Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tổng quan về cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.98 KB, 49 trang )

Lời mở đầu

Thế giới đang biến động, ngày càng chuyển biến với xu hướng hội nhập và
toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc. Do hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu và
khách quan, một nước muốn phát triển không còn cách nào khác là phải hoà
nhập vào nền kinh tế thế giới. Để làm được điều đó chúng ta phải tích cực xây
dựng những thế mạnh xuất khẩu, qua đó lựa chọn được những mặt hàng chủ lực
xuất khẩu, sử dụng lợi thế so sánh. Một trong những thế mạnh mà chúng ta lựa
chọn đó là ngành dệt may, đây là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam, giữ vò trí thứ hai sau dầu thô. Có được kết quả này là do sự nỗ lực
của Đảng, của Nhà nước và các doanh nghiệp đã có nhiều cải cách và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển đổi từ đối đầu sang đối thoại hợp tác làm ăn
cùng có lợi. Trước tình hình mới về về thò trường và cơ chế quản lý, cạnh tranh
để đứng vững và phát triển là tất yếu khách quan không thể tránh khỏi. Chủ
động hội nhập quốc tế, tiến hành điều tra, phân loại, kiểm tra đánh giá khả
năng cạnh tranh của từng sản phẩm mặt hàng, có biện pháp thiết thực nhằm
nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh là một trong những việc làm
cần thiết và thiết yếu hiện nay. Trong mấy năm qua, tuy ngành dệt may đã đạt
được một số thành tựu cả về quy mô và giá trò sản xuất, xuất khẩu nhưng sản
phẩm dệt may của ta còn rất nhiều hạn chế như: giá còn cao, chưa chủ động hội
nhập, tính cạnh tranh của sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất thấp, về mặt
quản lý thủ tục còn nhiều hạn chế, quản lý còn chưa sát thực tế và đặc biệt là
đời sống người lao động còn thấp…
- 1 -
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay tình hình quan hệ quốc tế ngày càng mở
rộng với sự hợp tác và chuyên môn hoá ngày càng caochúng ta không có những
biện pháp hợp lý thì sẽ không trụ được khi tham gia hội nhập, không thực hiện
được mục tiêu phát triển đất nước.
Từ điều kiện chủ quan và khách quan cho ta thấy trong thời gian tới đối với
toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng phải tìm ra những
hướng đi mới và những cơ hội phát triển vững chắc trên con đường hội nhập. Do


vậy đây là một vấn đề quan trọng mà chúng ta phải chú trọng và đầu tư chính
đáng. Do đó em chọn đề tài này để nghiên cứu, trong đề tài này em đi sâu tìm
hiểu ngành dệt may trong xu thế biến động và hội nhập nhằm tìm ra những
hướng đi mới, những giải pháp để cạnh tranh có hiệu quả. Đề tài này được nhiên
cứu bằng phương pháp thực chúng và phương pháp duy vật biện chứng…với cách
tiếp cận hệ thống. Đây là một đề tài hay và tương đối rộng, là một sinh viên như
em có nhiều hạn chế rất mong được sự quan tâm của các thầy cô.

Em xin chân thành cảm ơn !
- 2 -
Chương I: Tổng quan về cạnh tranh
I. Các quan niệm về khả năng cạnh tranh
1.Khái niệm
Cạnh tranh là một tấ yếu khách quan và có thể nói răng không có cạnh tranh
thì không có sự phát triển, cạnh tranh là động lực của sự phát triển, không có
cạnh tranh tức là không có sự phát triển. Cho dù ở đâu đi chăng nữa cạnh tranh
luôn luôn tồn tại, nhưng ở đây ta chỉ xét dưới góc độ kinh tế. Từ năm 1986 trở
về trước do chúng ta không có quan điểm đúng đắn nên đã mắc phải sai lầm khi
kìm hãm sự cạnh tranh. Ởû các lónh vực, các góc độ khác nhau thì quan niệm về
cạnh tranh cũng khác nhau. Có nhiều quan điểm về cạnh tranh, nhưng theo quan
điểm tổng hợp thì canh tranh là quá trình kinh tế mà ở đó chủ thể kinh tế ganh
đua nhau, tìm mọi biện pháp, thủ đoạn, cách thức…để đạt được mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là nhằm chiếm lónh thò trường, giành lấy những khách
hàng cũng như những điều kiện sản xuất có lợi nhất.
Xét ở góc độ kinh tế thuần tuý thì mục đích kinh tế của các chủ thể kinh tế là
tối đa hoá lợi ích, đối với người kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, với người
tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng. Do vậy cạnh tranh có vai trò to lớn, là linh hồn
của cả nền kinh tế, là nơi chọn lựa những thành viên ưu tú của nền kinh tế, đào
thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Do vậy những doanh nghiệp
muốn tồn tại phải cạnh tranh, phải tìm ra những lợi thế so sánh của mình. Chính

- 3 -
vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều kiện cần
thiết.
Cạnh tranh ở đây được thể hiện chủ yếu ra mặt ngoài chính là sản phẩm. Từ
khái niệm trên có thể hiểu khả năng cạnh tranh củ sản phẩm là tất cả những gì
sản phẩm đó đã có, đang và sẽ có để có thể có những ưu thế so với những sản
phẩm khác cùng loại hoặc khác loại trong quá trình cạnh tranh.
2. Vai trò của cạnh tranh
Như trên chúng đã biết cạnh tranh là động lực của sự phát triển, nó có vai trò
hết sức to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh có mặt lợi và cả mặt hại của
nó, nhưng thực tế ta thấy rằng bất kì một nền kinh tế nào cũng cần duy trì sự
cạnh tranh.
Đứng ở góc độ xã hội thì cạnh tranh là hình thức mà Nhà nước sử dụng để
chống độc quyền, tạo cơ hội cho người tiêu dùng có thể lựa chọn các sản phẩm
tốt, giá cả rẻ. Chính vì vậy duy trì cạnh tranh là bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Mặt khác Nhà nước sử dụng cạnh tranh nhằm tăng hiệu quả chung của nền kinh
tế tránh lãng phí để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, tạo động lực
bên trong nền kinh tế, tạo điều kiện phát triển các hình thức quan hệ quốc tế.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ la øđiều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp tự khẳng đònh vò trí của mình trên thò trường, tự quyền lựa chọn ngành
nghề kinh doanh, tự hoàn thiện bản thân doanh nghiệp của mình để vươn lên
dành ưu thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Các ưu thế đó thể hiện qua
lợi thế so sánh của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, như việc khai
- 4 -
thác triệt để hơn các lợi thế so sánh, tận dụng ngày càng nhiều nguồn lực một
cách có hiệu quả nhất.
Trên thò trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cuộc cạnh tranh khốc
liệt nhất nhằm dành dật người mua, chiếm lónh thò trường tạo ưư thế mọi mặt
cho các doanh nghiệp nhằm thhu được lợi nhuận tối đa có thể. Thực chất cạnh

tranh là cuộc chạy đua không có đích, là quá trình các doanh nghiệp đưa ra các
biệnpháp kinh tế tích cực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thò trường, tăng lợi
nhuận trên cơ sở tạo ưu thế vềø sản phẩm: giá bán, chất lượng sản phẩm… Muốn
vậy doanh nghiệp phải không ngừng áp dụng khoa học kó thuật vào sản xuất
kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và dòch vụ, bên cạnh đó phải
tối ưu hoá các yếu tố đầu vào trong sản xuất để giảm giá thành sản phẩm.
Trong cơ chế kinh tế thò trường những doanh nghiệp nào đưa ra được những sản
phẩm có giá rẻ, chất lượng cao, dòch vụ tốt thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng.
Do vậy cạnh tranh giúp loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và
khuyến khích những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vươn lên. Mặt khác khi
tham gia vào thò trường các doanh nghiệp phải chấp nhận tuân thủ các quy luật
của thò trường như quy luật cạnh tranh và đào thải. Do đó cạnh tranh buộc các
doanh nghiệp phải tự nâng cao chất lượng của mình, trình độ quản lý và kinh
doanh tạo điều kiện lợi dụng triệt để lợi thế so sánh của mình.
Một khái niệm nữa mà chúng ta cần làm rõ là khẳ năng cạnh tranh và sức
mạnh cạnh tranh cuả sản phẩm của doanh nghiệp, giữa chúng có mối quan hệ
mật thiết lồng ghép bao hàm và có mối quan hệ nhân quả với nhau. Để có giải
pháp nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp ta phải hiểu
được khái niệm và nội dung cơ bản của sức cạnh tranh. Vậy sức cạnh tranh là:
- 5 -
Tổng thể các yếu tố gắn trực tiếp với hàng hoá cùng các điều kiện, công cụ và
biện pháp cấu thành khả năng cạnh tranh được doanh nghiệp sử dụng trên
thương trường nhằm chiếm lónh thò trường, khách hàng và thi trường, đem lại lợi
ích cho doanh nghiệp khi cạnh tranh.
Nội dung sức cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm: khả năng áp dụng khoa
học kó thuật, quản lý hiện đại, khả năng thu thập thông tin, khả năng cung cấp
dòch vụ,…Do vậy cạnh tranh cóa vai trò rất to lớn, chúng ta cần tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho chúng phát huy những mặt tích cực của mình.
II. Các nhân tốù ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
Sản phẩm của một doanh nghiệp có cạnh tranh được hay không nó phụ thuộc

rất lớn vào tỉ lệ các yếu tố sau:
1. Các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh
Lợi thế so sánh được coi là yếu tố sống còn trong cạnh tranh.Ở đây khả năng
cạnh tranh được xem là sức mạnh cạnh tranh thật và bằng với lợi thế so sánh.
Lợi thế so sánh lớn nhất là được thể hiện ở các nguồn lực đầu vào, do đó có thể
là tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư, đặc biệt hơn đó là lao động…nó được thể
hiện thông qua giá bán của sản phẩm. Được thể hiện bằng hệ số đầu vào thấp
một cách tương đối. Thực tế không dễ tách biệt giữa nguồn lực đầu vào và năng
suất lao động, bởi đây là ngành sử dụng nhiều lao động. Sự dồi dào của một yếu
tố nào đó có thể là do năng suất lao động cao, vừa do giá cả tạo nên kích thích
cung ứng, vấn đề thương hiệu cũng góp phần quan trọng thể hiện lợi thế so
sánh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh
- 6 -
quốc tế ngày càng găy gắt, các lợi thế so sanh trên tầm vó mô không thể coi nhẹ
như: sự ổn đònh về kinh tế chính trò, luật pháp thể chế, kinh tế đất nước, kết cấu
hạ tầng,…
Đây có thể nói là yếu tố rất quan trọng trong thời gian hiện nay, giúp chúng
ta phát triển trọng điểm sử dụng hiệu quả nguồn lực có nhiều lợi thế so sánh.
Do đó chúng ta nói chung các doanh nghiệp nói riêng cần tận dụng triệt để các
yếu tố này.
2. nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế của đất
nước
Theo Forger thì “Khả năng cạnh tranh là khả năng của một đất nước trong
việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung, nhất là đối với tăng
trưởng thu nhập và việc làm, mà không gặp phải những khó khăn trong cán cân
thanh toán”. Bởi vì tăng trưởng của một quốc gia được xác đònh bởi năng suất
của nền kinh tế quốc gia đó, mà năng suất là yếu tố cơ bản tạo nên khả năng
canh tranh và nó la một yếu tố góp phần vào lợi thế so sánh của bản thân sản
phẩm, góp phần quan trọng trong hội nhập và phát triển kinh tế.
3. Nhóm yếu tố thuộc về môi trường kinh tế của doanh nghiệp

Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế của doanh nghiệp bao gồm
các yếu tố như: Chính sách thương mại, môi trường đầu tư, tài chính, mức thanh
khoản trong nền kinh tế, cơ cấu doanh nghiệp, tính cạnh tranh trong nền kinh
tế…
Với chính sách thương mại của mỗi quốc gia sử dụng khác nhau se cho những
tác động khác nhau, có thể trái ngược nhau đến môi trường thương mại quốc tế.
- 7 -
Thực tế đối với nhập khẩu các nước thường áp dụng chính sách hạn chế nhập
khẩu, làm giảm bớt và chống lại lợi thế của các hàng hoá nhập khẩu vào nước
đó. Ngược lại đối với hàng hoá xuất khẩu các nước thường áp dụng chính sách
nhằm khuyến khích xuất khẩu cùng nhằm mục đích tăng ưu thế của hàng xuất
khẩu. Đôi khi chính sách thương mại có tác dụng mạnh đến mức có thể xếp một
trong các yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của một sản phẩm (xếp vào lợi thế
so sánh ảo ).
Chế độ tài chính: thực trạng và hoạt động của thò trường tài chính là một
trong các nhân tố quyết đònh năng lực cạnh tranh chung của một nước. Tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc vào việc tập trung tài chính vào một lónh vực nào đó.
Cơ cấu doanh nghiệp và tinh cạnh tranh: có ảnh hưởng tới sự gia tăng về năng
suất và khả năng cạnh tranh nâng cao về thu nhập và tăng việclàm. Không chỉ
có cạnh tranh giữa các quốc gia mà còn có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
nó là động lực để các doanh nghiệp trong ngành nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình.
Năng lực sản xuất công nghiệp của ngành, của quốc gia. Ở đây phải nói đến
đội ngũ nhân lực được đào tạo có kó năng nghề nghiệp không ngừng được nâng
cao. Ngoài ra còn phải kể đến phần công nghệ trong máy móc thiết bò của quốc
gia đó.
4. Nhóm các yếu tố thuộc về hoạt động của doanh nghiệp
Hoạt động của doanh nghiệp là một trong các yếu tố nền tảng của khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó cho thấy khả năng của tổ chức sản xuất, trình
độ quản lý, khả năng chuyên môn hoá của các bộ phận trong doanh nghiệp. Các

- 8 -
yếu tố thuộc về hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí
cá biệt của doanh nghiệp. Nhóm các yếu tố này gồm: hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp, chiến lược phát triển của doanh nghiệp,…
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp chính là các hoạt động của doanh
nghiệp nhằm áp dụng công nghệ mới, sử dụng các đầu vào mới hoặc thay thế
giới thiệu, phân phối sản phẩm, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm. Chiến lược phát triển của doanh nghiệp đem lại cho doanh
nghiệp triển vọng cạnh tranh dài hạn và cạnh tranh đa phương diện. Trình độ
đội ngũ lao động của doanh nghiệp trong việc tiếp nhận xử lý thông tin, khả
năng tiếp cận thò trường, bố trí các phương án sản xuất kinh doanh, điều hành và
quản lý doanh nghiệp, năng động thích nghi với điều kiện cạnh tranh ngày nay.
III. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm kinh tế kó thuật, đặc biệt đối
với ngành dệt may, có thể xem xét một số chỉ tiêu bao gồm cả nhóm chỉ tiêu
phản ánh về chất lượng và số lượng:
1. Các chỉ tiêu về chất lượng
Bao gồm cả chỉ tiêu đònh lượng và đònh tính, cụ thể là:
- Sự tiến bộ của khoa học kó thuật – công nghệ
- Sự thay dổi về hệ thống sản xuất
- Sự thay đổi về chất lượng trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh
doanh, hiệu quả đầu tư, năng suất lao động.
- 9 -
- Giá trò thương mại dòng
- Lợi thế so sánh của bản thân sản phẩm và các yếu tố đầu vào tạo
nên sản phẩm đó.
- Ngoài ra mức độ cạnh tranh còn thể hiện ở các chỉ tiêu đánh giá
mức độ cạnh tranh trong nội bộ và liên ngành, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
+ Tỷ số tập trung hoá (CRx) thể hiện mức độ tập trung vào

sản xuất vào những daonh nghiệp lớn nhất của ngành.
+ Hệ số ghini thể hiện mức độ về quy mô đồng đều giữa các
doanh nghiệp.
2. Các chỉ tiêu về số lượng
Phản ánh tăng trưởng về quy mô sản xuất và xuất khẩu, năng lực sản xuất,
số lượng lao động được sử dụng trực tiếp vào sản xuất, quy mô hợp tác quốc tế…
IV. Các công cụ chủ yếu để cạnh tranh trong kinh doanh
Cạnh tranh là quy luật tất yếu khách quan, doanh nghiệp nào không dám
đương đầu với cạnh tranh thì sẽ gặp thất bại nặng nề. Do đó muốn tồn tại và
phát triển doanh nghiệp bắt buộc phải cạnh tranh. Bản chất của cạnh tranh trong
kinh doanh là tạo ra các ưu thế so với đối thủ của mình. Mỗi doanh nghiệp có
các ưu thế khác nhau, để cạnh tranh thành công thì các doanh nghiệp phải chú
ý đến việc xây dựng chiến lược trên cơ sở sử dụng các công cụ cạnh tranh có ưu
thế của mình. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hướng kinh doanh tổng
thể và chính sách kinh doanh bộ phận của doanh nghiệp.
- 10 -
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá doanh nghiệp hoạt động theo kế hoạch mang
tính tập trung cao còn trong nền kinh tế thò trường thì doanh nghiệp hoạt động
theo chiến lược kinh doanh cảu mình luôn tìm ra lợi thế cạnh tranh để có chỗ
đứng trên thò trường. Do đó cạnh tranh cần có chiến lược chính sách phát triển
cụ thể và rõ ràng.
Hiện nay doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ chủ yếu sau để xây dựng
chiến lược cạnh tranh: cạnh tranh qua sản phẩm, cạnh tranh qua giá, cạnh tranh
thông qua việc thiết lập mạng lưới kênh phân phối và cạnh tranh qua xúc tiến
hỗn hợp.
1. Cạnh tranh thông qua sản phẩm
Sức cạnh tranh thông qua sản phẩm của doanh nghiệp thông qua chất lượng.
Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh
một cách có hiệu quả và lâu dài. Cạnh tranh qua sản phẩm được thể hiện qua
tính năng ưu việt của sản phẩm. Để có thể cạnh tranh về chất lượng sản phẩm

bắt buộc các doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu cải tiến công nghệ kó thuật
sản xuất, tạo ra sự khác biệt thông qua tính năng, tác dụng của sản phẩm. Sản
phẩm muốn cạnh tranh phải có những nét riêng độc đáo, diều này cũng có ảnh
hưởng tới vò trí cạnh tranh của doanh nghiệp trên thò trường. Đảm bảo chất
lượng luôn luôn là phương châm kinh doanh , là một trong những vũ khí cạnh
tranh hữu hiệu mà các doanh nghiệp trên thế giới sử dụng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, doanh nghiệp phải chú ý đến chu kì sống
của sản phẩm để chủ động đổi mới và nâng cấp chất lượng sản phẩm, đây là
một công cụ quan trọng. Trong tình hình hiện nay cuộc cách mạng khoa học kó
- 11 -
thuật trên thế giới đang thay đổi nhanh chóng, cạnh tranh ngày càng găy gắt và
khốc liệt hơn. Để thoảû mãn nhu cầu không ngừng của khách hàng thì biện pháp
quan trọng nhất của doanh nghiệp là không ngừng đổi mới sản phẩm và cung
cấp các dòch vụ mới.
Với doanh nghiệp chuyên kinh doanh lónh vực dòch vụ thì việc nâng cao chất
lượng sản phẩm chình là việc nâng cao chất lượng dòch vụ cung cấp cho khách
hàng và phát triển thêm các loại hình dòch vụ mới, đây là hình thức mà các công
ty bưu chính viễn thông và kinh doanh dòch vụ ở các khu vui chơi giải trí thường
sử dụng.
Ngoài cạnh tranh qua chất lượng sản phẩm các doanh nghiệp còn cạnh tranh
qua chủng loại, kiểu dáng nhãn hiệu. Do đó để nói về cạnh tranh qua sản phẩm
người ta thường nói đến sự khác biệt của sản phẩm. Doanh nghiệp phải thiết lập
chiến lược phát triển sản phẩm hợp lý, phải nghiên cứu được đầu vào và đầu ra,
các hoạt động đổi mới sản phẩm nâng cao chất lượng và vò thế trên thò trường.
Đến nay chúng ta có thể thấy hầu hết các công ty sản xuất hàng tiêu dùng vẫn
đang cạnh tranh dựa trên tính ưu việt của sản phẩm. Họ vẫn tiếp tục thêm vào
những đặc tính mới, công thức mới, mở rộng sản phẩm, thay đổi màu sắc kiểu
dáng cách thức khác nhằm khác biệt hoá sản phẩm của họ với các đối thủ cạnh
tranh.
2. Cạnh tranh qua giá cả

Cạnh tranh là một trong các yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm.
Một doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt và giá cả hợp lý thì luôn chiếm
được ưu thế trên thò trường. Giá cả là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
- 12 -
cung cầu của hàng hoá, do vậy áp dụng chính sách đònh giá linh hoạt đa dạng là
nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công trên thò trường. Việc đònh giá sản
phẩm chủ yếu phải căn cứ vào giá thành sản xuất đơn vò, nhu cầu thò trường và
lấy quan hệ cung cầu trên thò trường làm chuẩn. Doanh nghiệp có thể dựa vào
giá thò trường để đònh giá khác nhau: chính sách đònh giá thấp hơn giá thò
trường, bằng giá thò trường và cao hơn giá thò trường.
Cạnh tranh qua giá là một hình thức gián tiếp của cạnh tranh qua chi phí sản
xuất để có thể đònh mức giá thấp hơn mức giá thò trường. Để làm được điều này
các doanh nghiệp phải có thiết bò sản xuất đầy đủ hiệu quả tính kinh tế của quy
mô thiết lập các kênh phân phối. Chính nhờ chi phí sản xuất thấp các đối thủ
cạnh tranh trong khi vẫn duy trì lợi nhuận mong muốnm giá thấp giúp doanh
nghiệp chiếm được thò trường, phần lớn giữ được thế chủ động trong thời kì cạnh
tranh gay gắt.
Xét về góc độ này thì sản phẩm dệt may Việt Nam có lợi thế so sánh về chi
phí sản xuất vì có lợi thế về lao động. Các sản phẩm dệt may có tỉ trọng giá trò
lao động sống cao, lao động của Việt Nam lại nhiều, khéo tay, thời gian lao
động ngắn, lương công nhân thấp.
3. Cạnh tranh thông qua hệ thống kênh phân phối
Thiết lập mạng lưới kênh phân phối hợp lý hiệu quả là yếu tố rất có lợi để
cạnh tranh. Một doanh nghiệp mà có khả năng cung cấp hàng hoá dòch vụ đúng
nơi, đúng lúc, kòp thời đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu
quả nhất thì sẽ có lòng tin uy tín với khách hàng và sẽ được khách hàng lựa
chọn. Thiết lập mạng lưới kênh phân phối phải căn cứ vào đặc điểm hàng hoá,
- 13 -
nhu cầu thò trường của người tiêu dùng, có thể có các cách thiết lập kênh phân
phối sau:

Cách 1: Người sản xuất - người tiêu dùng
Cách 2: Người sản xuất - người bán lẻ - người tiêu dùng
Cách 3: Người sản xuất - người bán buôn – người bán lẻ – người
tiêu dùng
Cách 4: Người sản xuất – trung gian – bán buôn – bán lẻ – người
tiêu dùng
Các doanh nghiệp có thể cạnh tranh thông qua hệ thống kênh phân phối. Có
nghóa là mục tiêu Marketing cơ bản của họ là làm sao cho khách hàng dễ dàng
tiếp cận được với hàng hoá. Khi đó phân phối sản phẩm như thế nào là một
cách để đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt là thiết lập hệ
thống thông tin về sản phẩm để khách hàng dễ dàng tiếp cận được nó vậy. Đây
có thể nói là điều quan trọng nhất trong công cụ này.
4. Cạnh tranh qua hoạt động xúc tiến hỗn hợp
Đây là cách tập hợp các phương pháp và công cụ hướng tới người tiêu dùng
để có thể hỗ trợ thúc đẩy khách hàng kích thích tiêu dùng. Xúc tiến hỗn hợp bao
gồm các hoạt động như quảng cáo khuyến mại. Quảng cáo là chiến lược truyền
thông tin vào mục tiêu thương mại thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng. Khuyến mại là phương pháp làm kích thích nhu cầu khách hàng tăng
mức hàng tức thì. Ngoài ra còn có hình thức khác như: chuyên thông bán hàng
cá nhân. Các hình thức này được sử dụng kết hợp nhằm mục đích thúc đẩy và
kích thích tiêu dùng.
- 14 -
Tóm lại: các công cụ cạnh tranh đưa ra ở trên mang tính liệt kê. Để xây dựng
thành công chiến lược kinh doanh trên cơ sở chiến lược cạnh tranh doanh nghiệp
phải biết kết hợp các công cụ cạnh tranh theo đặc điểm sản phẩm sản xuất.
Ngày nay tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng các công cụ trên dường như ngày càng
mong manh và không dài lâu. Ngay cả khi giá cả rẻ, sản phẩm có tính năng ưu
việt thì cung không thu hút được khách hàng trong dài hạn. Khách hàng luôn đòi
hỏi những sản phẩm có chất lượng cao hơn và giá cả chưa chắc đã phải là yếu
tố mà họ quan tâm. Tương tự lợi thế về kênh phân phối cũng vậy tữ xa xưa các

công ty, các hãng lớn thường nổi tiếng về thương hiệu của mình. Vậy tại sao
chúng ta không xây dựng thưong hiệu mang lại lợi thế cho các doanh nghiệp.
Đây là một điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp dệt may khi tham gia vào thò trường quốc tế.


- 15 -
- 16 -
Chương II: Thực trạng
I. Những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành
dệt may Việt Nam
1. Vò trí và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đã, đang và sẽ là hàng xuất khẩu
quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ
XXI. Với mức tăng trưởng hàng năm cao từ 30% - 40% liên tục và ổn đònh trong
10 năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng chủ lực
vưon lên vò trí số một trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam năm 1998. Tỷ trọng kim ngạch hàng xuất khẩu dệt may trong cơ cấu hàng
xuất khẩu cũng ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ quan trọng, chiếm khoảng
14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay vươn kên vò trí thứ 2 chỉ sau dầu mỏ.
Xuất khẩu hàng dệt may hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức gia công xuất khẩu
là chủ yếu, chiếm khoảng 75 – 80% đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
khoảng 300 tỷ USD. Điều quan trọng hơn là giải quyết công ăn việc làm cho
hàng triệu lao động trên mọi miền đất nước trong khi chúng ta đang thiếu vốn
thừa lao động. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khu vực nước ta không tránh
khỏi bò ảnh hưởng nặng nề, mặcdù kúc đầu có quan điểm là nước ta có mức độ
hội nhập chưa cao nên ít bò ảnh hưởng. Thực ra không hoàn toàn như vậy, nước
ta đang là nước chậm phát triển,lại đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
- 17 -
hoá hiện đại hoá đất nước nên chúng ta bò ảnh hưởng không nhỏ khi tham gia thò

trường thế giới.
Năm 1998 do tác động của khủng hoảng thò trường kinh tế khu vực, xuất
khẩu chỉ tăng 2,4% bằng khoảng 41% mức tăng GDP. Bốn tháng đầu năm 1999
lại càng giảm mạnh. Giá xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực của ta như: giàu thô,
gạo, cà phê, … biến động mạnh theo hướng bất lợi cho xuất khẩu. Trong khi đó
xuất khẩu hàng dệt may vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao khoảng 25%, đạt
giá trò 420 triệu USD. Điều này càng khẳng đònh xuất khẩu dệt may đã và sẽ
giữ một vò trí quan trọng trong chiến lược xuất khẩu và ổn đònh xã hội trong
những năm sắp tới.
Bởi vậy muốn tăng nhanh và vững chắc chúng ta phải tậ trung vào xuất khẩu
những nhóm hàng công nghiệp nhẹ trong đó có hàng dệt may. Đây là một
ngành đươc phát triển lâu đời, nó vừa mang tính lòch sử vừa mang tính chiến
lược đúng đắn, nó càng được phát triển và củng cố trên thò trường và thực sự
phát triển từ những năm 1990 đến nay. Đây là ngành được coi là thế mạnh của
đất nước, sử dụng lợi thế so sánh lao đông rẻ, giải quyết công ăn việc làm, thu
ngoại tệ cho đất nước.
2. Những chỉ tiêu đánh giá ngành dệt may
Chỉ tiêu đánh giá là những chuẩn mực những thước đo mang tính chiến lược.
Đánh giá theo đúng tiêu chuẩn về kó thuật, chất lượng, khả năng quản lý vấn đề
môi trường, … Như ISO 9000, ISO 9001, ISO 9002, … những chỉ tiêu đã nêu ở
trên ngành dệt may thể hiện ở khía cạnh sản phẩm, sự cạnh tranh của nó trên
thò trường, tinh cạnh tranh của sản phẩm,… được thò trường chấp nhận, thông qua
- 18 -
việc kí kết các hiệp đònh thương mại, khả năng đảm bảo các tiêu chuẩn thương
mại và hợp tác kinh tế. Về điểm này sẽ được làm rõ ở các phần tiếp theo.
II. Thực trạng
1. Khái quát chung
Trong quá trình chuyển dòch sang kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa, cùng với các ngành khác của nền kinh tế ngành dệt may đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ, đóng góp một phần không nhỏ vào mức tăng

trưởng GDP và vào việc xây dựng đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá. Để đạt đượoc điều đó toàn ngành không ngừng đổi mới hoàn
thiện để đạt được mục tiêu cuối cùng cho ra những sản phẩm có chất lượng và
hoà nhập thò trường thế giới…
- Đã có 187 doanhnghiệp dệt may Nhà nước, trong đó có 70 doanh
nghiệp dệt và 117 doanh nghiệp may.
- Gần 800 công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần tư nhân
- Có 500 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn nước ngoài trên
các lónh vực, đang dệt nhuộm may mặc phụ tùng với số vốn đăng kí 2,6 tỉ USD.
- Thu hút khoảng 1,6 triệu lao động
- Chiếm khoảng 8,58% giá trò sản xuất công nghiệp cả nước
- Chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước
- Thiệt bò hiện có 1,05 triệu cọc sợi, 0,14 triệu máy dệt các loại,
450 máy dệt kim…
- 19 -

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×