Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa - Thực trạng và nhận xét, kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.02 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
KHOA LUẬT

MƠN: Luật Hành chính 2
TIỂU LUẬN: Pháp luật Việt Nam về quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực văn hóa – Thực trạng và nhận xét, kiến nghị.

Họ và tên: Trần Thu Phương
Mã số sinh viên: 3120430130
Lớp: DLU1201
Phịng thi: 004
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................1
4. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................1
5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................3
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA.....................................................3
1.1. Khái niệm và vai trị của văn hóa.................................................................3
1.1.1. Khái niệm văn hóa...................................................................................3
1.1.2. Vai trị của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội...........................3
1.2. Khái niệm và phương thức quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa.....4
1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa..........................4
1.2.2. Phương thức quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa......................5
1.3. Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về văn hóa....................................6


1.3.1. Quản lý Nhà nước về văn hóa nghệ thuật.............................................6
1.3.2. Quản lý Nhà nước về văn hóa – xã hội..................................................7
1.3.3. Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa......................................................8
1.4. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa...............................10
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ............................12
2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa..................................................12
2.2. Kiến nghị hồn thiện đối với các vấn đề bất cập.......................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................17


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa của pháp luật Việt Nam là một
vấn đề khá rộng. Có nhiều văn bản pháp luật được ban hành để thi hành, điều chỉnh
trong lĩnh vực này, bên cạnh một số mặt tích cực khi hệ thống pháp luật ngày càng
chặt chẽ, tiến bộ giúp cho việc quản lý dễ dàng, minh bạch hơn thì cũng cịn một số
vấn đề mà pháp luật còn chưa chạm tới để giải quyết triệt để được. Văn hóa cũng là
một vấn đề hấp dẫn và đa dạng bao gồm nhiều mảng, nó mang lại nhiều giá trị vật
chất và tinh thần cho dân tộc Việt Nam. Việc tìm hiểu pháp luật về quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực văn hóa sẽ giúp nhận thức rõ và làm đúng, góp phần phát triển
văn hóa dân tộc. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực văn hóa – Thực trạng và nhận xét, kiến nghị” làm đề tài tiểu
luận.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu và nhiệm vụ được đưa ra trong bài tiểu luận này chính là làm rõ được
các mặt của quản lý Nhà nước về lĩnh vực văn hóa trên phương diện lý luận. Từ đó
xem xét trên thực trạng các vấn đề còn vướng mắc, cần được giải quyết và đưa ra
các kiến nghị phù hợp để giải quyết các vấn đề đó.
3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong bài tiểu luận là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực
văn

1


hóa của pháp luật Việt Nam, cụ thể là các mặt như văn hóa nghệ thuật, văn hóa xã
hội, di sản văn hóa.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý luận đề tài nghiên cứu dựa trên hệ thống pháp luật Việt Nam về quản
lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa với phạm vi điều chỉnh là các vấn đề về văn
hóa diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam. Về mặt thực trạng, nghiên cứu về thực trạng
quản lý nhà nước trong việc khai thác và sử dụng thế mạnh văn hóa của các địa
phương trong giai đoạn ngành cơng nghiệp khơng khói đang phát triển.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp nghiên cứu lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Trong phương pháp nghiên cứu lý
thuyết sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân
loại và hệ thống hóa lý thuyết. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn sử dụng phương
pháp điều tra tìm kiếm, phân tích và tổng kết kinh nghiệm.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA

1.1. Khái niệm và vai trị của văn hóa

1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, khó có thể đưa ra định nghĩa cụ
thể về văn hóa nhưng có thể nói tóm gọn lại văn hóa là hệ thống các giá trị, truyền
thống và thị hiếu là những yếu tố để xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc, qua
thời gian được hình thành bởi tổng thể những hoạt động nhằm phát huy năng lực
bản chất của con người, thể hiện khát vọng vươn tới giá trị chân, thiện, mỹ nhằm
hoàn thiện con người, hồn thiện xã hội.
Văn hóa có tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Con người là sản phẩm
văn hóa, đồng thời là chủ thể tạo ra văn hóa, điều kiện sinh hoạt văn hóa của các
giai cấp khác nhau tạo nên tư tưởng, tình cảm khác nhau sẽ tạo nên tính giai cấp
của văn hóa. Mỗi dân tộc có đặc điểm và lịch sử hình thành khác nhau sẽ tạo nên
một nền văn hóa đặc trưng mang bản sắc của dân tộc đó. Vươn tới cái tốt, cái đẹp

3


là nét chung của văn hóa nhân loại, là cốt lõi tạo nên sự phát triển xã hội loài người,
là bản chất đích thực của văn hóa.
1.1.2. Vai trị của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội
Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Bởi con người là sản
phẩm của văn hóa, những giá trị văn hóa sẽ làm nên những phẩm chất giá trị của
con người. Mà con người chính là lực lượng lao động tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội, quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội. Con người càng phát
triển hiện đại, khoa học kĩ thuật cũng ngày càng được con người phát triển để thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Nhận thức được điều đó, việc nâng cao dân trí và
đầu tư cho giáo dục là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Con người
càng tiến bộ, kinh tế - xã hội càng phát triển thì văn hóa càng chứng tỏ được vai trị
là động lực của mình.
Vai trị là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Nói văn hóa là mục tiêu của
phát triển kinh tế - xã hội vì phát triển kinh tế phải hướng vào phát triển và hoàn

thiện con người, hướng vào phát triển và hồn thiện xã hội. Phải coi văn hóa là mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì mới có thể khắc phục được tình trạng mâu thuẫn
giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Nếu để kinh tế phát triển, đời sống vật
chất được nâng lên nhưng xã hội lại có sự gia tăng các tệ nạn, văn hóa, đạo đức
xuống thấp thì cũng sẽ dẫn đến sự phát triển không bền vững. Cần phải phát triển
song song cả hai mặt, đó mới là yêu cầu của phát triển hiện đại.

1.2. Khái niệm và phương thức quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa
1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa
Quản lý Nhà nước về văn hóa là hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Nhà nước đại
diện cho nhân dân, đảm bảo cho mỗi công dân đều thực hiện các quyền về văn hóa
4


như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền học tập, sáng tác, phê bình
tác phẩm nghệ thuật,… Nhà nước có vai trị rất quan trọng trong việc giải quyết các
mâu thuẫn phát sinh giữa phát triển kinh tế và văn hóa.
Nhà nước thực hiện quản lý bằng cách định hướng cho sự phát triển của nền văn
hóa theo hướng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hướng vào sự
thống nhất tư tưởng, tuyên truyền thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước, tuân thủ Hiến pháp và làm việc đúng pháp luật, tăng cường hoạt động
giáo dục xây dựng đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh.
Chia hoạt động quản lý Nhà nước về văn hóa thành các mảng: quản lý Nhà nước
đối với văn hóa nghệ thuật, quản lý Nhà nước đối với văn hóa xã hội và quản lý
Nhà nước đối với di sản văn hóa.
Các cơ quan có nhiệm vụ, chức năng trong việc quản lý Nhà nước về văn hóa
bao gồm:
- Ở trung ương: Chính phủ thống nhất quản lý và phát triển văn hóa trên phạm
vi

cả nước. Chính phủ có một số quyền hạn: trình dự án luật, pháp luật về hoạt động
văn hóa, quyết định quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển văn hóa, ban hành quyết
định quản lý nhà nước và các chính sách khác về văn hóa. Bên cạnh đó, Bộ văn
hóa, thể thao và du lịch là cơ quan của Chính phủ, trực tiếp thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về văn hóa có nhiệm vụ xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và
các văn bản pháp luật khác về văn hóa theo sự phân cơng của Chính Phủ, ban hành
quyết định, thơng tư, chỉ thị về các hoạt động văn hóa,…
- Ở địa phương: Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương

5


thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, nhận nhiệm vụ thiết chế trực tiếp thực hiện
các hoạt động văn hóa gồm nhiều cơ quan, tổ chức.
1.2.2. Phương thức quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa
Nhà nước tiến hành quản lý văn hóa bằng chính sách và pháp luật về văn hóa.
 Chính sách văn hóa được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng
chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát triển nền văn
hóa. Mục tiêu của chính sách văn hóa là nâng cao nhận thức của tồn Đảng, toàn
dân, của các cấp, các ngành; huy động sức mạnh của toàn xã hội vào sự nghiệp
phát triển văn hóa, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, động lực, là nhân tố
góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ngăn chặn
nguy cơ mai một văn hóa, bảo tồn các di tích; phát huy việc thơng tin với các dân
tộc vùng sâu vùng xa. Và nội dung của chính sách văn hóa phải thể hiện được
những đặc điểm cơ bản sau:
- Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn với hoạt động kinh tế, khai thác
tiềm
năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa đồng thời bảo đảm yêu cầu
chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Chính sách văn hóa trong kinh tế, đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ nét trong

các
hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện nhiều
hơn
cho sự nghiệp phát triển văn hóa.

6


- Phát huy và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, hướng vào văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể.
- Khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa, tăng nguồn đầu tư thích
đáng cho khu vực sáng tạo văn hóa, văn học nghệ thuật, đầu tư cho lực lượng hoạt
động văn hóa chuyên nghiệp và cho các phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng.
- Xây dựng, ban hành chính sách đặc thù, hợp lý, hợp tình cho những đối tượng
xã hội cần được ưu đãi tham gia và hưởng thụ văn hóa.
- Ban hành các chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa. Đa
dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ về văn hóa, nhằm tiếp thu những tinh
hoa, kinh nghiệm phát triển của các nước, ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu
cực.
 Chính sách pháp luật trong quản lý văn hóa là khơng thể thiếu. Pháp luật
đóng
vai trị quan trọng đối với sự phát triển văn hóa. Nhà nước ban hành nhiều văn bản
pháp luật về văn hóa nhằm phát huy những văn hóa chất lượng, tiến bộ, loại bỏ
những hủ tục lạc hậu, kiềm hãm sự phát triển kinh tế. Nhà nước đã tạo ra một hành
lang pháp lý an toàn để bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Đã có rất nhiều văn
bản pháp luật về văn hóa được ban hành và thực hiện như Luật báo chí, Luật di sản
văn hố, Luật sở hữu trí tuệ, Luật điện ảnh,… Bên cạnh đó, Nhà nước cịn kí các
hiệp ước quốc tế trong lĩnh vực văn hóa như Cơng ước về việc sản xuất băng, đĩa,
… nhằm phát triển văn hóa Việt Nam lên một tầm cao hơn, xa hơn, nhiều người
biết đến hơn.


7


1.3. Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về văn hóa
1.3.1. Quản lý Nhà nước về văn hóa nghệ thuật
Văn hóa nghệ thuật là một bộ phận của văn hóa bao gồm âm nhạc, hội họa, văn
học, sân khấu, điện ảnh, và một số lĩnh vực khác. Văn hóa nghệ thuật thuộc loại
hình văn hóa tinh thần. Văn hóa nghệ thuật khơng chỉ bao gồm những giá trị nghệ
thuật được kết tinh qua các bản nhạc, bộ phim, cuốn sách,… mà còn là tổng thể
những mối quan hệ tạo nên được những tác phẩm đó chẳng hạn như đội ngũ văn
nghệ sĩ, người cảm thụ nghệ thuật, những người phê bình, đánh giá nghệ thuật. Như
vậy, trong hoạt động quản lý Nhà nước về văn hóa, nhà nước phải quan tâm đến tất
cả các yếu tố tạo nên văn hóa nghệ thuật, nhằm mục đích phát huy khả năng sáng
tạo, khai thác mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo, đưa văn hóa nghệ thuật phát triển lên
một bước mới.
Để đảm bảo quyền và lợi ích của những tác giả sáng tạo nên những tác phẩm
nghệ thuật, tránh tạo sự ăn cắp chất xám của người khác, Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến vấn đề sở hữu trí tuệ, ban hành Luật sở hữu trí tuệ và gần đây nhất là Luật
sở hữu trí tuệ 2019. Luật sở hữu trí tuệ được ban hành nhằm mục đích tạo điều kiện
cho tác giả được có quyền đối với chính tác phẩm của mình, gắn với các giá trị
nhân thân và giá trị tài sản, khơng ai có quyền đạo nhái, sao chép mà khơng có sự
đồng ý của tác giả, đảm bảo sự cơng bằng, khuyến khích mọi người ai cũng có thể
sáng tác, tạo nên những tác phẩm có ý nghĩa, giá trị. Bộ khoa học và công nghệ
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc chủ trì, phối hợp với Bộ văn hóa, thể
thao và du lịch, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện quản lý Nhà
nước về sở hữu trí tuệ.
Ngồi ra, Nhà nước cịn khuyến khích việc phát triển các loại hình điện ảnh.
Thông qua những tác phẩm điện ảnh thực hiện giáo dục chính trị, tư tưởng, tình
8



cảm, nâng cao dân trí. Chính sách cụ thể về quản lý hoạt động điện ảnh được xác
định cụ thể trong Luật điện ảnh năm 2020. Nhà nước khuyến khích việc mở rộng
giao lưu quốc tế về điện ảnh, khuyến khích đội ngũ văn nghệ sĩ tìm tịi, sáng tạo
trong lĩnh vực của mình. Tạo điều kiện xây dựng các phim trường, rạp chiếu phim,
… Các cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép phổ biến phim gồm Bộ văn hóa, thể
thao và du lịch, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng giám đốc đài truyền hình Việt
Nam và Giám đốc đài phát thanh truyền hình cấp tỉnh.
1.3.2. Quản lý Nhà nước về văn hóa – xã hội
Để đánh giá một xã hội có phát triển hay khơng, khơng chỉ dựa vào những con
số
cụ thể, chỉ số thu nhập bình quân đầu người, những con số tăng trưởng kinh tế mà
cịn phải nhìn nhận, đánh giá cả về vấn đề trật tự an toàn xã hội, lối sống, đạo đức,
mối quan hệ giữa con người với nhau, chất lượng cuộc sống có ổn định khơng,
sống có vui vẻ, an tồn khơng. Nhà nước quản lý về văn hóa xã hội là thực hiện
những hoạt động quản lý nhằm ổn định trật tự xã hội, giữ gìn những nét đẹp văn
hóa truyền thống, xây dựng nếp sống văn hóa mới. Mục đích của quản lý Nhà nước
về văn hóa xã hội là xây dựng nếp sống đẹp, văn minh, hiện đại, hòa nhập.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định những khuôn mẫu ứng
xử trong giao tiếp, hưởng thụ, trong sinh hoạt cộng đồng, đồng thời cũng nghiêm
cấm, bài trừ những hành động bị xem là vô văn hóa, sai lệch chuẩn mực xã hội. Để
thực hiện tốt những điều này, các chủ thể quản lý cần nhận thức đúng đắn về những
vấn đề cơ bản của lối sống, nếp sống gắn liền với tình hình diễn biến trên phạm vi
trong và ngoài nước; nâng cao năng suất lao động; phát huy tính tích cực chính trị xã hội trong mỗi con người đều có ý thức về một lối sống đẹp, sống đạo đức; khôi

9


phục những thuần phong mỹ tục và xây dựng nếp sống mới, phân biệt được cái gì

là lễ giáo phong kiến, cái gì là nét truyền thống đẹp về lối sống đạo đức.
1.3.3. Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Vì vậy, nhằm để bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về văn hóa của nhân dân,
tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong
việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, Nhà nước đã ban hành Luật
di sản văn hóa 2013.
Các cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về di sản văn hóa bao gồm: Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về văn hóa; Bộ văn hóa, thể thao và du lịch chịu
trách nhiệm trước chính phủ trong việc thực hiện quản lý Nhà nước về di sản văn
hóa; Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi và quyền hạn của mình thực hiện việc
quản lý nhà nước về di sản ở địa phương theo sự phân cơng của Chính phủ.
Nội dung quản lý Nhà nước về di sản văn hóa bao gồm:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn
hóa
- Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về si sản văn hóa

10


- Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
các bộ chuyên môn về di sản văn hóa
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa
- Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa

- Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm đối với di sản văn hóa vật thể, di
sản văn hóa phi vật thể và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
- Đối với di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh
thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan. Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động
nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể
nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và làm giàu kho tàng di sản văn
hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ văn
hóa, thể thao
và du lịch, và Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là

11


những người có nhiệm vụ trực tiếp trong việc quản lý đối với di sản phi vật thể.
- Đối với di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia. Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được chi thành: di tích cấp
tỉnh, di tích cấp quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt. Thẩm quyền quyết định xếp
hạng di tích thuộc về Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể
thao và du lịch, Thủ tướng Chính phủ. Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng
mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị hủy hoại khơng có
khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có
quyền ra quyết định hủy bỏ xếp hạng đối với di tích đó.
- Đối với di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại,

có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. Bảo vật quốc gia là
hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về
lịch sử, văn hóa, khoa học. Việc mang cổ vật, di vật ra nước ngoài phải có giấy
phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa. Nhà nước được ưu tiên mua
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Nhà nước khuyến khích các chủ sở hữu đăng ký di
vật, cổ vật của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa. Di sản văn
hóa phải được bảo vệ và phát huy giá trị, đó là mục đích của quản lý Nhà nước về
di sản văn hóa. Hoạt động trực tiếp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa chính là
bảo tồn, bảo tàng. Thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng được quy định tại
Điều 50 Luật di sản văn hóa.
1.4. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa
12


Vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa là hành vi do cá nhân hoặc tổ chức
thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực
văn hóa, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, được pháp luật hành chính
quy định là vi phạm hành chính và phải bị xử phạt hành chính.
Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa phải tn theo các quy
định chung của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định số 24 ngày
20/6/2012 củ Chính phủ, Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013, Nghị định
159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động báo chí, xuất bản, Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo,
Nghị định 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
Cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa
thơng tin bao gồm: Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan thanh tra chuyên ngành, cơ
quan hải quan, cơ quan thuế, bộ đội biên phịng, cơ quan cơng an, cảnh sát biển, cơ

quan quản lý thị trường. Tuy nhiên mỗi cơ quan chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với
những loại vi phạm được pháp luật quy định.
Khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, người có thẩm quyền
xử phạt được áp dụng những hình thức xử phạt và biện pháp được pháp luật quy
định đối với hành vi đó. Các hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khác được
áp dụng kèm theo hình thức phạt chính nhằm xử lý triệt để vi phạm, loại trừ nguyên
nhân, điều kiện tái phạm và khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm trong lĩnh vực văn hóa phải tuân theo
quy định tại Điều 82 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày có quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cơ
13


quan có thẩm quyền phải xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu để quá thời hạn
này mà không thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ
2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam về di sản văn hóa cũng cịn tồn tại nhiều
hạn chế cần có những biện pháp khắc phục kịp thời, cần giải thích rõ các điều kiện
để một loại hình văn hóa được cơng nhận là một di sản văn hóa phi vật thể. Các di
sản cần được chuyển qua bao thế hệ thì sẽ được coi là phù hợp với tiêu chí di sản
văn hóa phi vật thể được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Hiện tại, việc để xác
định số thế hệ được chuyển giao các giá trị văn hóa về cơ bản là khơng dễ dàng, nó
dựa trên kí ức của cộng đồng, những người lưu giữ và truyền lại di sản cho con
cháu cũng chỉ có tính chất tương đối. Và các quy định về việc di sản hóa phi vật thể
đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể mà sau đó có cơ sở xác định
khơng đủ tiêu chuẩn thì quyết định đưa ra khỏi danh mục di sản văn hóa phi vật thể

quốc gia. Việc một di sản văn hóa phi vật thể khơng cịn đủ các điều kiện để đáp ứng
được sự phát triển của cộng đồng, không được cộng đồng lưu truyền và không thể tồn

14


tại trong đời sống văn hóa thì cần được rút ra và bổ sung các di sản văn hóa phi vật thể
đáp ứng đủ điều kiện vào.
Thứ hai, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm xuất hiện tâm
lý sùng ngoại, thực dụng và làm phai nhạt những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Cộng với sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực đời sống kinh tế
- xã hội, nhiều cơng trình nhân tạo được xây dựng nên, hiện đại hơn, đẹp đẽ hơn,
nhưng vì vậy mà những cơng trình văn hóa xưa cũ, có giá trị văn hóa bị mai một
dần, ngày càng ít người biết đến hơn. Việc du lịch ngày càng phát triển, nhưng di
tích lịch sử ngày một xuống cấp, không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch
trong và ngoài nước. Việc quản lý nhà nước về cải tạo, nâng cấp các di tích văn hóa
lịch sử cịn gặp nhiều khó khăn. Một số di tích nằm trong các khu dân cư làm cho
các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ quản lý chưa có điều kiện thuận lợi nhất để
trơng coi, bảo quản.
Thứ ba, công tác bảo tồn và phát triển di sản văn hóa chưa thực sự khoa học.
Hiện nay, công tác bảo tồn và phát triển di sản văn hóa là một vấn đề dù được quan
tâm nhiều nhưng cách thức tiến hành chưa thực sự hiệu quả, khoa học. Việc lập các
kế hoạch tu bổ, sửa chữa, nâng cấp gặp nhiều vấn đề trở ngại do thiếu kinh phí, thủ
tục hành chính rườm rà. Việc quản lý di sản tại một số địa phương chưa hiệu quả,
chưa xứng tầm với quy mơ của di sản văn hóa. Ngồi ra, hệ thống lực lượng nhân
công, những người tham gia giữ gìn, bảo tồn, phục dựng ở các cấp địa phương còn
non nớt kinh nghiệm, những khu bảo tàng còn chậm đổi mới hình thức trưng bày,
khơng thu hút được sự chú ý của mọi người.
Thứ tư, vấn đề đặt ra trong việc quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao,
du lịch trên địa bàn các địa phương miền núi, trung du của các đồng bào dân tộc

cịn gặp phải nhiều bất tiện, khó khăn. Những người có trách nhiệm quản lý văn
15


hóa cịn e ngại việc di chuyển lên những khu vực vùng sâu vùng xa, khơng đồng
điệu về văn hóa, gây nhiều bất tiện trong khi đội ngũ quản lý ở địa phương thì chưa
thực sự chất lượng lắm.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về di sản văn hóa cịn
chưa thực hiện đầy đủ và nghiêm túc. Công tác thanh tra, kiểm tra ở một số lĩnh
vực của di sản văn hóa chưa thật sự đạt hiệu quả do lực lượng thanh tra, hậu cần
cịn ít, chế tài xử lý vi phạm cịn thiếu hoặc chưa đủ sức răng đe. Công tác thanh
tra, kiểm tra mặc dù đã thực hiện, nhưng tổng thể còn chưa đồng bộ, nhất quán.
Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa cịn thụ động, tính chủ động
chưa cao, chủ yếu là nhờ vào sự tố giác của nhân dân.
2.2. Kiến nghị hoàn thiện đối với các vấn đề bất cập
Thứ nhất, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các điều kiện để một di sản
văn hóa được cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể, giá trị văn hóa phải trải qua
bao nhiều thời gian mới được xem là di sản. Và một di sản văn hóa phi vật thể bị
mất đi những giá trị gì, những điều kiện gì, tiêu chuẩn gì thì bị quyết định đưa ra
khỏi danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Quy định rõ ràng sẽ giúp việc tiến
hành thực hiện được rõ ràng, minh bạch, không gây tranh cãi.
Thứ hai, phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa để tạo nên được giá trị
bền vững vì văn hóa chính là động lực, mục tiêu của phát triển kinh tế. Không thể
không phát triển kinh tế, nhưng kèm theo đó, các giá trị văn hóa dân tộc cũng cần phải
được phát triển. Việc nền công nghiệp không khói ngày càng phát triển, nhu cầu khách
du lịch ngày càng cao, các giá trị văn hóa dường như bị bỏ quên sẽ được hồi sinh dựa
vào những chính sách quản lý hợp lý của các cấp các ngành. Tạo điều kiện cho quản lý
địa phương tiếp cận gần hơn, thường xun hơn với những di tích văn hóa nằm trong
các khu dân cư để quản lý dễ dàng, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh.
16



Thứ ba, xây dựng, đổi mới các khu bảo tồn di sản văn hóa. Nâng cấp chất lượng
đội ngũ nhân cơng, những người có kinh nghiệm, tay nghề cao trong việc sửa chữa,
tu bổ các di sản văn hóa. Nhà nước tạo điều kiện về kinh tế để các cơ quan quản lý
ở địa phương có thể hồn thiện các công việc tu bổ lại nhưng vẫn đảm bảo giữ
nguyên được những nét đẹp vốn có, những giá trị truyền thống của dân tộc Việt
Nam.
Thứ tư, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý nhà nước đối với di sản văn hóa từ những cấp cơ sở. Tiến hành những đãi ngộ
hợp lý để khuyến khích tinh thần làm việc của các đội ngũ chuyên môn. Đào tạo ra
được những đội ngũ tâm huyết, nhiệt tình, có niềm đam mê với di sản văn hóa dân
tộc, chịu cống hiến, đầu tư chất xám cho sự phát triển văn hóa, xây dựng vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng cao.
Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực văn hóa. Tổ chức kiểm tra thường xuyên, đột xuất việc quản lý các
di sản văn hóa để chủ động phát hiện ra các hành vi vi phạm, và xử phạt kịp thời.
Chế tài đối với những người vi phạm hành chính cần được nâng nên để đảm bảo
tính răn đe. Nâng cao ý thức bảo vệ di sản văn hóa, giữ gìn những giá trị truyền
thống quý báu, phát huy nó ngày càng phát triển, thu hút được nhiều khách tham
quan hơn, như vậy, đời sống của người dân ở xung quan các di tích đó cũng khá giả
hơn.
Đồng thời, cũng phải có những đãi ngộ hợp lý cho những người có thành tích tốt
trong cơng tác quản lý Nhà nước về văn hóa, tạo ra động lực để hăng hái làm việc.
Công tác thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời các tổ chức, cá nhân có cơng cần
được mở rộng. Việc trao tặng các danh hiệu cho những nghệ sĩ, nghệ nhân tài năng,
tạo ra nhiều giá trị văn hóa về mảng phim ảnh, văn học cũng cần được thúc đẩy.
17



Bên cạnh đó, cần phải có những biện pháp bảo vệ mơi trường, khơng vì chú trọng
phát triển kinh tế, văn hóa và qn đi việc giữ gìn mơi trường xanh sạch. Cần nâng
cao ý thức về việc giữ gìn vệ sinh trong các buổi tổ chức lễ hội, hay xung quanh
những khu di tích hay có khách du lịch tham quan vid một sự phát triển bền vững.

KẾT LUẬN
18


Những di sản văn hóa mang lại những giá trị tinh thần rất lớn cho nhân loại, đặc
biệt là những di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam, nó có ý nghĩa rất to lớn trong
việc xây dựng một cuộc sống tinh thần vui vẻ, hạnh phúc. Bất cứ người dân ở đâu
cũng tự hào vì dân tộc mình có nhiều di sản văn hóa, địa phương mình có nhiều di
sản văn hóa. Vì vậy nên việc quản lý nhà nước về văn hóa rất cần được quan tâm
chú trọng. Bên cạnh những thành cơng đã đạt được, thì những vướng mắc vẫn cịn
tồn tại nhiều gây khó khăn, trở ngại. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật về quản
lý nhà nước về văn hóa, đồng thời tin tưởng vào chỉ đạo, đường lối của Đảng, Nhà
nước sẽ giúp phát huy tối đa sức mạnh trong việc củng cố, hoàn thiện những mặt
vướng mắc. Để phát triển được văn hóa, việc quản lý của Nhà nước là hết sức quan
trọng, tạo nên sự đồng bộ, nhất quán trong việc phát triển văn hóa, đưa văn hóa của
Việt Nam ngày càng tiếp cận gần hơn với thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính, NXB. Cơng an nhân
dân, Hà Nội – 2020, tr.495-524
2. Đỗ Thanh Hương (2020), Hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể ở
nước ta hiện nay, Tạp Chí Mặt Trận Online. truy cập ngày 30/12/2021.

3. Nguyễn Khánh Tùng, Trần Bá Hùng, (2021), Quản lý nhà nước về di sản văn
hóa - những vấn đề đặt ra và giải pháp hoàn thiện, Quản lý nhà nước.
truy cập ngày 30/12/2021
4. Nguyễn Ngọc Thiện (2019), Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về văn hóa đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững, Tạp Chí Cộng Sản.
/>oi-moi%2C-nang-cao-hieu-luc%2C-hieu-qua-quan-ly-nha-nuoc-ve-van-hoadap-ung-yeu-cau-phat-trien-ben-vung.aspx truy cập ngày 30/12/2021.

20



×