Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Điều tra nghiên cứu cát Phong Điền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.11 KB, 62 trang )

MỞ ĐẦU
Thừa Thiên Huế là tỉnh có tiềm năng lớn về cát thạch anh. Đây là
nguồn tài nguyên quí giá không có nhiều mà chỉ tập trung ở một số khu vực
của Việt Nam.
Với nhịp độ phát triển công nghiệp và xây dựng hiện nay, nhu cầu về
các vật liệ thủy tinh gốm sứ của các địa phương và khu vực miền trung là
rất lớn.Việc xây dựng các nhà máy sản xuất gốm sứ thủy tinh, gạch chịu
lửa … căn bản dựa vào tiềm năng sẵn có tại khu vực, vì vậy việc hiểu biết
về chất lượng để sử dụng hợp lý vào các mục đích khác nhau là cần thiết,
mặt khác tài nguyên cát ở ngay trên mặt nếu chúng ta không đánh giá,
khoanh được vùng ranh giới và giữ gìn chúng, thì tài nguyên này cũng bị
xâm hại, chất lượng bị suy thoái.
Theo tinh thần và quyết định số 2624/UBND, ngày 5/11/1997 của
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, theo đó cần phải tiến hành “ Điều tra nghiên
cứu cát Phong Điền” và đây là giai đoạn tiếp theo của Dự án.
Mục tiêu:
Điều tra nghiên cứu chất lượng và trữ lượng cát Phong Điền
Nhiệm vụ triển khai bước II( 2001)gồm :
Đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:25000 và đánh giá tiềm năng cát thạch anh trên
toàn khu vực huyện Phong Điền với tổng diện tích 135 km2.
Đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:10000 và đánh giá chất lượng trữ lượng cát
thạch anh khu Cầu Thiềm.
Tổ chức thực hiện:
Để triền khai nhiệm vụ của bước II, đã tiến hành ký kết hợp đồng số
01/HĐKT giữa sở Công Nghiệp và Tiểu thủ Công Nghiệp Thừa Thiên Huế
với trung tâm Nghiên cứu môi trường địa chất, ngày 8 tháng 6 năm 2001 về
việc “Điều tra đánh giá trữ lượng, chất lượng cát thạch anh Phong Điền làm
nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp sản xuất thủy tinh, gốm, sứ, menfrit”
1
Đây là một nhiệm vụ khó khăn, bởi vì với một khối lượng khảo sát,
thi công, phân tích lớn chỉ thực hiện trong 06 tháng. Được sự giúp đỡ của sở


công nghiệp chúng tôi đã tiến hành hai đợt khảo sát thực địa, thi công công
trình khoan, khai đào, lấy mẫu, phân tích…
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Trung tâm Môi trường địa chất đã
phối hợp với các chuyên gia thuộc trường Đại Học Mỏ- Địa Chất, Viện địa
chất, Trung tâm khoa học tự nhiên và Công ngheek Quốc gia triển khai các
công tác cần thiết của bước II này.
Công tác thực địa đã được triển khai đồng bộ và tổng hợp các nhiệm
vụ : đo vẽ bản đồ, khai đào, khoan tay và khoan sâu. Trong quá trình đo vẽ
địa chất cũng đã tiến hành đo liều bức xạ bằng máy đo tổng xạ.
Việc chỉ đạo tổ chức thi công được chỉ đạo do Th.S Nguyễn Văn
Cầu phụ trách với sự tham gia của các kỹ sư Nguyễn Văn Thự, Vũ Mạnh
Long, Nguyễn Hồng Phúc.
Phần đo xạ và sử lý số liệu do PGS.TS Nguyễn Trọng Nga chỉ đạo
với sự tham gia của kỹ sư Nguyễn Văn Thự, Nguyễn Văn Bình.
Các mẫu hóa toàn phần và hóa cơ bản được phân tích tại phòng thí
nghiệm hóa phân tích thuộc Viện Địa chất – Trung tâm khoa học tự nhiên và
Công nghệ Quốc gia và đã được kiểm tra tại Trung tâm phân tích địa chất.
Cục địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
Toàn bộ khối lượng công tác đã tiến hành và các kết quả cụ thể của
dự án được thể hiện trong báo cáo thuyết minh này.
Tham gia thành lập báo cáo tổng kết gồm tập thể các nhà khoa học,
các kỹ sư thuộc trường Đại học mỏ - Địa chất, Viện địa chất, Liên đoàn
Bản đồ địa chất dưới sự chỉ đạo và tổng hợp của PGS.TS Nguyễn Văn Phổ
và TS Đỗ Cảnh Dương, với sự tham gia của Th.s Nguyễn Văn Cần , Th.S
Nguyễn Tiến Dũng, Th.s Hoàng Đức Ngọc, K.S Nguyễn văn Thự, K.S
Nguyễn Văn Long.
2
Trong quá trình triển khai và hoàn thành dự án này tập thể tác giả
luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo UBND tỉnh, được sự
giúp đỡ sát sao và có hiệu quả của Sở Công nghiệp và Tiểu thủ công

nghiệp, Sở kế hoạch và Đầu tư, Sở tài chính và Vật giá của tỉnh, được sự
giúp đỡ và tạo điều kiện của UBND huyện Phong Điền, các xã Phong
Bình , Phong Chương, Phong Hòa, Phong Hiền, Phong Thu, Quảng Lợi,
Quảng Vinh, nơi đoàn đã đóng quân và làm việc.
Nhân dịp này tập thể tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trước
sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ và cộng tác của các cơ quan, ban nghành, và
các địa phương để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.
3
Chương II
PHƯƠNG PHÁP, KHỐI LƯỢNG VÀ KỸ THUẬT TIẾN HÀNH
II.1 Công tác chuẩn bị
- Thu thập chỉnh lý các tài liệu đã có, chuẩn bị các bản đồ địa hình
tỷ lệ 1:50.000; 1:10.000;. và các công việc phụ trợ khác.
- Trên cơ sở các tài liệu địa chất như báo cáo đo vẽ bản đồ địa chất
tỷ lệ:1: 200.000; 1:100.000; 1:50.000
- Chuẩn bị các máy địa vật lý như: Máy phóng xạ CPH 68-01 số
1354 là máy có độ nhạy, độ chính xác cao…
II.2. Đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:25000
Mục tiêu là thành lập bản đồ địa chất vùng Phong Điền, chính xác
hóa ranh giới địa chất , ranh giới các khu dân cư, các khu vực xây dựng
công trình công cộng, các trằm bàu …..đặc biệt là khoanh định được các
ranh giới các dải cát, thân cát, đạt chất lượng và chiều dày khai thác để qui
hoạch và thăm dò khai thác.
Công tác đo vẽ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:25000 với diện tích 135
km2 tiến hành theo phương pháp lộ trình địa chất. Các tuyến lộ trình được
bố trí như sau:
- Tuyến trục có phương vị: 300-120
- Các tuyến ngang vuông góc với tuyến trục, với phương vị 210
-30
Khoảng cách tuyến ngang 1000m, khoảng cách điểm quan sát, các

công trình trên tuyến từ 400 – 500m.
II.3. Đo vẽ địa chất, tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1: 10.000
Dựa vào kết quả của tìm kiếm tỷ lệ 1:25000 kết hợp với các phương
pháp tìm kiếm khác và quy luật phân bố của cát thạch anh vùng Phong Điền,
chúng tôi lựa chọn diện tích khu Cầu Thiền để đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:10.000.
Hệ thống tuyến lộ trình tìm kiếm được tiến hành trên cơ sở các tuyến của
giai đoạn tìm kiếm tỷ lệ 1:25000. Các điểm quan sát trên tuyến được đan dày
và bố trí đan dày mật độ công trình ( khoảng cách công trình 250 – 500m).
4
Diện tích tìm kiếm đo vẽ sơ đồ địa chất tỷ lệ 1: 10.000. là 30km2.
II.4. Công tác trắc địa
Trong quá trình thi công phương án chúng tôi đã sử dụng bản đồ địa
hình tỷ lệ 1:25000 được phóng từ bản đồ địa hình UTM tỷ lệ 1: 50.000 ( tờ
Hải Lăng – 6442-II) và bản đồ địa hình tỷ lệ 1:10.000 vùng ven biển Phong
Điền do cục đo đạc và Bản đồ Nhà nước xuất bản năm 1998. Nhiệm vụ
chính của công tác trắc địa trong giai đoạn này là đo các tuyến tìm kiếm
( gồm 1 tuyến trục và 16 tuyến ngang), định vị trí các công trình khoan,
khai đào. Việc đo đạc, định vị được tiến hành bằng máy định vị GPS.
Khối lượng công tác đã thực hiện: Đo 1 tuyến trục và 16 tuyến ngang.
- Đo định vị các lỗ khoan tay, 4 lỗ khoan máy và các hố, 16 giao
điểm tuyến trục với tuyến ngang.
II.5. Khảo sát phóng xạ
Mục đích của công tác phóng xạ nhằm xác định sự có mặt hoặc
không có mặt của các khoáng vật nặng cộng sinh đồng hành cùng các chấy
phóng xạ như: Zircon, Rutin. Ilmenit, Monazite…
Đã tiến hành đo suất liều gamma trên tâm. Tổng số điểm đo là 270
điểm, số điểm kiểm tra : 22
a, Xử lý số liệu:
Đánh giá độ chính xác thực địa:
Độ chính xác thực địa được xác định theo công thức sai số bình

phương trung bình.
b, Tính giá trị liều tương đương bức xạ”
Giá trị liều tương đương bức xạ gamma được tính theo công thức {1}
H
n
(m

Sv/ năm ) = D.Q.N.t (3)
Trong đó: D= K.I - Liều hấp thụ bức xạ gamma trong không khí.
I – Suất liều bức xạ gamma ( µR/h)
K – Hệ số hấp thụ bức xạ gamma trong không khí ( K = 0,896)
Q – Hệ số chất lượng, Đối với nguồn bức xạ gamma chiếu ngoài Q=
1; N = 1.
T – Thời gian chiếu xạ đối với dân thường trong một năm ( 8760 giờ)
5
Thay các tham số trên vào công thức (3) được:
H
n
(m

Sv/ năm ) = 7,68.10-2 ( µR/h).
II.6. Phương pháp thi công công trình khoan khai đào.
Các dạng công trình khai đào được sử dụng bằng máy khoan, khoan
tay và hố.
a, Khoan máy.
Các lỗ khoan thi công với chiều sâu khoan 10 - 20m, để nghiên cứu cấu
trúc địa chất, chiều sâu của các tầng trầm tích đệ tứ, đặc biệt là phân hệ tầng
dưới của hệ tầng Phú Bài.
Các lỗ khoan được bố trí trên tuyến VI với khoảng cách lỗ khoan 1,5
– 2km, bao gồm 4 lỗ khoan: LK1 ( 18,5m); LK2 ( 18,5m); LK3 ( 19,5m);

LK4 ( 19m) với tổng chiều sâu 75m. Kèm theo việc lấy mẫu theo chiều
sâu.
b. Khoan tay.
Mục đích của công việc khoan tay là để xác định chiều dày của tầng
sản phẩm ( cát thạch anh màu trắng), lây mẫu nghiên cứu chất lượng cát.
Để đạt được mục đích trên chúng tôi tiến hành khoan ỏ độ sâu dưới 10m.
Các lỗ khoan cũng được bố trí trên tuyến tìm kiếm với khoảng cách
công trình từ 250 – 500m. Đã khoan lỗ khoan với khối lượng 260m.
c. Công trình hố
Công trình hố nhằm mục đích lấy mẫu nghiên cứu phần trên của
tầng sản phầm ( nếu có thể).
Hố được bố trí trên tuyến tìm kiếm. Các hố được đào với kích thước
miệng hố 1x 1m; chiều sâu hố từ 1 m đến 1,5m. Sau khi công lấy mẫu, thu
thập tài liệu và nghiệm thu, các hố được san lấp lại. Các thiết đồ hố được
vẽ 1 vách.
Khối lượng hố đã thi công: 80 hố = 120m3.
II.7. Công tác mẫu
a. Lấy mẫu:
Các nghiên cứu chất lượng cát được lấy chủ yếu trong các công trình
khoan hố.
6
Do đặc điểm của cát thạch anh trong vùn là có độ hạt đồng đều nên
khi lấy mẫu chúng tôi tiến hành rút gọn mẫu ngay tại hiện trường bằng
cách chia tư lấy đối đỉnh để định mẫu với trọng lượng là 1kg., sau đó chia
đôi ½ lưu ở sở công nghiệp còn ½ gửi cơ quan phân tích.
Lấy mẫu hóa:
- Mẫu hóa được lấy trong các công trình hố hoặc khoan tay.
Trong công trình hố mẫu được lấy theo phương pháp mẫu rãnh. Kích
thước rãnh mẫu: rộng: 10cm; sâu 5cm, dài : 0,5- 1m. Mẫu lấy theo
phương pháp thằng đứng, mẫu lấy được rút gọn ngay tại hiện trường.

Trong công trình khoan, lấy mẫu lõi khoan với chiều dài mẫu 1m.
Tủy theo chiều sâu khoan có thể lấy 1- 3 m ở mỗi lỗ khoan. mẫu lấy được
rút gọn ngay tại hiện trường.
- Trong các lỗ khoan sâu từ 10 -20m: Lấy mẫu liên tục toàn bộ
chiều sâu khoan, chiều dài mẫu 1m.
Lấy mẫu thể trọng và độ ẩm.
Lấu mẫu trọng sa
Khối lượng mẫu các loại đã lấy: 230 mẫu
b. Công tác phân tích mẫu
Mẫu hóa cát:
- Mẫu hóa cơ bản : Yêu cầu phân tích các chỉ tiêu: SiO2, Fe2O,
TiO2, CaO. Ce2O3, MKN.
- Mẫu hóa toàn phần:Y/c phân tích các chỉ tiêu: SiO2, Fe2O3,
Na2O, K2O, MgO, Al2O3, TiO2, Cr2O3, CaO, MKN
Khối lượng mẫu phân tích là : 50 mẫu.
Mẫu kiểm tra ngoại bộ được gửi phân tích tại:
Tổng số mẫu kiểm tra ngoại bộ với mẫu hóa cơ bản là: 8 mẫu, với
mẫu hóa toàn phần là 5 mẫu.
Mẫu độ hạt:
Yêu cầu xác định % các cấp hạt: < 0,1 mm; 0,1 – 0,315mm; 0,315
-0,8mm; và > 0,8- 2,0 mm.
Khối lượng phân tích mẫu là: 30 mẫu.
7
Mẫu trọng sa:
Yêu cầu phân tích hàm lượng phần trăm các loại khoáng vật nặng.
Khối lượng phân tích mẫu là: 15 mẫu.
c. Đánh giá kết quả phân tích mẫu
Để xác định sai số ngẫu nhiên dùng công thức:
m
CCn

m
i
2
)12(
2
1


=
=
ρ
Trong đó: Cn: Hàm lượng thành phần trong mẫu cơ bản thứ i, hàm lượng
C
12
: Hàm lượng thành phần trong mẫu kiểm tra thứ i
M: Số lượng mẫu kiểm tra
Sai số trùng phương tương đối
ρ
r
tính theo công thức:
(%)
100.
C
r
ρ
ρ
=
=
C


m
CCn
m
i
2
)12(
1

=

Trong đó:
-
C
: Hàm lượng trung bình thành phần của tất cả các mẫu.
Tiến hành so sánh
r
ρ
với
chophép
ρ
nếu
r
ρ
<
chophép
ρ


tập mẫu không vi
phạm sai số ngẫu nhiên và ngược lại.

- Kiểm tra ngoại bộ: Để tiến hành đánh giá sai số hệ thống tiến hành
theo các bước:
+ Xác định hàm lượng trung bình thành phần trong m mẫu phân tích
cơ bản:
cb
C
=
m
Ccb
m
i
2
1

=
+ Tính sai số hệ thống tuyệt đối:
8
=
d

m
CC
m
i
ikicb

=

1
)(

=
m
d
icb
m
i

=
1
Trong đó:
-
icb
C
: Hàm lượng thành phần trong mẫu cơ bản thứ i
-
ik
C
: Hàm lượng thành phần trong mẫu kiểm tra thứ i
- m : Số lượng mẫu kiểm tra
+ Tính sai số hệ thống tương đối:
(%)
100.
1
cb
C
d
d
=
+ Xác định giá trị thực nghiệm:
d

m
md
t
ρ
.//
=
Với
d
ρ
là sai số trùng phương chọn lọc tính theo công thức:
Tiến hành so sánh
m
t
với
n
t
được tra bảng, nếu
nm
tt
<

t

tập mẫu
không phạm sai hệ thống.
9
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ ĐO VẼ ĐỊA CHẤT VÀ TÌM KIẾM CÁT
TỶ LỆ 1: 25.000 VÙNG PHONG ĐIỀN
III.1. Đặc điểm địa chất vùng nghiên cứu

III.1.1. Đặc điểm địa tầng
Các thành tạp trầm tích cấu thành nên vùng nghiên cứu bao gồm các
phân vị địa tầng sau:
GIỚI PALEOZOI
HỆ ORDOVIC HẠ - HỆ SIZUR
Hệ tầng Long Đại ( O
1
– S lđ)
Hệ tầng được đặc trưng bởi các trầm tích lục nguyên màu xám dạng
plysh xen các tập cuội kết, sạn kết. Các đá của hệ tầng bị biến chất ở tướng
phiến lục, phụ tướng Sericil – clorit. Ven rìa có các khối magma thành
phần bazo – trung tính phức hệ Quế Sơn. Các đá của hệ tầng bị biến chất
nhiệt, tướng đá sừng không phân chia. Dọc các đứt gãy các mạch thạch anh
xuyên theo mặt lớp, mặt phiến.
Tổng chiều dày hệ tầng Long Đại khoảng 2.600m.
Trong vùng nghiên cứu khối lượng mặt cắt của hệ tầng chi tương
ứng với phụ hệ tầng trên của hệ tầng Long Đại với diện lộ nhỏ, khoảng
15km2 nằm ở phía Tây Bắc vùng nghiên cứu với bề dày ~ 650m gồm 2 tập.
Phân hệ tầng trên ( O
1
– S lđ3 )
- Tập 1: Bao gồm các đá phiến sét sericit – clorit xen ít cát kết phân
lớp mỏng đến trung bình màu xám, xám nhạt, phần thấp tập là lớp
bột kết màu đen, dày 300m.
- Taapj2: các đá bột kết, đá phiến sét - sericit – clorit cát bột kết.
Đá phân lớp mỏng đến dày màu xám, xám đen, dày 350m.
- Trên cơ sở phát hiện bút đá Phyllograptusanca Hall:
Expansograptus entnsis Hall: Isograptus sp xác định tuổi ordovic
sớm ( Nguyễn Hồng Hược ). Ngoài ra còn phát hiện được
Prustrograptus sp là hóa thạch phổ biến trong silua hạ ở Việt

10
Nam. Do đó các thành tạo của hệ tầng Long Đại được xếp vào
tuổi ordovic sớm, silua hạ ( O
1
– S lđ).
GIỚI KAINOZOI
HỆ ĐỆ TỨ
Pleistocen trung – thượng Hệ tầng Quảng Điền
Các trầm tích này lộ trên mặt hoăc được thấy trong các lỗ khoan, bao
gồm các tướng sông lũ, sông, sông biển và sông biển đầm lầy, ại vùng
Phong Điền các trầm tchs này bao gồm các tướng có đặc điểm như sau:
- Trầm tích sông lũ ( ApQII – III1 qđ )
+ Trầm tích sông lũ phân bố với diện nhỏ nằm phía Đong Nam khu
tìm kiếm, chúng tạp nên thềm sông bậc III với độ cao xấp xỉ 15m. Thành
phần chủ yếu là các trầm tích hạt thô ( cuội, sỏi, tầng ) xen lớp mỏng sét
bột. Mặt cắt gồm 2 lớp:
+ Lớp 1( 0 -1,5m ): phủ trực tiếp trên bề mặt bào mòn của hệ tầng
Long Đại, thành phần là cuội đa khoáng với thành phần thạch anh, kích
thước 3-7cm. Chúng bị phong hóa mạnh, ở dạng mền bờ. Lớp cát, cát bột
màu xám trắng, xám vàng loang lổ ( là sản phẩm phong hóa ) có thành
phần hóa học SiO2: 84,1% : Fe2O3: 4,4%: FeO: 0,57%: Al2O: 8,51%;
CaO: 0,27%; MgO: 0,1%. Bề dày 1,5m.
+ Lớp 2 ( 1,5 – 3m ): là lớp kết vón leterit dạng khung xương màu
đốm, tím xẫm cứng chắc, lấp đầy các lỗ hổng là bột sét màu nâu nhạt. Kết
quả phân tích hoát (%) SiO: 73,12% ; Fe2O3: 0,07%; Al2O: 5,99% ; CaO:
0,14%; MgO: 0,3. Bề dày lớp 1,5m.
Pleistocen thượng
Hệ tầng Phú Xuân ( mQ
m
2

px)
Các trầm tích của hệ tầng này chỉ lộ ra các diện lộ nhỏ đến vài Km2.
Ngoài ra còn bắt gặp các trầm tích này trong một số lỗ khoan sâu
21-66,5m, chúng chuyể tiếp liên tục từ các trầm tíc sông biển còn phía trên
bị phủ bởi các trầm tích sông, sông biển hệ tầng Phú Bài.
Thành phàn các trầm tích bao gồm cát bột lẫn sét, ít sạn màu vàng
sẫm, nâu đỏ chặt xít. Thành phàn độ hạt (%): cát 44,5-65%; bột 17-37,7%;
11
sét 15,3=18%; sạn 2,5%. Hệ số độ hạt kích thước trung bình (Md):
0,097-0,12; hệ số chọn lọ (So): 2,07; độ cấu (Sf): 0,796; Sk: 2,99. Thành
phần khoáng vật cấp hạt 0,1-0,25mm (%): thạch anh 97%; mảnh đát 3%.
Kết quả phân tích mẫu hóa Siliccat (%) SiO2: 82,2%; Fe2O3: 4,15%; FeO:
0,09%; Al2O3: 7,32%; CaO: 0,7%; MgO: 0,4%. Bề dày lớp trầm tích 9m.
Holocen hạ, trung
Hệ tầng Phú Bài ( Q
IV
1-2
pb)
Trong diện tích khu nghiên cứu các thành tạo này phát triển rộng
khắp tạo nên bề mặt tương đối bằng phẳng, ngoài ra còn bắt gặp các trầm
tích của hệ tầng này trong các lỗ khoan sâu từ 1,2-49,9m. Các tài liệu khảo
sát và khoan đào đều xác nhận có hai tầng cát ( Cát vàng và cát trắng )
hoàn toàn khác nhau và được chia thành hai phụ hệ tầng sau:
Phụ hệ tầng dưới ( Q
IV
1-2
pb
1
)
Các trầm tích phụ hệ tần bao gồm các trầm tích tướng sông (a), sông

biển(am) và sông biển đầm lầy (amb), chúng tạo nên tầng cát vàng lẫn tạp
chất hữu cơ.
- Trầm tích sông ( aQ
IV
1-2
pb
1
): gặp trong các lỗ khoan. Quan sát
mặt cắt các lỗ khoan thấy từ dưới lên gồm 2 lớp:
+ Lớp 1: Sạn sỏi cuội lẫn bột cát màu xám- xám đen. Sạn sỏi cuội
52,58-81,15%; bột 10,4-25,8%; cát 8,45-24,9%. Thành phần hạt thô chủ
yếu là thạch anh, Silic, khoáng vật (%): thạch anh 94-99%., mảnh đá 1-5%.
Lớp này phủ trên trầm tích sông-biển-đầm lầy của hệ tầng Phú Xuân.
+ Lớp 2: Cát sạn sỏi cuội lãn bột cát màu xám, xám đen, cát
25,4-49,85%; sạn sỏi cuội 18,35-41%: bột 15,6-29,15%; sét 0-3,4%. Thành
phần khoáng vật cấp hạt 0,1-0,25mm (%) thạch anh 90-97; felspat 1-2;
mảnh đá 1-6; turmalin 0-1. Phủ lên trên là các trầm tích sông biển cùng
tuổi.
Trầm tích sông biển ( amQ
IV
1-2
pb
1
):
Bằng các công trình khoan khai đào bắt gặp các thành tạo này ở độ
sâu ( 10-18,8m)
12
Mặt cắt LK1 ( 18,8-10m) trầm tích gồm bột cát lẫn sét xám xanh,
xám nâu, nâu nhạt,. Thành phần bột 45,7-65,2%; cát 28,2-48,65%; sét
0-75%. Md: 0,093-0,099; So: 1,18-1,23; Ro: 0,66-0,74; Sf0,77-0,8. Thành

phần khoáng vật cấp hạt 0,1-0,25mm(%): thạch anh 83-100; felspat 1-10:
mảnh đá + mica 1-10
Trầm tích sông biển đầm lầy ( ambQ
IV
1-2
pb
1
):
Trên mặt cắt LK1 các thành tạo sông biển cùng tuổi. Vật liệu trầm
tích là cát bột lẫn mùn thực vật màu xám , xám sẫm , xám đen, lẫn vỏ sò
hến và di tích thực vật đã phân hủy : Bột 41,2-71,4%; sét 23-51,6%; Cát
2,2-15,3%. Md: 0,011-0,059; so: 2,1-4,6%; Sk: 0,45-1,5; Ro: 0,67-0,74%;
Sf: 0,8-0,83. Thành phần khoáng vật sét (%) hydromica: 17-25%; kaolinit
8-20%; clorit 5-10%. Bề dày tầng trầm tích 4.5m.
Phụ hệ tầng trên (Q
IV
1-2
pb
2
):
Các trầm tích phân hệ tầng trên được thành tạo trong kỳ biến tiến
Flandrian, có điện phân bố rộng rãi trong khu mỏ gồm 3 nguồn gốc : biển
sông ( ma ), biển gió (mv).
Trầm tích biển ( maQ
IV
1-2
pb
2
):
Đây là đối tượng nghiên cứu chính, các thành tạo này được hình

thành trong chu kỳ biến tiến Flandrian. Trong khu mỏ các thành tạo này
phân bố thành những cồn cát không liên tục trên địa hình nổi cao ( 6-10m)
không bằng phẳng , thành phần đặc trưng là cát thạch anh hạt trung, hạt thô
màu trắng, xám trắng độ chọn lọc và mài tròn tốt. Kết quả phân tích 30
mẫu cát cho thấy : cỡ hạt 2-0,8mm = 11,84%, cỡ hạt 0.8-0.315mm =
35.11%, cỡ hạt 0.315-0.1mm= 48.07%, cỡ hạt <0.1mm chiếm 4.88%. Md:
0.44; So: 1.57-1.68; Sk: 0.77-0.8; Ro: 0.66-0.71; Sf: 0.8-0.826. Thành phần
hóa học (%) SiO2: 97086%; Fe2O3 + FeO: 0.86%; Al2O3: 0.27%. Bề dày
tầng cát thay đổi từ 0.5-7m, có chỗ đạt 8-9m.
Mặt cắt các công trình khoan khai đào trong khu mỏ đều thấy tầng
cát chia làm 3 lớp từ trên xuống như sau:
+ Lớp 1 ( lớp phủ ): Cát thạch anh màu trắng, có lẫn tạp chất hữu cơ,
cỡ hạt đồng đều dày 0.2-0.3m.
13
+ Lớp 2: Cát thạch anh màu trắng, xám trắng, thành phần cỡ hạt rất
đồng đều, dày 0.5-7m.
+ Lớp 3: Cát hạt nhỏ lẫn bùn sét màu đen.
Trầm tích biển gió ( mvQ
IV
1-2
pb
2
):
Trầm tích biển gió phân bố thành những cồn cát không liên tục trên
trầm tích biển cùng tuổi. Đặc trưng là cá thạch anh hạt trung , hạt thô, màu
trắng, độ chọn lọc và mài tròn tốt. Thành phần độ hạt (%) cát 92.75-94.3%;
sạn 3.3-4.5%; bột 2.4-2.75%; Md: 0.41-0.44; So: 1.33-1.36; Sk: 0.81-0.88:
Ro: 0.7-0.73; Sf: 0.796-0.8. Thành phần hóa học (%) SiO2: 97-86%;
Fe2O3: 0.06%; FeO: 0.86% ; Al2O3: 0.00; CaO: 0.27. Bề dày trầm tích
một vài mét đến hàng chục mét.

Holocen trung - thượng
Hệ tầng Phú Vang (Q
IV
2-3
pv)
Trong diện tích khu tìm kiếm thấy lộ ra các trầm tích tướng sông, sông
- biển, sông - biển - đầm lầy, biển – sông thuộc phụ hệ tầng dưới và các
tướng sông biển đầm lầy – phân hệ tầng dưới hệ tầng Phú vang.
- Trầm tích sông (aQ
IV
2-3
pv)
Các thành tạo trầm tích sông phân bố phía tây nam khu tìm kiếm, đây
là các bãi bồi ven sông Ô Lâu có độ cao 2-3m. Mặt cắt các bãi bồi gồm 2
lớp:
+ Lớp 1: thành phần chủ yếu là cát bột lẫn sạn màu vàng, vàng nâu, có
thấu kính sạn sỏi thạch anh, silic (ở độ sâu 2,1-2m). Thành phần độ hạt: cát:
60,4%, bột: 30,95%, sạn sỏi: 6,7%; sét: 2,5%. Hệ số độ hạt Md: 0,085%,
S
0
: 1,87%, Sf: 0,789, R
0
: 0,69%. Thành phần cấp hạt 0,1 – 0,25: thạch anh:
98%, vụn, đá: 2%.
- Trầm tích sóng - biển (amQ
IV
2-3
pv
1
):

Diện lộ của trầm tích này phân bố phía Tây Nam khu mỏ, chúng tạo
nên bề mặt địa hình bằng phẳng cao 2-3m. Mặt cắt từ dưới lên gồm 2 lớp:
+ Lớp 1: sét bột, bột sét pha cát hạt mịn sát đáy là lớp cát, cát bột
mỏng màu xám xanh, xanh đen, lẫn vỏ sò ốc. Sét 44,2%, bột 33-50%, cát
14
1,66-5,5%, µd: 0,0058-0,014. Thành phần khoáng vật sét (%) hydromica
20-25%, kaolinit 15-20%, clorit 10%, monmorilonit 1-8%. Bề dày lớp
2,5m.
+ Lớp 2: Sét bột, bột cát pha sét màu xám đen, lẫn di tích thực vật
đang phân huỷ, vỏ sò ốc. Bột 44,26%-66,9%, cát 31,25-49,25, sét 0-10,7%,
µd: 0,091-0,09, So: 1,2-1,42, Sk: 0,82-1,26; Ro: 0,65-0,75. Dày lớp 3m.
- Trầm tích sóng - biển - đầm lầy (ambQ
IV
2-3
pv
1
)
Các trầm tích này được thành tạo trong các bàu, trầm nằm giữa các dải
cát tạo nên địa hình tương phản. Theo các tài liệu tìm kiếm than bùn trong
các bàu và trầm thì mặt cắt sông - biển - đầm lầy từ dưới lên gồm 2 lớp:
+Lớp 1: Phủ trực tiếp trên tầng cát hệ tầng Phú Bài là than bùn màu
đen, nâu đên gồm thân, rễ, lá thực vật đã và đang phân huỷ. Đây là tầng
than bùn công nghiệp dày 2-4,2cm.
+ Lớp 2: Cát lẫn than bùn và rễ cây còn tươi, màu xám, xám đen. Dày
0,5m
Trầm tích biển-song-đầm lầy (mab
IV
2-3
pv): Phân bố dọc theo hai bên bờ
của phá Tam Giang và đầm Thanh lam, phần lớn diện tích thường xuyên

ngập nước, mặt cắt đặc trưng là cát hạt mịn lẫn ít bột xám đen, bở rời phần
trên lẫn di tích thực vật cát 80,05%, bột 18,35%, sạn 1,6%. Md0,17%,
So:1,68%, Sk 1,13; R
0
0,706; SF: 0,798… chứa bào tử phấn hoa: Pteris,
Cyathea sp, Morus dày 2,8m.
III.1.2 Kiến tạo
Vùng nghiên cứu là một dải đồng bằng hẹp kéo dài theo bờ biển và
nằm ở rìa của đới cấu trúc Long Đại. Trên cơ sỏ phân tích thành phần
tướng đá của các phân vị địa tầng, tính chất các hoạt động kiến taojm
magma, các thời kỳ gián đoạn trầm tích ở vùng nghiên cứu và các diện tích
kế cận, chia cấu trúc vỏ trái đất vùng nghiên cứu thành tầng cấu trúc
Paleozoi và lớp phủ Đệ tứ.
III.1.2.1 Tầng cấu trúc Paleozoi.
Tầng cấu trúc này bao gồm các thành tạo trầm tích của hệ tầng Long
Đại ( O-S1ld), phân bố ở rìa phía Tây Nam và Nam diện tích khảo sát.
15
III.1.2.2 Lớp phủ Đệ Tứ.
Cấu thành nên lớp phủ đệ Tứ là các thành tạo gắn kết yếu hoặc bờ
rời tuổi Đệ Tứ. Chúng gồm các trầm tích đa nguồn gốc với bề dày 10
-500m.
III.1.3 Địa mạo.
Các kết quả khảo sát thực tế cho thấy trên phạm vi diện tích tìm kiếm
chỉ có mặt kiểu địa hình tích tụ, bao gồm các phụ kiểu địa hình sau:
Bãi bồi ( Aluvi)
Các bãi bồi ( giữa lòng và ven sông) là những thành tạo aluvi mới,
phân bố dọc theo sông Ô Lâu. Vật liệu thành tạo bãi bồi là cuội, sạn, cát,
bột sét màu xám nâu, xám vàng có tuổi Holocen sớm-giữa (Q
IV
2-3

pv). Hiện
tại các bãi bồi được sử dụng làm đất canh tác cây lương thực và hoa màu.
Thềm sông bậc 1: Chiếm một phần diện tích nhỏ ven sông Ô Lâu.
Cấu thành thềm bậc 1 là các trầm tích sông của phụ hệ tầng dưới – hệ tầng
Phú Bài(aQ
1-2
IV
pb). Thành phần trầm tích gồm bột, cát màu nâu vàng, nâu
xám dày 0,5-20, phần dưới là cuội, sỏi, cát hạt thôi dày 2-4m.
Địa hình tích tụ sông biển – đầm lầy: Phụ địa hình này phân bố ở
các bàu, trăm. Chúng tạo thành các dải hẹp kéo dài phương Tây Bắc- Đông
Nam, Đông Nam. Vật liệu tạo nên địa hình là cát thạch anh lẫn mùn màu
xám đen, than bùn màu nâu đen được xếp vào phần thấp cảu hệ tầng Phú
Vang (ambQ
2-3
IV
pv
1
).
Địa hình tích tụ biển – sông – đầm lầy hiện đại:
Đây là bề mặt tích tụ có tuổi trẻ và đang được thành tạo do sự ảnh
hưởng của sông biển. Phụ kiểu địa hình này phân bố ở hai bờ phía Tam
Giang. Vật liệu trầm tích chủ yếu là cát, bột. sét lẫn mùn thực vật. Do ảnh
hưởng của thủy triều, bề mặt của địa hình thường bị ngập nước.
Địa hình tích tụ biển gió.
Bao gồm các cồn cát hiện đại và cồn cát cổ. Các cồn cát hiện đại
phân bố dọc theo bờ biển theo phương Tây Bắc – Đông Nam. Độ cao bề
mặt cồn cát từ 10 -15 m. Các cồn cát thường có sườn thoải về phía biển và
sườn dốc về phía đất liền. Trên bề mặt của cồn cát không có lớp phủ thực
16

vật, các cồn cát đang có xu hướng lấn vào đất liền. Các cồn cát cổ thường
là những cồn cát nhỏ nằm trên bề mặt thềm biển bậc 1 độ cao 8- 12m,
thành phần là cát thạch anh hạt nhỏ, màu trắng.
Địa hình tích tụ biển- sông
Địa hình tích tụ biển sông phân bố thành những khoảng nhỏ ven rìa
phía Tây Bắc. diện tích, độ cao của bề mặt địa hình này từ 3-4m. Vật liệu
tạo nên chúng là cát, sét pha cát màu xám vàng của hệ tầng Phú Bài. Bề
mặt địa hình khá bằng phẳng, chúng được sử dụng làm đất canh tác.
Thềm biển bậc 1:
Thềm biển bậc 1 chiếm diện tích chủ yếu trong vùng khảo sát. Cấu
thành nên chúng là trầm tích biển của phân hệ tầng trên hệ Phú Bài ( Q
1-2
IV
pb
2
) đượ hình thành trong chu kỳ biển tiến Flandrian. Thành phần chủ yếu
là cát thạch anh màu trắng, chiều dày 1-7m. Bề mặt của địa hình chủ yếu là
bỏ hoang, một số nơi trồng cây chắn gió và cây công nghiệp ( lạc, đỗ)
Thềm biển bậc 2.
Thềm biển bậc 2 thành tạo những gò thoải nhỏ phân bố rải rác ở phía
Nam diệc tích nghiên cứu. Chúng được tạo nên từ các trầm tích biển hệ
tầng Phú Xuân. Thành phần chủ yếu là cát, cát bột lẫn ít sạn thạch anh màu
vàng nghệ. Trên địa hình này cây cối rất kém phát triển, nhiều nơi nhân
dân dùng để xây dựng bãi nghĩa địa hoặc khai thác cát để lấy mặt bằng xây
dựng.
III.1.4 Khoáng sản.
III.1.4.1 Cát thạch anh
Cát thạch anh phân bố trong trầm tích phụ hệ tầng trên hệ tầng Phú
Bài ( Q
1-2

IV
pb
2
), tạo thành thềm biển bậc 1 với những cồn cát nổi cao
không liên tục trên địa hình từ 7-10m, chúng bị các dòng chảy trên mặt
phân cắt tạo thành các dải phân cách nhau bởi các trằm, bàu. Thành phần
khoáng vật chủ yếu là cát thạch anh hạt trung và thô, độ lựa chọn và mài
tròn tốt.
Chất lượng cát thạch anh trong vùng đáp ứng được các yêu cầu cho
công nghiệp thủy tinh, đồ gốm…
17
III.1.4.2 Than bùn.
Trong khu vực nghiên cứu đã phát hiện 6 dải than bùn phân bố dọc
theo các bàu trong đó có giá trị có thể đề cập 4 bàu gồm:
- Thân than bùn Đức Tích – Triều Dương
- Thân than bùn Trần Thiềm
- Thân than bùn Bầu Tròn
- Thân than bùn Bách Thạch
Thân than bùn có độ phân hủy cao, thành phần đa lượng và axit hu
mimic tương đối cao, có thể thăm dò khai thác chế biến phân sinh học.
III.2 Đặc điểm phân bố của cát – thạch anh vùng Phong Điền
III.2.1 Hình thái và qui mô các dải cát
- Dải cát trắng phía Bắc: Nằm ở phía Bắc- Đông Bắc Trằm Thiền
- Dải cát trắng trung tâm: Giới hạn giữa Trằm Thiền và Trằm Ban.
- Dải cát trắng phía Nam: Nằm ở phía Nam – Tây Nam Trằm Ban.
1. Dải cát trắng phía Bắc.
Dải cát này nằm ở phía Bắc. Tây Bắc diện tích tìm kiếm. Chiều rộng
dải cát biến đổi mạnh, chỗ rộng nhất ở tuyến III và tuyến VI (
km3


), chỗ
hẹp nhất là đoạn từ tuyến XI dến tuyên XIII ( 300km). Ở phần diện tích
Tây Bắc (từ tuyến II đến tuyến VIII) dải khoảng bị chia cắt thành nhiều
thân khoáng bởi các trầm bị ngập nước: Trằm Bàu Bàng, Trằm Bàng,
Trằm Lương Mai I, Trằm Lương Mai II, phía Tây Nam bị chia cắt bởi
Trằm Bàu Đen. Chiều rộng trung bình của dải khoảng 1000m.
Chiều dày tầng cát thạch anh màu trắng trong dải không đồng đều,
có xu hướng chung là giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và có quan
hệ tỷ lệ thuận với độ cao bề mặt địa hình: Từ tuyến VII về phía Đông Bắc,
chiều dày trung bình tầng cát trắng là 3,2m; từ tuyến VII về phía Đông
Nam, bề dày này là 1,2m. Theo hướng vông góc với phương kéo dài của
dải, bề dầy tầng cát trắng giảm dần từ Tây Nam xuống Đông Bắc, ở những
cồn cát cao, chiều dầy tầng cát trắng lớn.
Trong phạm vi dải này có một diện tích khoảng 2km
2
nằm sát phía
Bắc Trằm Thiên, kéo dài từ giữa tuyến VII và tuyến VIII đến giữa tuyến X
18
và tuyến XI, bề dầy tầng sản phẩm <0,5m, không đạt yêu cầu công nghiệp;
ngoài ra còn có 1 diện tích 1km
2
nằm bẹp giữa Trằm Bàu Bàng và Trằm
Bàng, giới hạn từ tuyến IV vè phía Tây Bắc là khu nghĩa địa cũng không
được tham gia tính trữ lượng.
Mặt cắt của địa tầng chứa cát thạch anh màu trắn trong dải này gồm
các lớp ( từ trên xuống).
- Lớp 1: Cát màu trắng xám lẫn mùn thực vật - dày 0,2-0,3m.
- Lớp 2: Cát màu trắng, hạt rất đồng ddeuf, bề dày 1-3,5m ( tầng
sản phẩm)
- Lớp 3: Cát hạt nhỏ lẫn mùn, sét màu đen, xám đen.

- Trên cơ sở các chỉ tiêu khoanh nối thân cát (chiều dày, chất
lượng, không phải khu dân cư, bãi tha ma…) chúng tôi chia dải
này ra làm 4 thân: Ia, Ib, Ic,và Id.
2. Dải cát trắng trung tâm.
Dải cát trắng trung tâm nằm ở trung tâm. Chiều dày dải khoảng hóa
khoảng 12,5 km. ( từ tuyến II đến giữa tuyến XIV và tuyến XVI).
Chiều rộng của dải tương đối ổn định trong khoảng từ tuyến II đến
tuyến VI, từ tuyến VI đến đầu nam dải bị thu hẹp. Trong khoảng từ tuyến II
đến tuyến VI chiều rộng dài
km2

, đoạn còn lại chiều rộng dải khoảng
300-500m.
Ở phần diện tích phía Tây Bắc, dải bị chia cắt thành nhiều diện tích
nhỏ bởi các bầu, trằm, Trằm Thôn Niên, Trằm Cồn Tiên.
Chiều dày tầng sản phẩm giảm theo hướng Tây Bắc đến Đông Nam
( theo phương kéo dài của dải) và hướng từ Trằm Thiền đến Trằm Ban
( theo hướng Đông Bắc – Tây Nam); Phía Tây Bắc của dải, từ tuyến II đến
tuyến VI, chiều dày trung bình là 3,3m, từ tuyến VI đến tuyến XV chiều
dày trung bình là 1m. Ở cồn cát sát Trằm Thiền chiều dày trung bình tầng
sản phẩm là 4,5m; xuống sát Trằm Ban chỉ còn 2,2m. Mặt cắt địa tầng chứa
sản phầm trong dải cũng gồm 3 lớp giống như ở dải phía Bắc.
Dải cát trung tâm chia làm 2 thân:IIa và Iib
19
3. Dải cát trắng phía Nam.
Dải cát này kéo dài theo dạng gắn vòng cung: từ tuyến II đến tuyến
VIII theo phương Tây Bắc – Đông Nam; từ tuyến VIII đến tuyến XVI theo
hướng gần Tây – Đông. Chiều dài dải cắt khoảng 15km, chiều rộng trung
bình khoảng 1-2km.
Bề dày tầng sản phẩm trong dải tương đối nhỏ: Dày nhất ở khoảng từ

tuyến VI đến tuyến IV ( 2m) những phần còn lại có chiều dày > 0,5 -1,5m.
Bề dày này cũng giảm dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.
Mặt cắt địa tầng chứa sản phẩm cũng giống như ở các dải cát đã mô
tả trên những bè dày tầng sản phẩm nhỏ hơn.
Cát thạch anh ở cả 3 dải nêu trên đều đảm bảo các chỉ tiêu chất
lượng để sản xuất thủy tinh, gốm sứ, và gạch dinat. ( xem thêm ở phần chất
lượng cát).
III.2.2. Đặc điểm phân bố của cát thạch anh vùng Phong Điền.
1. Các thân cát thạch anh vùng Phong Điền nằm trên thềm biển bậc I
được hình thành trong chu kỳ biển tiến Flandrian. Đây là chu kỳ biển tiến
mang tính toàn cầu. Chu kỳ biển tiến này tạo nên tầng trầm tích hệ tầng
Phú Bài ( Q
1-2
IV
pb
2
) với thành phần đặc trưng là cát thạch anh, với diện tích
bao phủ đều khắp khu vực nghiên cứu. Kết thúc quá trình biển tiến, là chu
kỳ biển lùi vào Holocen giữa. Kết quả để lại trong vùng một hệ thống hố,
đầm lầy ( bàu, trằm) kéo dài, sắp xếp song song với đường bờ biển, chúng
phân chia bề mặt thềm biến thành các dải cát nằm song song với nhau theo
phương Tây Bắc- Đông Nam. Trong phạm vi các bàu trằm, hoạt động của
dòng chảy đã khoét sâu hết chiều dày tầng sản phẩm ( cát trắng) ở nhiều
nơi, thay vào đó là các tích tụ than bùn.
2. Chiều dày phần cát thạch anh phụ thuộc vào độ cao địa hình và
chênh cao giữa mặt địa hình với mặt nước các trằm, bàu.
+ Ở những nơi địa hình bãi cát nồi cao, chiều dày tầng cát trắng lớn
hơn ở những nơi địa hình trũng.
3. Chiều dày tầng cát trắng phụ thuộc vào chiều sâu của mực nước ngầm.
20

Quan sát tất cả các lỗ khoan qua tầng cát trắng từ 4-6m chúng tôi đều
thấy có các lớp ( từ trên xuống):
- Lớp 1: Cát màu trắng sáng lẫn mùn thực vật
- Lớp 2: Cát màu trắng sạch hạt trung bình.
- Lớp 3: Cát màu trắng bị nhuốm keo hữu cơ có màu nâu, nâu đen.
- Lớp 4: Cát hạt trung bình và thô bở rời nằm xen kẽ giữa các lớp
cát hạt nhỏ bị gắn kết bởi keo hữu cơ thành lớp mỏng 2-3cm,
cứng chắc.
Chiều dày của lớp 4 từ 4- 5m( nhân dân địa phương gọi là lớp
“chai” ). Lớp 4 chính là đáy của tầng cát trắng và là lớp cách nước ngăn
cách tầng nước ngầm nông( nước lưu thông theo chiều ngang) và đới nước
tĩnh phía dưới.
Ở đới nước ngầm tĩnh nước trong , không màu, không vị, có mùi hôi,
còn ở tầng nước ngầm nông nước có màu nâu, nâu đen do hòa tan các keo
hữu cơ từ các trằm than bùn.
Do khả năng lưu thông nước tốt của tầng cát nên mực nước ngầm lưu
thông trong vùng khá đồng đều, bề mặt mực nước ngàm bằng hoặc cao hơn
chút ít so với mặt nước các trăm, bàu. Phần cát nằm trong phạm vi lưu
thông của tầng nước ngầm này đều bị nhuốm màu của keo hữu cơ nên có
mày nâu, màu đen. Tuy nhiên, do lượng keo hữu cơ trong nước ngầm giảm
dần khi ra xa các trăm tham nên chiều dày lớp cát trong sạch càng xa các
trằm than bùn càng tăng lên còn ở gần các trằm than bùn, chỉ cần khoan tới
mực nước ngầm nông là đã hết cát thạch anh trắng sạch.
4. Trên sơ đồ đẳng suất liều gamma dễ dàng nhận thấy trường bức xạ
gamma của khu vực Phong Điền Thừa Thiên Huế rất thấp, giá trị suất liều
gamma biến thiên trong khoảng không lớn lắm
I
γ
~1,5÷1,6
R / hµ

; giá trị
trung bình
I
γ
~
R / hµ
. Đây là giá trị hiệu suất liều gamma của các loại cát
sạch ven biển không chứa các khoáng vật nặng cộng sinh đồng hành với
các chất phóng xạ.
21
Phân tích tổng hợp các yếu tố của trường gamma và cấu trúc địa chất
có thể khẳng định lớp bề mặt các hệ tầng cát biển của vùng nghiên cứu có
thành phần tương đối sạch không có chứa các khoáng vật năng như Zincon,
Rutin, Inmenit cộng sinh đồng hành với các chất phóng xạ. Một vài diện
tích tại các trầm và đường giao thông có 1 tương đối cao hơn các khu vực
khác (I
γ

>3µR/h). Đó là do có sự tích tụ sét với hàm lượng rất nhỏ tại địa
hình trũng của trầm và thành phần sét của đất đắp đường có hoạt do phóng
xạ cao hơn so với cát tinh khiết.
Chính vì các biển tương đối tinh khiết không chứa các khoáng vật
nặng liên quan với các chất phóng xạ mà liều tương đương bức xạ gamma
của toàn bộ diện tích vùng nghiên cứu có giá trị rất thấp. Tuyệt đại bộ phận
khu vực khảo sát (chiếm > 90% diện tích) có liều tương đương bức xạ
gamma H <0,05mSv/nam. Chỉ khoảng ~1% diện tích có H >0,1 mSv/năm
(tại vị trí các tràm và đường giao thông kể trên). Toàn bộ diện tích khu vực
Phong Điền - Thừa Thiên Huế đã khảo sát đều có giá trị liều tương đuowng
bức xạ thấp hơn 10 lần so với tiêu chuẩn an toàn phóng xạ cho phép đối với
dân thường (liều tương đuơng bức xạ giới hạn H > 1mSv/năm – xem Nghị

định Chính phủ N
0
50/1998/NĐ-CP ban hành năm 1998.
Từ đó có thể kết luận các lớp bề mặt của hệ tầng cát biển, nhất là cát
thuộc hệ tầng Phú Bài không chứa các khoáng vật nặng như Zircon, Rutin,
Inmenit. Khi khai thác sử dụng không gây ra sự tác động về bức xạ có hại
cho môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
III.3. Chất lượng và trữ lượng các thân cát vùng Phong Điền (Diện tích
tìm kiếm).
III.3.1 Quy mô các thân cát:
Trên cơ sở đặc điểm phân bố của các dải cát, chiều dày thân khoáng
(>0,5m), tính đồng nhất của thân khoáng về chất lượng, trong đó sự không
có mặt của các khoáng vật nặng trong tầm sản phẩm, cũng như những khu
vực không ảnh hưởng đến dân cư, di chuyển bãi tha ma và các công trình
khác chúng tôi xác định được tại khu vực đó vẽ địa chất tỷ lệ 1:25.000 (ứng
22
với diện tích 135 km
2
), có 8 thân cát (diện tích 42,6km
2
), đạt tiêu chuẩn
công nghiệp, để tiếp tục đưa vào thăm dò, quy hoạch khai thác.
Dải phía bắc
Thân cát Ia:
Thân khoáng được giới hạn ở phía Đông Bắc trằm Bàu Bảng và phía
Tây Nam các xã Phong Chương, Trung Thành (huyện Phong Điền). Chiều
dài thân khoáng 5,5km, chiều rộng thân khoáng không ổn định, đoạn rộng
nhất trên tuyến VI: 1100km. Chiều dày thân khoáng lớn nhất ở lỗ khoan
KT6-TV: 5,5m, chiều dày trung bình 3,2m và giảm dần về phía bờ các
trằm. Trong phạm vi thân khoáng cát thạch anh phân bố đồng nhất.

Thân cát Ib:
Thân khoáng này là dải cát nằm kẹp giữa hai nhánh của trằm Lương
Mai, có chiều dài 2700m, rộng trung bình 150m. Bề dày trung bình 1,2m
Thân cát Ic:
Là dải cát chạy dài theo phương Tây Bắc – Đông Nam trùng hướng
phát triển của trằm Thiêm. Thân khoáng số II có chiều dài ≈ 14km (từ
tuyến II đến tuyến XVI). Thân khoáng có hình dạng phức tạp.
Đoạn mở rộng (từ tuyến số II đến tuyến VII), chiều rộng lớn nhất đạt
hơn 1000m). chiều dày ở lỗ khoan KT3 đạt 4,7m
Đoạn hẹp hơn (giữa tuyến X đến tuyến XVI) chỗ hẹp nhất là 200m,
chiều rộng thân khoáng lớn nhất ở tuyến XIII đạt 700m, chiều sâu tầng sản
phẩm >1,4m.
Nói chung chiều dày thân cát biến đổi có quy luật, giảm dần theo
hướng từ Đông Bắc xuống Tây Nam và từ trung tâm thân khoáng ra phía
bờ trằm, chiều dày trung bình 2,36m. Trong phạm vi thân khoáng cát thạch
anh phân bố đồng đều.
Thân cát Id:
Nằm về phía Đông Bắc xã Quảng Phước, kẹp giữa các nhánh của Bàu
Niêm, ranh giới thân khoáng lồi lóm không đều do Bàu Niêm lấn vào thân
cát. Thân cát có chiều dài khoảng 4km, chỗ rộng nhất đạt trên 1000m, chỗ
23
hẹp chỉ khoảng 200m, chiều dài tăng sản phẩm trung bình 1,3m. Bề mặt
thân khoáng bỏ hoang. Trong thân cát thạch anh phân bố đồng đều.
Dải trung tâm
Thấn cát Ia:
Là dải cát chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, từ tuyến II đến giữa
tuyến XI và tuyến XII, dài 9,5km. Chiều rộng thân khoáng có xu hướng
tăng dần từ Tây bắc về phía Đông Nam, chỗ hẹp nhất là 300m, chỗ rộng
nhất 1700m. Chiều dày thân cát biến đổi có xu hướng ngược lại nghĩa là
tăng dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Phần từ tuyến VII đến tuyến XI thân

khoáng có chiều dày tần sản phẩm nhỏ hơn, ở gần các trằm (trằm thôn
Niêm, trằm Thiềm) chiều dày chỉ đạt 0,3 – 0,7m. Trên bề mặt thân khoáng,
đoạn từ tuyến VI đến tuyến V có trồng keo lá tràm, phần còn lại bỏ hoang.
Cát thạch anh phân bố đồng đều trong tấng sản phẩm.
Thân cát Ib:
Thân khoáng Iib nằm giữa trằm thôn Niêm và trằm Ban. Chiều dài
thân khoáng 6km, đoạn từ tuyến II về phía Tây Bắc là bãi nghĩa địa do vạy
không khoanh vào thân khoáng, phần phía Tây Nam là dân cư ở nên cũng
không đưa vào thân khoáng.
Thân khoáng có dạng niêm, đoạn có chiều rộng lớn nhất đạt 1400m, là
đoạn từ giữa tuyến VI về phía Tây Bắc. Từ giữa tuyến V và tuyến VI đến
tuyến VII thân khoáng bị thu hẹp do đây là khu dân cư xóm Đức Tích và
Phú An. Trên bề mặt địa hình thân khoáng, từ tuyến V đến tuyến VII có
trồng cây chắn cát, phần còn lại bỏ hoang.
Cát thạch anh phân bố đồng đều trong tầng sản phẩm
Thân cát IIb:
Thân khoáng IIb nằm giữa trằm thôn Niêm và trằm Ban. Chiều dài
thân khoáng 6km, đoạn từ tuyến II về phía Tây bắc là bãi nghĩa địa do vậy
không khoanh vào thân khoang, phần phía tây nam là dân cư ở nên cũng
không đưa vào thân khoáng.
24
Thân khoáng có dạng nem, đoạn có chiều rộng lớn nhất đạt 1400m, là
đoạn từ giữa tuyến VI về phía Tây Bắc. Từ giữa tuyến V và tuyến VI đến
tuyến VII thân khoáng bị thu hẹp do đây là khu dân cư xóm Đức Tích và
Phú An. Trên bề mặt địa hình thân khoáng, từ tuyến V đến tuyến VII có
trồng cây chắn cát, phần còn bỏ hoang.
Chiều dày tầng sản phẩm tăng dần lên từ tuyến VII về tuyến II. Đoạn
từ tuyến VI đến tuyến VII địa hình thấp, đây là bề mặt canh tác nông
nghiệp của nhân văn trong vùng, bề mặt tầng cát trắng chỉ từ 0,5-0,7m. Về
phía tuyến VI, tuyến III bề dày cát có cho đến 5m. Bề dày trung bình của

cát trắng là 2,9m.
Dải phía nam
Thân cát III a:
Kéo dài từ tuyến II (Phong Hòa) đến giữa tuyến XIV và XV (bắc
Triều Vịnh) dài khoảng 12 km.
Chiều rộng thân khoáng cũng thay đổi phức tạp, không có quy luật,
đoạn hẹp nhất khoảng 100m, còn đoạn rộng nhất 2000m.
Chiều dày cũng biến đổi phức tạp, dày nhất tại lỗ khoan KT
1
(tuyến
XII) đạt 5m còn lại các lỗ khoan mỏng đạt 1-3m, trung bình 2,41m.
Thân cát IIIb.
Thân khoáng nằm phía Đông Nam là thân khoáng có diện tích nhỏ, là
một cồn cát được thành tạo do gió nên chiều sâu tầng sản phẩm khá lớn,
chiều dài thân khoáng >2km, rộng thay đổi từ 300 – 800m, chiều dày là
1,2m. Hiện tại bề mặt thân khoáng bỏ hoang. Trong thân khoáng cát thạch
anh phân bố đồng đều.
III.3.2. Chất lượng các thân cát:
III.3.2.1. Thành phần độ hạt
Các mẫu phân tích độ hạt được lấy hệ thống trên các than. Để xác định
chất lượng cát theo thành phần độ hạt, đã tiến hành phân tích các cờ hạt
theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng theo các lĩnh vực khác nhau. Kết quả
độ hạt theo các thân xem ở bảng III.3.
25

×