mà người mua phải trả cho người
chủ sở hữu về quyền sủ dụng vốn. Thị trường vốn là nơi diễn ra mua
bán giữa người có vốn và người có nhu cầu sủ dụng vốn. Người ta sử

Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
17
17
Chuyên đề tốt nghiệp
dụng đặc điểm quan trọng này trong lưu thông vốn nhằm tạo ra các
dòng chảy, các “kênh” từ cung đến cầu về vốn.
Người chủ sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn hoặc có thể
tách ra khỏi người sử dụng vốn. Do đó, trong mọi trường hợp, người sở hữu vốn
phải được ưu tiên, đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu đồng vốn
của mình. Để huy động được vốn nhàn rỗi trong xã hội, cần phải tuân thủ
nguyên tắc này.
• Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền – phản ánh giá trị của những tài sản
hữu hình nhue đất đai , nhà cửa, thiết bị... mà còn được biểu hiện bằng
tài sản vô hình như: nhãn hiệu, vị trí sản xuất kinh doanh, bản quyền,
phát minh, sáng chế..vv.. Tài sản vô hình rất đa dạng, phong phú và
giá trị của nó rất lớn. Nếu biết khai thác và sử dụng có hiệu quả tài sản
này sẽ đem lại lợi nhuận đáng kể. Đặc biệt, trong việc góp vốn đầu tư
liên doanh, đánh giá lại tài sản của Doanh nghiệp để bán thanh lý... cần
phải đánh giá giá trị một cách chính xác các tài sản, trong đó có tài sản
vô hình.
Từ những phân tích trên đây về phạm trù vốn trong nền kinh tế thị trường,
có thể rút ra định nghĩa chung: Vốn đầu tư là giá trị của các tài sản xã hội được
đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai.
1.2.1.3. Cơ cấu vốn của Ngân hàng Thương mại
 Vốn chủ sở hữu:
 Vốn hình thành ban đầu:
Tùy theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn gốc hình vốn ban đầu
khác nhau. Nếu Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, Ngân sách Nhà nước cấp.
Nếu là Ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phần
hoặc cổ phiếu do Ngân hàng phát hành. Ngân hàng Liên doanh do các bên liên

doanh đóng góp; Ngân hàng tư nhân thuộc vốn sở hữu của tư nhân.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
18
18
Chuyên đề tốt nghiệp
 Nguồn vốn hình thành trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng gia tăng vốn chủ theo nhiều phương
thức khác nhau tùy theo hình thức hoạt động và điều kiện cụ thể của từng Ngân
hàng.
- Nguồn thu từ lợi nhuận: trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ
Ngân hàng có xu hướng gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu của mình bằng cách
chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ trích lũy tùy thuộc vào
cân nhắc của chủ sở hữu Ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng
lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn trích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn so với vốn
chủ sở hữu được hình thành ban đầu
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở
rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu
gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định… Đặc điểm của hình
thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho Ngân hàng có được
lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
 Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích riêng. Trước tiên là quỹ
dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy nhằm bù
đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo tồn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn
dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của Ngân
hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành cổ
phiếu mới. tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các Ngân hàng có thể có
Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng , Quỹ giám đốc…
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng. Nguồn hình thành
các quỹ này là từ thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các

Quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng Quỹ.
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
19
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Các khoản vay trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại mà có khả năng
chuyển đối thành vốn cổ phần có thể được coi là bộ phận sở hữu của Ngân hàng
(vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu
tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
20
20
Chuyên đề tốt nghiệp
 Vốn vay:
 Nguồn tiền gửi
Tiền gửi của khác hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân hàng
thương mại. Một khi Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các
tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó
Ngân hàng có thể huy động được tiền của doanh nghiệp, các tổ chức và của dân
cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của Ngân hàng. Để gia tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và
để có được nguồn tiền có tính ổn định và chất lượng ngày càng cao, các Ngân
hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau.
• Tiền gửi thanh toán:
Đây là tiền của các doanh nghiệp hoặc các cá nhân gửi vào Ngân hàng với
mục đích nhờ Ngân hàng giữ và thanh toán hộ.Trong phạm vi số dư cho phép,
các nhu cầu chi trả thanh toán của doanh nghiệp và cá nhân đều được Ngân hàng
thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể đều được

nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nói chung, lãi suất của các khoản tiền
này thấp hoặc bằng không thay vào đó chủ tài khoản được hưởng các dịch vụ
của Ngân hàng cung cấp đi kèm với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền
gửi thanh toán theo yêu cầu (tài khoản có thể phát séc ) cho khách hàng. Thủ tục
mở rất đơn giản, yêu cầu của Ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh
toán trong phạm vi số dư. Một số Ngân hàng kết hợp cả tài khoản tiền gửi thanh
toán và tài khoản cho va ( thấu chi - chi trội trên số dư có của tài khoản thanh
toán). Ngân hàng cũng có thể sử dụng hình thức biến tướng của tài khoản thanh
toán để nâng cao lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín
dụng khác.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
21
21
Chuyên đề tốt nghiệp
• Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội:
Nhiều khoản phải thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện
cho hoạt động thanh toán nhưng lãi suất lại rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng
doanh thu cho người gửi tiền, Ngân hàng đã đưa ra hình thức có kì hạn. Người
gửi tiền không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với loại tiền gửi có kì
hạn. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến Ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không
thuận lợi cho tiêu dùng bằng tiền gửi thanh toán nhưng loại tiền gửi có kì hạn
được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn gửi tiền.
• Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các
khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ
đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với
các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều
tiền tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói
quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa

ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn ( ví dụ như tiền
gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng…). Ngân hàng
có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết
kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để
thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được Ngân
hàng cho phép.
• Tiền gửi của các Ngân hàng khác:
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, Ngân hàng
thương mại này có thể gửi tiền tại Ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn
này thường không lớn.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
22
22
Chuyên đề tốt nghiệp
 Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn vay quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước Ngân hàng
Trung ương thường quy định tỷ leej giữa nguồn tiền huy động và vốn của
Chính phủ. Do vậy nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay
mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
• Vay Ngân hàng Nhà nước:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của Ngân
hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự
trữ thanh toán) Ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình
thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp
vốn). Các thương phiếu đã được các Ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái
chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền Ngân hàng mang những thương
phiếu này lên tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương
phiếu của Ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại
Ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này

một cách chặt chẽ; Ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo
và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng (thương phiếu có thời gian đáo hạn ngắn,
khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong
từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu Ngân hàng Nhà nước cho
Ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng
nhất định.
• Vay các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn các Ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các Tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Các Ngân hàng đang có dự trữ vượt
yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm
cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các Ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
23
23
Chuyên đề tốt nghiệp
cao hơn. Ngược lai, các Ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn
tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các Ngân hàng
khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường
hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước.
Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với
Ngân hàng cho vay hoặc thông qua Ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà
nước) khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các
chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của Ngân hàng cho vay giảm đi và
của Ngân hàng đi vay tăng lên.
• Vay trên thị trường vốn:
Giống như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, hối phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn.
Rất nhiều Ngân hàng thương mại thiếun hụt nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn
đến không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay của khách hàng với những khoản tín

dụng trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung
cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu đầu tư và cho vay trung và dài hạn.
Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những Ngân hàng có uy tín
hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các Ngân hàng nhỏ thường
khó vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các Ngân
hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của các Ngân hàng khác. Khả năng vay mượn
tùy thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, khả năng chuyển đổi
của các công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay mượn tương đối
phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mện
giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều
chỉnh lãi suất, quỹ bảo hộ… cũng được các Ngân hàng quan tâm nhằm phát huy
tối đa lượng vốn huy động.
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
24
24
Chuyên đề tốt nghiệp
 Nguồn khác
• Nguồn ủy thác:
Ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ ủy thác như ủy thác cho
vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ… Các hoạt
động này tạo nên nguồn ủy thác tại Ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối
quan hệ đa phương, rất nhều các tổ chức kinh tế, xã hội cùng có mục tiêu phát
triển như Ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới của Ngân hàng
như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả hình thành nên nguồn ủy thác
cho Ngân hàng làm gia tăng nguồn vốn cho Ngân hàng.
• Nguồn trong thanh toán:
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn
trong thanh toán cho Ngân hàng (séc trong qua trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/
C…). Những ngân hàng là Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ
tiền của các Ngân hàng đồng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.

1.2.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại được huy động chủ yếu là để cho
vay hay nói cách khác là Ngân hàng kiếm lời từ việc sử dụng tiền “tạm thời nhàn
rỗi” của người cho vay – người đầu tư cho người khác. Vì vậy hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng ảnh hưởng đến hoạt động kinh daonh của Ngân hàng
và chiến lược phát triển của Ngân hàng.
Hiệu quả huy động vốn là pạhm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo
thực hiện hoạt động huy động vốn đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của
Các khoản nợ là các tài nguyên của Ngân hàng. Chất lượng và số lượng của
nó ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng và số lượng các khoản cho vay và đầu tư
của Ngân hàng. Mục tiêu quản lý các khoản vốn huy động không nằm ngoài mục
Nguyễn Thị Bích Ngọc Tài chính công 46
25
25

×