Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

economic managemnet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.13 KB, 11 trang )

Contents
Lý do chọn Singapore........................................................................................................................................1
Tổng quan về kinh tế....................................................................................................................................1
Lý do lựa chọn...............................................................................................................................................2
Thực trạng FDI vào Singapore..........................................................................................................................3
Chính sách thu hút FDI của Singapore.........................................................................................................3
Khơng phân biệt đối xử với đầu tư nước ngồi......................................................................................3
Kết hợp chính sách tài chính và chính sách lao động..............................................................................3
Bộ máy hành chính giải quyết việc cực kì nhanh chóng:........................................................................4
Hệ thống thuế đơn giản và thân thiện....................................................................................................5
Hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng và vô tư...............................................................................5
Thành quả thu hút FDI..................................................................................................................................6
Các lĩnh vực chủ yếu tiếp nhận FDI..............................................................................................................7
Các đối tác đầu tư chính...............................................................................................................................7
Quản lý FDI của Singapore và bài học cho Việt Nam.......................................................................................8
Bài học cho Việt Nam...................................................................................................................................8
Kiến nghị.....................................................................................................................................................10

Lý do chọn Singapore

Tổng quan về kinh tế
Singapore có một nền kinh tế thị trường tự do rất phát triển và thành công. Nó có một mơi
trường cởi mở và khơng tham nhũng, giá cả ổn định và GDP bình quân đầu người cao hơn so
với hầu hết các nước phát triển. Tỷ lệ thất nghiệp rất thấp. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào
xuất khẩu, đặc biệt là các sản phẩm điện tử, dầu mỏ, hóa chất, thiết bị y tế và quang học, dược
phẩm và vào các lĩnh vực vận tải, kinh doanh và dịch vụ tài chính sơi động của Singapore.
Nền kinh tế đã giảm 0,6% trong năm 2009 do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu,
nhưng đã tiếp tục tăng trưởng kể từ năm 2010. Tăng trưởng từ năm 2012-2017 chậm hơn so


với thập kỷ trước, do tăng trưởng cơ cấu chậm lại - khi Singapore đạt mức thu nhập cao - và nhu


cầu xuất khẩu toàn cầu mềm. Tăng trưởng phục hồi lên 3,6% trong năm 2017 với nền kinh tế
toàn cầu đang mạnh lên.
Chính phủ Singapore đang cố gắng tái cấu trúc nền kinh tế nước này để giảm sự phụ thuộc vào
lao động nước ngoài, tăng trưởng năng suất và tăng lương trong bối cảnh tăng trưởng lực lượng
lao động chậm lại và dân số già. Singapore đã thu hút các khoản đầu tư lớn vào sản xuất tiên
tiến, dược phẩm và sản xuất công nghệ y tế và sẽ tiếp tục nỗ lực để củng cố vị thế là trung tâm
tài chính và cơng nghệ hàng đầu Đơng Nam Á. Singapore là bên ký kết Hiệp định Đối tác Tồn
diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP), và là một bên tham gia đàm phán Hiệp định
Đối tác Kinh tế Tồn diện Khu vực (RCEP) với chín thành viên ASEAN khác cộng với Úc, Trung
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Năm 2015, Singapore thành lập, cùng với
các thành viên ASEAN khác, Cộng đồng Kinh tế ASEAN.

Lý do lựa chọn
Singapore là quốc gia có mơi trường chính trị và pháp luật ổn định, cơ chế thương mại mở,
chính sách kinh tế vĩ mơ thận trọng. Bộ máy hành chính giải quyết việc cực kỳ nhanh chóng, mơi
trường đầu tư kinh doanh thân thiện khơng có sự phân biệt đối xử với đầu tư nước ngồi.
Chính sách thuế đơn giản, thuế suất cạnh tranh và có sự quản lý minh bạch và khung pháp lý
hiệu quả đã giúp cho Singapore trở thành thiên đường đối với các công ty đa quốc gia trong
khu vực và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Singapore cũng là một trong những
nước thành công nhất trong khu vực ASEAN về thu hút vốn đầu tư nước ngoài có chất lượng.
Việc nhìn lại những chính sách có hiệu quả trong thu hút vốn FDI của Singapore đã làm cho
nhiều doanh nghiệp lựa chọn là điểm đến hấp dẫn để họ đầu tư, có thể rút ra một số kinh
nghiệm và giải pháp tham khảo cho Việt Nam.


Thực trạng FDI vào Singapore

Chính sách thu hút FDI của Singapore
Khơng phân biệt đối xử với đầu tư nước ngồi
Mặc dù khơng có luật riêng về đầu tư nhưng Singapore là một trong số những quốc gia thành

công nhất trong khu vực ASEAN về thu hút đầu tư nước ngoài có chất lượng. Thay vì ban hành
một luật riêng, hoạt động đầu tư ở Singapore được điều chỉnh bởi các luật chung, chẳng hạn
như luật chung về hợp đồng, luật cơng ty và các luật cụ thể theo ngành. Nhìn chung, khơng có
sự phân biệt đối xử giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, ngoại trừ một số trường hợp
đặc biệt được quy định bởi luật cụ thể.
Singapore hạn chế đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực như viễn thông, truyền thông, ngân
hàng và quyền sở hữu đất đai. Những hạn chế đối với đầu tư nước ngồi được quy định trong
luật ngành có liên quan. Ví dụ, Luật Báo chí và in ấn hạn chế kiểm sốt nước ngồi đối với các
cơng ty báo chí. Trong thực tế, những hạn chế về đầu tư nước ngoài được thực hiện bởi các cơ
quan quản lý có liên quan. Chẳng hạn, Cơ quan Tiền tệ Singapore quy định đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực ngân hàng thông qua hệ thống cấp phép, được thiết lập theo Mục 7 của Luật Ngân
hàng.
Singapore cũng đưa ra một loạt sáng kiến khuyến khích đầu tư đối với tất cả các nhà đầu tư,
khơng chỉ riêng đầu tư nước ngồi. Ví dụ, Chương 10 của Luật Khuyến khích mở rộng kinh tế
cho phép khấu trừ thuế đối với chi tiêu vốn trong dự án được phê duyệt. Ưu đãi này, bao gồm
việc chỉ định các khoản đầu tư như các dự án được phê duyệt, do Hội đồng Phát triển kinh tế
(EDB) quản lý và dành cho các công ty trong và ngồi nước.

Kết hợp chính sách tài chính và chính sách lao động
Vào những năm 1960, Singapore lần đầu tiên đưa ra các chính sách ưu đãi thuế như ưu đãi cho
những công ty tiên phong, ưu đãi và hoạt động hỗ trợ đầu tư và ưu đãi khi đặt trụ sở tại
Singapore, nhằm thu hút FDI thông qua Luật Khuyến khích mở rộng kinh tế. Năm 2010, đạo luật


này được chỉnh sửa nhằm tạo điều kiện cho các dịch vụ kỹ thuật và chuyên nghiệp khác nhau
nhằm khuyến khích những ngành bị hạn chế trước đây như ngân hàng, báo chí - in ấn, điện tử
viễn thơng.
Cuối những năm 1970 - 1980, để có thể cạnh tranh với những quốc gia lân cận có chi phí thấp,
Singapore nhận thấy cần phải dịch chuyển lên các hoạt động sản xuất giá trị cao và nâng cấp kỹ
năng của lực lượng lao động. Sự tập trung tiếp tục dịch chuyển vào cuối những năm 1980 và

1990 nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất giá trị cao. Từ năm 2000 - 2010, Singapore tập
trung thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo và tri thức. Một trong những
lĩnh vực quan tâm gần đây là dược phẩm và công nghệ y sinh.
Để giải quyết việc thiếu lao động có kỹ thuật, các cơng ty được khuyến khích tuyển dụng lao
động nước ngồi. Việc đánh 4% thuế đối với chủ sử dụng lao động trả lương cho cơng nhân
thấp hơn mức quy định là cách làm có hiệu quả nhằm buộc các công ty tăng cường nâng cao kỹ
năng cho công nhân. Sau các cuộc khủng hoảng năm 1985, tuy mức thuế này được giảm xuống
1%, nhưng vẫn có vai trị quan trọng trong việc nâng cao kỹ năng cho lao động.
Gần đây hơn, EDB đã áp dụng cách tiếp cận theo cụm, tập trung vào những cơng ty thuộc các
ngành điện tử - bán dẫn, hóa dầu và công nghiệp chế biến. Cách tiếp cận theo cụm là một cơng
cụ của chính sách cơng nghiệp nhằm thu hút FDI, đồng thời, tăng cường các mối liên kết và các
tác động lan tỏa; phát hiện các khoảng cách và tiềm năng, giúp Chính phủ có chính sách đối phó
với những nguyên nhân cơ bản gây ra sự thất bại của thị trường và có thể hỗ trợ các dịch vụ
hoặc chuẩn bị kết cấu hạ tầng cho mục đích sử dụng chung.

Bộ máy hành chính giải quyết việc cực kì nhanh chóng:
Những năm qua, Singapore nổi tiếng với bộ máy hành chính hoạt động rất trơn tru, nhanh
chóng, với sự cộng tác hiệu quả giữa các các cơ quan hữu quan để giúp doanh nghiệp hoạt
động và phát triển dễ dàng. Các doanh nghiệp nước ngoài chỉ cần xin cấp giấy phép hoạt động


và đăng kí thành lập, thơng qua sự kiểm sốt của Cơ quan quản lý doanh nghiệp và kế toán
(ACRA), với nhiều hình thức như mở cơng ty con, văn phòng chi nhánh, văn phòng đại diện. Các
thủ tục đăng kí này rất rõ ràng và nhất quán, cũng như cơ chế thuế ưu đãi và liên danh hiệu quả
cùng việc cho phép sở hữu nước ngồi 100%.
Khơng chỉ có vậy, chính phủ Singapore cịn tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng về thị thực nhập
cảnh và cư trú cho người nước ngoài muốn hoạt động kinh doanh tại Singapore. Với sự hỗ trợ
tối đa từ chính phủ thơng qua các chương trình và khuyến khích, Singapore được nhìn nhận là
nơi dễ dàng nhất thế giới để mở hoạt động kinh doanh cũng như là nền kinh tế cạnh tranh nhất
trong khu vực.

Hệ thống thuế đơn giản và thân thiện
Một điểm mạnh khác nữa của Singapore chính là hệ thống thuế, được xem là "đơn giản và thân
thiện với nhà đầu tư". Mức thuế doanh nghiệp cao nhất chỉ là 17%. Đây là mức thuế doanh
nghiệp thấp nhất thế giới. Bên cạnh đó, Singapore đã kí kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần
(DTA) với hơn 70 quốc gia trên thế giới, qua đó góp phần quan trọng giảm gánh thuế cho doanh
nghiệp nước ngoài. Mạng lưới DTA mở rộng, cùng với thuế tăng vốn và thu nhập cổ tức bằng 0,
đã biến Singapore thành nơi hấp dẫn cho đầu tư kinh doanh thơng qua hình thức liên danh.
Việc một công ty bán cổ phần cho các nhà đầu tư mới có thể được thực hiện trong vài giờ ở
Singapore, trong khi quy trình đó sẽ kéo dài hàng tuần ở nhiều nước khác. Do có hiệp định
chống đánh thuế hai lần giữa hai nước nên khơng có gánh nặng thuế bổ sung nào phát sinh,
nhưng chắc chắn Singapore không phải là “thiên đường thuế” giống như một số địa điểm khác
thường xuất hiện nổi bật trong bảng danh sách đầu tư nước ngoài.
Hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng và vô tư
Hệ thống luật pháp của Singapore cũng hoạt động rất hiệu quả. Cơ sở pháp lí liên tục được cập
nhật và đổi mới để phù hợp với mơi trường văn hóa, kinh tế và thương mại hiện hành. Thừa
hưởng hệ thống pháp luật từ Anh và phát triển thành bản sắc riêng, hệ thống luật pháp của


Singapore đến nay được đánh giá cao nhờ tính hiệu quả và nhất quán. Các doanh nghiệp ở
Singapore không phải chứng kiến q trình thủ tục pháp lí chậm chạp, làm giảm sút hiệu quả
hoạt động kinh doanh.
Chính phủ Singapore coi việc tiếp cận với pháp luật là một giá trị kinh tế nền tảng, được khai
thác nhằm nâng cao uy tín của Singapore như là một trung tâm thương mại và pháp lý hàng đầu
ở châu Á. Hệ thống luật thương mại của Singapore có tiếng là cơng bằng và vô tư, biến quốc
đảo Sư tử ngày càng trở thành lựa chọn tự nhiên làm nơi giải quyết tranh chấp, đặc biệt là hòa
giải và trọng tài, ở khu vực Đông Nam Á. Khuôn khổ pháp lý của Singapore đã tạo ra một sân
chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngồi, khi khơng giới hạn sở hữu nước ngồi và khơng
có kiểm sốt ngoại hối.

Thành quả thu hút FDI

Riêng 6 tháng đầu năm 2020, Singapore đã thu hút được khoảng 14,3 tỷ SGD. Một nghiên cứu
gần đây của OECD cho thấy hoạt động FDI trên toàn thế giới ước tính sẽ giảm khoảng 30% trong
năm nay. Sự sụt giảm này đặc biệt thể hiện rõ trong lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất so với lĩnh
vực dịch vụ hoặc trong các hoạt động chuyên sâu về nghiên cứu và phát triển (R&D).
Tuy nhiên, nhờ có mơi trường kinh doanh thuận lợi tiếp tục là yếu tố giúp Singapore thu hút
thêm nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ.
Chỉ tính riêng nửa đầu năm 2020, Singapore đã thu hút được khoảng 14,3 tỷ SGD các nguồn đầu
tư vào tài sản cố định – tương đương với 95% tổng lượng đầu tư cam kết cho cả năm 2019. Con
số 15,2 tỷ SGD Singapore đã thu hút được trong năm 2019 là mức cao nhất trong 7 năm qua.
Phó Chủ tịch điều hành của Ủy ban Phát triển Kinh tế Singapore Kiren Kumar cho rằng nhờ có
mơi trường kinh doanh thân thiện, tuân thủ chặt chẽ pháp luật và có sự liên kết sâu rộng,
Singapore tiếp tục là địa điểm để nhiều cơng ty nước ngồi gia tăng đầu tư và hoạt động.
Theo ông Kiren, một số các công ty tuyên bố sẽ đầu tư vào Singapore trong năm nay gồm
Paypal, Rakuten, Kajima, Johnson Controls, Twitter và Zoom. Công ty công nghệ bảo hiểm


Descartes Underwriting có trụ sở tại Pháp cũng đang lên kế hoạch mở văn phòng tại Singapore,
sau khi đã kêu gọi được khoản góp vốn trị giá 25,3 triệu SGD.

Các lĩnh vực chủ yếu tiếp nhận FDI

Nhìn vào số liệu thống kê có thể nhận thấy dịng vốn FDI vào Singapore trong năm 2020 tập
trung vào bốn mảng chính là chế tạo, thương mại bán buôn & bán lẻ, Tài chính & Bảo hiểm, Bất
động sản, Chuyên nghiệp và Hành chính & dịch vụ hỗ trợ. Trong đó, tài chính và bảo hiểm là
nhóm ngành được đầu tư dịng vốn FDI cao nhất khi đạt tới 1.189,3 tỷ đô la Singapore chiếm tới
hơn 55% dòng vốn FDI vào Singapore. Các nhóm ngành thương mại bán bn & bán lẻ đạt
317,8 tỷ đơ la singapore chiếm 14,8% dịng vốn. Ngành chế tạo đạt 257,0 tỷ đô la singapore
chiếm gần 12% và nhóm ngành Bất động sản, Chun nghiệp và Hành chính & dịch vụ hỗ trợ đạt
272,4 tỷ đô la singapore chiếm 12,7%.


Các đối tác đầu tư chính


Nhìn vào biểu đồ có thể thấy dịng vốn FDI của singapore có sự đầu tư mạnh mẽ từ những nhà
đầu tư trung quốc. Từ năm 2016- 2020 Trung quốc đã đầu tư vào Singapore từ 23.806,5 triệu
đô la singapore lên tới 43.872,6 triệu đô la singapore tức tăng tới 84% số vốn đầu tư sau 4 năm.
Nước Brunei Darussalam có sự tăng nhẹ về đầu tư vốn vào Singapore từ năm 2016- 2018 từ
352,9 triệu đô la singapore lên 388,2 triệu đô la singapore, giai đoạn từ 2019-2020 nguồn vốn
của Brunei Darussalam có xu hướng giảm nhẹ từ 2018 là 388,2 triệu đơ la singapore xuống cịn
363 triệu đơ la singapore năm 2019 và cịn 310,1 triệu đơ la singapore vào năm 2020. Nguồn
vốn từ Campuchia đầu tư vào Singapore cũng có sự tăng trưởng mạnh qua các năm, từ năm
2016- 2020 tăng từ 15,9 - 108,7 triệu đô la singapore. Các nguồn vốn từ châu Á cũng có sự gia
tăng đầu tư rõ rệt từ 290.593,3- 432.828,2 triệu đơ la singapore. Qua đây có thể thấy được sức
hút của thị trường Singapore đối với các nước trong khu vực là rất lớn.

Quản lý FDI của Singapore và bài học cho Việt Nam

Bài học cho Việt Nam


Nhìn lại những chính sách có hiệu quả trong thu hút vốn FDI của Singapore đã khiến nhiều
doanh nghiệp lựa chọn là điểm đến hấp dẫn để họ đầu tư, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho
Việt Nam
Singapore đã xác định rõ việc thu hút nguồn vốn FDI tập trung vào 3 lĩnh vực cần ưu tiên là:
ngành sản xuất mới, xây dựng và xuất khẩu. Bên cạnh đó, tùy từng điều kiện cụ thể của mỗi thời
kỳ, Singapore chủ trương thu hút vốn FDI vào các ngành thích hợp. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của ngành công nghiệp điện tử và một số công nghệ tiên tiến khác, hướng sử dụng nguồn
vốn đầu tư tập trung vào những ngành, như: sản xuất máy vi tính, điện tử, hàng bán dân dụng,
công nghiệp lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ… Để thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp
hướng ra xuất khẩu, Singapore thành lập Hội đồng Phát triển Kinh tế (Economic Development

Board - EDB), là cơ quan độc lập của Chính phủ, hoạt động theo nguyên tắc một cửa, nghiên
cứu, cân nhắc những yêu cầu của nhà đầu tư và có định hướng vào các ngành cơng nghiệp mũi
nhọn của đất nước (ví dụ như sửa chữa tàu biển, gia cơng kim loại, hóa chất, thiết bị và linh
kiện).
Gần đây hơn, EDB đã áp dụng cách tiếp cận theo cụm, tập trung vào những công ty thuộc các
ngành điện tử - bán dẫn, hóa dầu và công nghiệp chế biến. Cách tiếp cận theo cụm là một cơng
cụ của chính sách cơng nghiệp nhằm thu hút vốn FDI, đồng thời tăng cường các mối liên kết và
các tác động lan tỏa. Để khai thác ưu thế về vị trí địa lý, cũng như khắc phục sự thiếu hụt về tài
nguyên thiên nhiên, phù hợp với trình độ phát triển cao của nền kinh tế, thu hút vốn FDI còn
hướng vào việc tạo ra một hệ thống các ngành dịch vụ thúc đẩy đầu tư quốc tế.
Chính phủ Singapore đã tạo nên một mơi trường kinh doanh ổn định, hấp dẫn cho các nhà đầu
tư nước ngồi. Chính phủ đã cơng khai khẳng định, khơng quốc hữu hóa các doanh nghiệp nước
ngồi. Bên cạnh đó, Singapore cũng rất chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ cho hoạt
động sản xuất. Thủ tục cấp giấy phép đơn giản, thuận tiện, có những dự án xin cấp giấy phép rồi
đi vào sản xuất chỉ trong vòng vài tháng, có những dự án chỉ trong vịng 49 ngày đã có thể đi vào
sản xuất.
Singapore đã xây dựng được hệ thống pháp luật hồn thiện, nghiêm minh, cơng bằng và hiệu
quả. Tệ nạn tham nhũng được xét xử rất nghiêm, tất cả các doanh nghiệp không kể trong nước,
ngoài nước đều được đối xử như nhau, mọi người đều làm việc, tuân thủ theo pháp luật. Bên
cạnh đó, Nhà nước trả lương rất cao cho viên chức. Hàng tháng họ phải trích lại một phần


lương coi như là một khoản tiền tiết kiệm khi về hưu, nếu trong q trình cơng tác mà phạm tội
tham ơ thì sẽ bị cắt khoản tích lũy này và cách chức. Họ không những mất số tiền do mình tích
cóp nhiều năm, mà có thể phải chịu hình phạt tù. Nhiều người gọi đây là quỹ dưỡng liêm cho
quan chức.
Chính phủ Singapore đã ban hành những chính sách khuyến khích các nhà tư bản nước ngồi bỏ
vốn vào đầu tư. Singapore áp dụng chính sách ưu đãi rất đặc biệt, đó là: Khi kinh doanh có lợi
nhuận, nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển lợi nhuận về nước; Nhà đầu tư có quyền cư
trú nhập cảnh (đặc quyền về nhập cảnh và nhập quốc tịch); Nhà đầu tư nào có số vốn ký thác tại

Singapore từ 250.000 đơ la Singapore trở lên và có dự án đầu tư thì gia đình họ được hưởng
quyền cơng dân Singapore.

Kiến nghị
Từ thực tế những năm gần đây cho thấy, Việt Nam có nhiều khả năng vẫn là “điểm đến” của các
hoạt động FDI chứ không phải là “trung tâm” như Singapore. Tuy nhiên Việt Nam cần thực hiện
một số cải cách cơ cấu cần thiết về hiệu quả hành chính, quy tắc quản trị doanh nghiệp, quy
trình pháp lý và cả một đội ngũ lao động trình độ cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau trước khi
có thể sánh ngang với Singapore như là một trung tâm FDI.
Việt Nam là địa điểm hấp dẫn thu hút các hoạt động FDI vì đã có lực lượng lao động bán lành
nghề với mức lương cạnh tranh so với các nhà sản xuất trên thế giới. Và Việt Nam là một lựa
chọn khả thi thay thế Trung Quốc, trở thành địa điểm tập trung sản xuất trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý, là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế
giới, Việt Nam sẽ thiếu hụt lao động trẻ và năng suất cao trong trung hạn. Việt Nam cũng cần
đưa ra các biện pháp khuyến khích có hệ thống hơn để thu hút nhân tài nước ngồi vào Việt
Nam, hoặc có các ưu đãi có mục tiêu để thu hút đầu tư vào các hoạt động cụ thể.
Điều cần thiết đối với Việt Nam là thu hút các khoản đầu tư tạo nhiều giá trị gia tăng. Thực tế
cho thấy Việt Nam có lẽ đang đảm nhiệm phần có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị
tồn cầu, đó là lắp ráp và may sản phẩm. Việt Nam phải nghiêm túc xem lại năng lực quốc gia


trong lĩnh vực R&D, hậu cần hay marketing chẳng hạn. Điều này địi hỏi phải rà sốt lại hệ thống
giáo dục ở nhiều cấp độ.
Các cơ quan chức năng của Việt Nam cũng có thể tích cực theo đuổi chính sách xây dựng các
cụm công nghiệp. Một thành công tương tự gần đây là cụm công nghiệp lắp ráp tai nghe của
Apple tại tỉnh Bắc Giang. Các công ty lắp ráp đã thu hút các nhà cung cấp linh kiện khác đặt trụ
sở sản xuất gần nhà máy của họ. Cuối cùng, cụm cơng nghiệp mới chớm nở này có thể thu hút
các nhà sản xuất tai nghe khác đến đây vì có sẵn nguồn nhân lực có tay nghề cao về các bộ phận
âm thanh.
Và quan trọng nhất, việc chuyển sang các hoạt động tạo ra giá trị nhiều hơn ở Việt Nam đòi hỏi

sự thay đổi trong tư duy của các doanh nhân và doanh nghiệp. Mọi người hiện tập trung quá
nhiều vào các "tài sản hữu hình" như nhà máy, nhưng lại không tập trung đủ vào "tài sản vơ
hình" như R&D, xây dựng danh tiếng, kiến thức hoặc kỹ năng thiết kế. Việc củng cố năng lực
kinh doanh trong các hạng mục này là thách thức thực sự đối với thế hệ lãnh đạo doanh nghiệp
hiện tại và tương lai.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×