Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Có quan niệm cho rằng: Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tầng lớp trí thức mới là lực có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản chứ không phải giai cấp công nhân. Ý kiến của nhóm em như thế nào?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.42 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: Có quan niệm cho rằng: Trong nền kinh tế tri thức hiện
nay, tầng lớp trí thức mới là lực có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản chứ
không phải giai cấp công nhân. Ý kiến của nhóm em như thế
nào?
Lớp HP: 2251HCMI0121
Nhóm: 2
GVHD: TS. Đỗ Thị Phương Hoa

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2


STT Họ và tên
18
Phan Khánh Chi
(Nhóm trưởng)

MSV
21D120175

19

Đỗ Thành Cơng

21D120007


20

Đinh Thị Diễm

21D120142

21

Nguyễn Ánh Đông

21D120507

22
23

Nguyễn Danh Minh 21D120008
Đức
Phạm Hải Dương
21D120108

24

Vương Thùy Dương

25

27

Lê Quỳnh Hương 21D120179
Giang

Văn
Thị
Hương 21D120249
Giang
Nguyễn Cẩm Hà
21D120009

28
29
30

Nguyễn Thị Việt Hà
Phạm Thị Ngọc Hà
Trần Thị Thu Hà

21D120214
21D120250
21D120110

31
32
33
34

Hồng Thị Thu Hằng
Ngơ Minh Hằng
Trần Thị Hằng
Nguyễn Thị Hồng
Hạnh


21D120251
21D120111
21D120182
21D120010

26

Công việc
Ý thức
Giám sát công việc củaTốt
các thành viên trong
nhóm, Phần hạn chế
của tầng lớp trí thức
Đặc trưng về nền kinhTốt
tế tri thức
Quan niệm về tầng lớpTốt
trí thức
Quan niệm về giai côngTốt
nhân
Powerpoint
Tốt
Sứ mệnh lịch sử củaTốt
giai cấp công nhân
Điều kiện khách quanTốt
và chủ quan quy
định/thực hiện SMLS
của GCCN
Hạn chế của tầng lớp tríTốt
thức
Lời cảm ơn, mở đầu,Tốt

kết luận
Hạn chế của tầng lớp tríTốt
thức
Powerpoint
Tốt
Thuyết Trình
Tốt
Điều kiện khách quanTốt
và chủ quan quy
định/thực hiện SMLS
của GCCN
Tổng hợp word
Tốt
Powerpoint
Tốt
Thuyết Trình
Tốt
Mở đầu và kết luận vềTốt
quan điểm

21D120144

2


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 2 Lần 1
Thời gian : 26/08/2022

Hình thức họp : Trực tuyến qua Google meet

STT

Họ và tên

Tham gia
3

Không
tham gia

Tham gia
muộn


18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

32
33
34

Phan Khánh Chi
Đỗ Thành Công
Đinh Thị Diễm
Nguyễn Ánh Đông
Nguyễn Danh Minh Đức
Phạm Hải Dương
Vương Thùy Dương
Lê Quỳnh Hương Giang
Văn Thị Hương Giang
Nguyễn Cẩm Hà
Nguyễn Thị Việt Hà
Phạm Thị Ngọc Hà
Trần Thị Thu Hà
Hồng Thị Thu Hằng
Ngơ Minh Hằng
Trần Thị Hằng
Nguyễn Hồng Hạnh

Số người có mặt theo danh sách: 17
Số người vắng mặt theo danh sách: 0
Số người vào muộn theo danh sách: 0
I.
II.
-

III.


Nội dung cuộc họp:
Xây dựng OUTLINE tổng quát cho đề tài.
Phân chia công việc cho các thành viên.
Kết quả cuộc họp:
Hoàn thành outline của đề tài để tiến hành bắt đầu thực hiện công việc.
Các thành viên nhận nhiệm vụ cụ thể của mình (bảng nhiệm vụ ghi rõ trong bảng
danh sách nhóm).
Đánh giá cuộc họp
Các thành viên tham gia nhiệt tình và có trách nhiệm.
Trưởng nhóm
Chi
Phan Khánh Chi

4


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM Lần 2
Thời gian : 18/09/2022
Hình thức họp : Trực tuyến qua Google meet

STT
18
19
20
21
22

23
24

Họ và tên

Tham gia

Phan Khánh Chi
Đỗ Thành Công
Đinh Thị Diễm
Nguyễn Ánh Đông
Nguyễn Danh Minh Đức
Phạm Hải Dương
Vương Thùy Dương
5

Không
tham gia

Tham gia
muộn


25
26
27
28
29
30
31

32
33
34

Lê Quỳnh Hương Giang
Văn Thị Hương Giang
Nguyễn Cẩm Hà
Nguyễn Thị Việt Hà
Phạm Thị Ngọc Hà
Trần Thị Thu Hà
Hoàng Thị Thu Hằng
Ngơ Minh Hằng
Trần Thị Hằng
Nguyễn Hồng Hạnh

Số người có mặt theo danh sách: 17
Số người vắng mặt theo danh sách: 0
Số người vào muộn theo danh sách: 0
I.

II.

III.

Nội dung cuộc họp
Thực hiện việc kiểm tra tiến độ bài làm của các thành viên.
Kết quả cuộc họp:
Tất cả thành viên hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà mình được giao đúng
deadline.
Đánh giá cuộc họp

Các thành viên tham gia nhiệt tình và có trách nhiệm.
Trưởng nhóm
Chi
Phan Khánh Chi

6


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 3
Thời gian: 22h30 12/10/2022
Hình thức họp: Trực tuyến qua Google meet
STT
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31


Họ và tên

Tham gia

Phan Khánh Chi
Đỗ Thành Công
Đinh Thị Diễm
Nguyễn Ánh Đông
Nguyễn Danh Minh Đức
Phạm Hải Dương
Vương Thùy Dương
Lê Quỳnh Hương Giang
Văn Thị Hương Giang
Nguyễn Cẩm Hà
Nguyễn Thị Việt Hà
Phạm Thị Ngọc Hà
Trần Thị Thu Hà
Hồng Thị Thu Hằng
7

Khơng
tham gia

Tham gia
muộn


32
33
34


Ngơ Minh Hằng
Trần Thị Hằng
Nguyễn Hồng Hạnh

Số người có mặt theo danh sách: 17
Số người vắng mặt theo danh sách: 0
Số người vào muộn theo danh sách: 0
I.

II.

III.

Nội dung cuộc họp
Nhóm tham gia duyệt lại buổi thuyết trình cuối trước cả nhóm để xin đánh giá và ý
kiến từ các thành viên trong nhóm.
Kết quả cuộc họp
Hai bạn Phạm Hà và Trần Hằng thuyết trình ổn, nắm vững cấu trúc bài thảo luận và
hoàn thành tốt trước đánh giá của cả nhóm.
Đánh giá cuộc họp
Các thành viên tham gia đầy đủ, nhiệt tình và có trách nhiệm cao.
Trưởng nhóm
Chi
Phan Khánh Chi

8


LỜI MỞ ĐẦU

Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được nền đại công
nghiệp rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh; từ
đó họ làm được cuộc cách mạng giành chính quyền, giải phóng con người, xây
dựng xã hội mới, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc
cho nhân dân mới là mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cao sâu
sắc vai trị to lớn này của giai cấp cơng nhân, để họ có thể bước lên vũ đài chính trị
và khẳng định vị thế quan trọng của sứ mệnh lịch sử của mình.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là nội dung chủ yếu, điểm căn bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, là phạm trù trung tâm, nguyên lý xuất phát của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Tuy nhiên lại có một số quan điểm cho rằng giai cấp cơng
nhân đã hồn thành sứ mệnh của mình và trong thời bình ngày nay, vai trị đó được
đội ngũ trí thức tiếp nhận. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới có thể làm chủ
xã hội, đưa đất nước phát triển hiện đại, văn minh.
Mặc dù tầng lớp trí thức đang gia tăng nhanh chóng về số lượng, ngay cả bản thân
giai cấp công nhân cũng diễn ra xu hướng trí thức hóa ngày càng mạnh mẽ nhưng
điều đó khơng có nghĩa là tầng lớp trí thức thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Tầng lớp trí thức khơng thể đảm đương được vì có những hạn chế nhất
định. Dù vậy những quan niệm mới trên đang được bàn tán, phân tích trong xã hội
ngày nay. Nhận thức được rõ tầm quan trọng của của giai cấp công nhân và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhóm 2 đã lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Có quan niệm cho rằng: Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tầng lớp trí thức
mới là lực lượng có sứ mệnh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ
nghĩa cộng sản chứ khơng phải giai cấp cơng nhân.” Và từ đó là ý kiến về quan
điểm trên của nhóm chúng em.
9


LỜI CẢM ƠN


Để có thể hồn thành được đề tài thảo luận này, trước tiên nhóm 2 xin gửi tới các
thầy cô, giảng viên của Trường đại học Thương mại lời cảm ơn chân thành và sâu
sắc nhất.
Đặc biệt, nhóm 2 xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô TS. Đỗ Thị Phương
Hoa - giảng viên bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, người đã trực tiếp giảng dạy
cũng như hướng dẫn và hỗ trợ chúng em rất nhiều trong q trình chúng em hồn
thành đề tài thảo luận này.
Xin cảm ơn tất cả các thành viên trong nhóm 2 bộ mơn Chủ nghĩa xã hội khoa học
- những con người có ý thức, trách nhiệm cao với cơng việc, rất nhiệt tình giúp đỡ,
hỗ trợ lẫn nhau để có thể đạt được kết quả tốt nhất.
Vì kiến thức của bản thân cịn nhiều hạn chế nên trong q trình hồn thiện đề tài
thảo luận chúng em khơng tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý
kiến đóng góp từ cơ cũng như các bạn trong lớp.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

10


A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Quan điểm về giai cấp công nhân
1.1. Khái niệm
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản là giai cấp
những cơng nhân làm th hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên
buộc bán sức lao động của mình để sống”.
Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội, hình thành và phát triển cùng với q
trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại, giai cấp công nhân là “con đẻ” của
nền đại công nghiệp. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện
đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức
sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm th do khơng có tư
liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá

trị thặng dư. Vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư
sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
1.2. Đặc điểm
Giai cấp công nhân được các nhà kinh điển xác định trên hai phương diện cơ bản:
kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội
1.2.1.

Giai cấp cơng nhân trên phương diện kinh tế - xã hội

11


-

Thứ nhất, giai cấp công nhân với phương thức lao động công nghiệp trong nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
các cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa

-

cao.
Thứ hai, giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là giai
cấp của những người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

-

Họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện về mặt xã


-

hội là mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
1.2.2. Giai cấp công nhân trên phương diện chính trị - xã hội
Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao,

-

q trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại cơng nghiệp, là chủ thể của
q trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp cơng nhân là đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại

-

và phát triển của xã hội hiện đại.
Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện cho
giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh
thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Đó là một giai cấp cách mạng và có
tinh thần cách mạng triệt để.
2. Quan niệm về tầng lớp tri thức
2.1. Khái niệm.
Từ khi ra đời, trí thức đã trở thành "một lực lượng xã hội đặc biệt", là
nguồn lực trí tuệ quan trọng khơng thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở
mỗi quốc gia và trên phạm vi quốc tế trong mọi thời đại. Họ có vai trị to lớn
trong việc sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh thần, đem lại những thành tựu
quan trọng trong khoa học - kỹ thuật, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội

12



Tầng lớp trí thức là một tầng lớp xã hội bao gồm những người lao động trí óc, có
trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất
có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã
hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới,
được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngồi nước, với nhiều thế hệ nối
tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngồi.
2.2. Đặc điểm của tầng lớp trí thức.
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt của 1 bộ phận lao động trí óc phức tạp và
sáng tạo. sản phẩm lao động trực tiếp của họ là những trí thức khoa học, những giá
trị về tinh thần, được tạo ra trong quá trình nghiên cứu, phát minh, giảng dạy, quản
lý có tác dụng định hướng cho nhận thức và hành động thực tiễn trên mọi lĩnh vực.
Trí thức là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu trong lĩnh vực cơng
việc của mình. Các sản phẩm do trí thức tạo ra được áp dụng vào mọi mặt của đời
sống xã hội, nhất là trong sản xuất làm tăng năng xuất, chất lượng và hiệu quả.
Ngày nay, cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã và đang trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp thì trí thức ngày càng có vai trị quan trọng trong quá
trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội và hội nhập khu vực, quốc tế. Trong các chế độ
XH cũ, phần lớn trí thức là những người lao động, họ bị áp bức bóc lột, bất cơng
nên họ cũng có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột, địi hịa bình, độc lập dân
tộc và dân chủ.
Trí thức khơng có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên
trí thức cũng ko có hệ tư tưởng độc lập. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp
thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã
hội. Tri thức tuy có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột nhưng lại thiếu kiên
13



quyết, triệt để. Vì vậy, trí thức muốn được giải phóng phải chịu sự lãnh đạo của GC
cơng nhân và tham gia vào khối liên minh.
3. Sứ mệnh lịch sử của GCCN
3.1. Khái niệm.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là nội dung chủ yếu, điểm căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, là phạm trù trung tâm, nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa xã hội
khoa học. Đó cũng là trọng điểm của cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận trong thời đại
ngày nay.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân chính là những nhiệm vụ mà giai
cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi
đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
3.2. Nội dung.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên ba nội dung cơ bản:
3.2.1. Nội dung kinh tế.
Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, giai cấp cơng nhân
cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật chất ngày càng
nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Bằng cách đó, giai
cấp cơng nhân tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới. Mặt
khác, tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi một quan hệ sản xuất
mới, phù hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội là nền
tảng, tiêu biểu cho lợi ích chung của xã hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua q trình cơng nghiệp
hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao
động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với
nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên thực tế, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức rút ngắn,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình về
14



nội dung kinh tế, giai cấp cơng nhân phải đóng vai trị về nội dung kinh tế, giai cấp
cơng nhân phải đóng vai trị nịng cốt trong q trình giải phóng lực lượng sản xuất
(vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.
3.2.2. Nội dung chính trị - xã hội:
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp thống trị,
xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình làm
chủ như một cơng cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xã hội mới, phát
triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản lý kinh
tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân lao
động, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
3.2.3. Nội dung văn hóa, tư tưởng
Giai cấp cơng nhân tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao
động, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tự do.
Giai cấp cơng nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải tạo
cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, đấu tranh khắc phục ý thức hệ tư sản và
các tàn dư cịn sót lại của các hệ tư tưởng cũ.
Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống
mới xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân hiện đại.

15



4. Nền kinh tế tri thức.
4.1. Khái niệm về nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học;
dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản
xuất ở trình độ cao. Hoặc cũng được hiểu, là một loại mơi trường kinh tế- kỹ thuật,
văn hố-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học
hỏi, đổi mới và sáng tạo.
4.2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là ở đó con người sử dụng các loại hình
cơng cụ chủ yếu là để thực hiện các thao tác trí tuệ. Nền kinh tế tri thức có 9 đặc
trưng chủ yếu:
4.2.1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Ý tưởng đổi mới và phát triển cơng nghệ mới
trở thành chìa khố cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh
4.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực:
Mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp, kết nối hầu hết các tổ chức, gia đình.
Thơng tin trở thành tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có
tác động của cơng nghệ thơng tin.
4.2.3. Sản xuất cơng nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến
nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các doanh nghiệp đều có sản xuất
cơng nghệ, đồng thời có doanh nghiệp chun sản xuất cơng nghệ, có thể gọi đó là
doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học sản xuất được thể chế hố, khơng cịn
phân biệt giữa phịng thí nghiệm và cơng xưởng, những người làm việc trong đó họ
vừa là nhà nghiên cứu vừa là nhà sản xuất, họ là những công nhân trí thức…
4.2.4. Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư cho giáo dục khoa học chiếm tỷ lệ
cao. Đầu tư vơ hình (con người, giáo dục, khoa học…) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ
sở vật chất). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Hệ thống giáo dục
16



phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập ở bất cứ lúc nào. Mạng thơng tin có ý
nghĩa quan trọng, đảm bảo cho việc học tập suốt đời.
4.2.5. Tri thức trở thành vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức. Tri thức là nguồn
lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Tri thức và thông tin được tăng lên khi sử dụng,
không mất đi khi sử dụng (các nguồn vốn khác bị mất đi khi sử dụng).
4.2.6. Sáng tạo là linh hồn của đổi mới, sáng tạo là vô tận. Đổi mới thường xuyên là
động lực thúc đẩy sự phát triển. Cơng nghệ đổi mới nhanh, vịng đời cơng nghệ rút
ngắn, có khi chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được
và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
4.2.7. Dân chủ hố, xã hội thơng tin thúc đẩy sự dân chủ hố. Mọi người đều dễ
dàng truy cập thơng tin mình cần. Điều này dẫn đến dân chủ hố các hoạt động và
tổ chức điều hành xã hội. Người dân nào cũng có thể được thơng tin kịp thời về các
chính sách của Nhà nước, các tổ chức và có ý kiến ngay khi thấy không phù hợp.
4.2.8. Các doanh nghiệp vừa hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển. Trong cùng một
lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh lên thì các cơng ty khác phải tìm
cách sáp nhập hoặc chuyển hướng hoạt động.
4.2.9. Nền kinh tế tồn cầu hố. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một
sản phẩm được sản xuất từ bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp
nơi trên thế giới hoặc sản phẩm phần lớn được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới,
kết quả cao của công ty ảo, làm việc từ xa.

17


B. BÀN VỀ QUAN ĐIỂM
1. Mở đầu về quan điểm (Khơng đồng tình với quan điểm)
Có quan niệm cho rằng: Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tầng lớp trí thức mới là
lực lượng có sứ mệnh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa
cộng sản chứ không phải giai cấp công nhân. Điều này đã gây ra khơng ít sự ngộ
nhận trong các tầng lớp nhân dân, khiến một số cán bộ, đảng viên cịn mơ hồ. Vì

vậy, cần hết sức đấu tranh để phản bác lại quan điểm này, chỉ ra sai lầm, khơng có
cơ sở khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn. Đồng thời cần khẳng định, lãnh đạo xã hội
trong giai đoạn hiện nay là “sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân”.
Một số luận điệu xun tạc, kích động các thành phần thời đại mới, phóng đại vai
trị của giới trí thức, làm lu mờ, phủ nhận SMLS của GCCN, Đảng Cộng sản, phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Khi họ đưa ra quan điểm cho rằng, SMLS của
GGCN mà chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và Cách mạng
công nghiệp lần thứ hai, chỉ dành cho văn minh cơ khí, bây giờ nhân loại đã bước
sang thế kỷ XXI, là thời đại của văn minh tin học, kinh tế tri thức, tồn cầu hóa và
hội nhập quốc tế nên SMLS của GGCN khơng cịn phù hợp nữa, chủ nghĩa MácLênin đã bị lỗi thời. Ngày nay, trong điều kiện hịa bình, hội nhập quốc tế, thời kỳ
của Cách mạng KH-CN lần thứ tư, vai trò lãnh đạo xã hội phải thuộc về đội ngũ trí
thức, các nhà khoa học, những nhà tư tưởng. “Chỉ có những nhà khoa học, trí thức
18


mới có thể đưa đất nước phát triển nhanh và sánh được với các nước phát triển trên
thế giới”.
Một luận điệu xuyên tạc khác nữa là các thế lực phản động, thù địch vội vã kết luận
sự phát triển của xã hội ngày nay không phải do cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư
bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH) quyết định mà do cách mạng KH-CN
quyết định, từ đó họ đi đến một nhận thức sai lầm khác là coi sự phát triển xã hội
chỉ gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xem thường vai trò của cách mạng
quan hệ sản xuất, của đấu tranh giai cấp, phủ nhận tính tất yếu của cách mạng xã
hội chủ nghĩa (tức phủ nhận SMLS của GCCN).
Thế lực phản động, thù địch còn chỉ ra rằng khoa học càng phát triển, xã hội càng
tiến bộ thì số lượng và vai trị của đội ngũ trí thức cũng khơng ngừng tăng lên đã
làm cho đội ngũ trí thức có vị trí chủ đạo trong phát triển xã hội và trở thành lực
lượng quyết định cải tạo thế giới. Mặc khác, theo họ trong thời đại trí thức hóa
cơng nhân hiện nay, trí thức đã thực sự trở thành giai cấp và thực tế hiện nay trí

thức cũng chiếm một tỷ lệ áp đảo trong tổng số đảng viên của Đảng thuộc các giai
cấp, tầng lớp, thành phần xã hội khác nhau và nhiều trí thức giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, điều này cho thấy lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng, lãnh đạo xã hội hiện nay là đội ngũ trí thức.
Mấu chốt của những vấn đề trên là các thế lực phản động, thù địch muốn phủ nhận
SMLS của GCCN, phủ nhận vai trò của Đảng cộng sản, phủ nhận CNXH, xét lại
chủ nghĩa Mác-Lênin.
2. Điều kiện khách quan và chủ quan quy định/thực hiện SMLS của GCCN
2.1. Điều kiện khách quan.
2.1.1. Do địa vị kinh tế của GCCN
-

Giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ
nghĩa tư bản. Giai cấp công nhân là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự
19


tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một
-

phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp cơng nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa do yêu cầu
khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ

-

đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Giai cấp công nhân do khơng có tư liệu sản xuất nên giai cấp cơng nhân phải bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư,

họ bị lệ thuộc hồn tồn trong q trình phân phối các kết quả lao động của chính
mình. Về mặt lợi ích giai cấp cơng nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp
tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp

-

bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp cơng nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của tồn thể nhân dân
lao động nên họ có thể tập hợp, đồn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng đi theo
làm cách mạng chống lại giai cấp tư sản.
⇒ Có thể thấy địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân là yếu tố quan trọng
nhất quy định nên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bởi nếu không có địa vị
về kinh tế là người đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, khơng có địa vị về xã
hội là bị giai cấp tư sản bóc lột thì sẽ khơng có động lực về chính trị để thực hiện
cuộc cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.1.2. Do địa vị chính trị - xã hội của GCCN

-

Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền
sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến

-

bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh.
Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến thể hiện ở nhiệm vụ
xóa bỏ quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thiết lập quan hệ

-


sản xuất mới tiến bộ hơn.
Giai cấp công nhân được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin lý luận cách
mạng khoa học và tiến bộ. Để có thể tiếp thu và vận dụng lí luận này địi hỏi giai
cấp cơng nhân cần có trình độ lý luận nhất định.
20


-

Giai cấp cơng nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của giai cấp
công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có
cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công
nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu
tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế – kỹ

-

thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
Ngồi ra giai cấp cơng nhân có tinh thần cách mạng triệt để nhất vì cách mạng của
giai cấp công nhân hướng tới mục tiêu cuối là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng con người, thể hiện ở sự xóa bỏ mọi tình trạng áp bức bóc lột, nơ
dịch cả về vật chất lẫn tinh thần. Giai cấp cơng nhân vừa phải giành chính quyền,

-

vừa sử dụng chính quyền để thực hiện mục tiêu đó.
Giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp cơng nhân ở tất cả các nước đều
có chung một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức
bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột và cũng do yêu cầu
của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà

chúng đã liên kết với nhau thành tập đồn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai
cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình, cùng nhau
thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Thông qua việc phân tích tính chất khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân chúng ta thấy được tất yếu kinh tế - chính trị xã hội của cách mạng
XHCN và ý nghĩa nhân đạo lớn lao của sứ mệnh này. Nó là một sự nghiệp của giải
phóng và phát triển được nảy sinh từ chính những nhân tố hiện thực của xã hội
hiện đại chứ không phải là mong muốn chủ quan như sự xuyên tạc của các kẻ thù
tư tưởng.
2.2. Điều kiện chủ quan.
2.2.1. Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
lượng.
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội, bản thân giai cấp công nhân đã không
ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng.
21


-

Về số lượng, không những tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước mà còn đa dạng hơn
về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát
triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO): từ năm 1900, toàn thế giới
có 80 triệu cơng nhân; đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu cơng nhân và

-

đến 1998 đã có 800 triệu cơng nhân…
Về chất lượng, bản thân giai cấp cơng nhân ln có sự nâng cao về học vấn, về
khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt,
đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thơng qua các tổ chức nghiệp

đồn, cơng đồn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp, giác ngộ về lý
luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi đó, theo chủ nghĩa
Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức

-

giác ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì nó” (tức giai cấp tự giác).
Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng giai
cấp công nhân cịn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật
và công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tác động sâu
sắc vào sản xuất, vào quản lý và đời sống xã hội nói chung, địi hỏi sự biến đổi sâu
sắc tính chất, phương thức lao động của cơng nhân, lao động bằng trí óc bằng năng
lực trí tuệ, bằng sức sáng tạo sẽ ngày càng tăng lên, lao động giản đơn sẽ giảm dần
bởi sự hỗ trợ của máy móc, của cơng nghệ hiện đại, trong đó có vai trị của cơng
nghệ thơng tin. Trình độ học vấn, tay nghề của cơng nhân, văn hóa sản xuất, văn
hóa lao động đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức là những thước đo quan trọng về

-

sự phát triển chất lượng của giai cấp công nhân hiện đại.
Để phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng phải đặc biệt chú ý đến
2 biện pháp cơ bản: Phát triển công nghiệp - “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết";
xây dựng Đảng Cộng sản - hạt nhân chính trị của giai cấp cơng nhân.
⇒ Thơng qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân
cùng với quy mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của
công nghiệp, của kỹ thuật và công nghệ. Chỉ với sự phát triển như vậy về số lượng

22



và chất lượng, đặc biệt về chất lượng thì giai cấp cơng nhân mới có thể thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
2.2.2. Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
-

Sự ra đời của Đảng là dấu hiệu trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư
cách là giai cấp cách mạng ⇒ Giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trị của
mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng
sự đồn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp

-

mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
Theo Lênin, Đảng Cộng sản ra đời trên cơ sở kết hợp giữa 2 yếu tố: Chủ nghĩa Mác
với phong trào công nhân. Nhưng ở mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch
sử, được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian
và thời gian. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra Đảng Cộng sản. Từ thực
tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập

-

Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp cơng nhân:



Giai cấp cơng nhân là cơ sở xã hội, là nguồn bổ sung cho Đảng, làm cho Đảng

mang bản chất giai cấp cơng nhân.



Đảng Cộng sản là nhân tố đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của mình:
+ Thứ nhất, Đảng Cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Được trang
bị lý luận Mác - Lênin, Đảng đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân,
Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn, giáo dục thuyết phục quần chúng.
+ Thứ hai, Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp cơng nhân, là tổ
chức có trách nhiệm cao nhất trong cơng tác sử dụng, bố trí, tuyển chọn cán bộ.
Những Đảng viên của Đảng Cộng sản có thể khơng phải là cơng nhân nhưng phải
23


là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập
trường của giai cấp này.
+ Thứ ba, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đi đầu, dẫn
đường chỉ lối. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đồn kết, nghị
lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó
lơi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành
động theo đường lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Ngồi 2 điều kiện chủ quan trên, Mác - Lênin còn chỉ rõ: Để giai cấp cơng nhân
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình cịn phải có sự liên minh giữa giai cấp cơng
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Đây cũng là một điều
kiện quan trọng không thể thiếu để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
3. Hạn chế của tầng lớp tri thức.
Từ tổng kết thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, một giai cấp đảm
nhận vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, lãnh đạo xã

hội cần phải có những điều kiện cơ bản sau: Là giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất tiến bộ trong xã hội; có hệ tư tưởng riêng phản ánh được quy luật chính trị
- xã hội; có lợi ích đại diện cho nhiều giai - tầng xã hội. Ngoài những điều kiện cơ
bản nêu trên, cịn địi hỏi giai cấp này phải có hạt nhân chính trị của giai cấp mình đó là chính đảng của nó và phải có thêm những phẩm chất cần thiết của một giai
cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Xét các điều kiện trên thì trí thức có những hạn
chế nhất định:
Trước hết, trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà chỉ là một đội
ngũ xã hội đặc biệt. Từ vị trí của mình trong phân cơng lao động xã hội, trí thức
khơng có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất, khơng giữ vị trí độc
lập trong hệ thống sản xuất, các dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp; do
đó, họ khơng có khả năng đại diện cho phương thức sản xuất nào, cho nên họ
24


khơng phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp
xã hội khác. V.I.Lênin chỉ rõ “nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức
chỉ là một con số khơng mà thơi”. [1]
Thứ hai, trí thức cũng khơng có hệ tư tưởng độc lập, trí thức ln gắn với những
giai cấp nhất định, với tư cách là một đội ngũ và ở trong một thể chế chính trị cụ
thể, trí thức nói chung là của giai cấp thống trị do hệ thống giáo dục và đường lối
đào tạo của Nhà nước của giai cấp thống trị ấy tạo ra. Đội ngũ này tự giác hoặc
không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Trong lịch sử, một giai cấp
chỉ khẳng định được vai trò lãnh đạo của mình nếu có hệ tư tưởng. Nếu khơng có
hệ tư tưởng thì các phong trào cách mạng chỉ có tính chất tự phát, tạm thời, kiểu
“lửa rơm chóng tắt” [2], chứ không thể “lay chuyển những khối quần chúng đông
đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi dân tộc”
[2]“đến chỗ tiến hành những hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ
đại”. [2]
Thứ ba, trí thức khơng đại diện cho lợi ích nhiều giai - tầng xã hội. Do họ khơng có
lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Mặt khác, quá trình đấu tranh giai

cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho trí thức phân hóa thành những bộ
phận khác nhau; những bộ phận khác nhau đó sẽ ngã theo lực lượng này hay lực
lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác.
Thứ tư, trí thức khơng có được tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và dễ chao đảo. V.I.Lênin cho rằng:
“so với giai cấp công nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân
chủ nghĩa hơn, vì những điều kiện cơ bản của đời sống và công tác của họ không
cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ
được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức” [3]. Đó là lý do tại sao
V.I.Lênin luôn luôn cảnh báo về thái độ thờ ơ chính trị của đội ngũ trí thức. Người
viết: “Người trí thức cấp tiến, người trí thức xã hội chủ nghĩa rất dễ biến thành
quan lại của chính phủ nhà vua, thành một anh quan lại tự an ủi rằng ở trong nếp cũ
25


×