Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 46 trang )

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương

Dàn ý phân tích bài thơ Tự tình 2
I. Mở bài
● Trình bày những nét tiêu biểu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Nữ sĩ được mệnh danh:
“Bà chúa thơ Nôm” với rất nhiều những bài thơ thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp
và niềm cảm thơng, thương xót cho số phận những người phụ nữ.
● Giới thiệu bài thơ Tự tình II: Đây là một trong số 3 bài thơ trong chùm thơ Tự
tình thể hiện nỗi niềm buồn tủi trước cảnh ngộ lỡ làng.
II. Thân bài
1. Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường
• Câu 1: Thể hiện qua việc tái hiện bối cảnh:
● Thời gian: Đêm khuya, trống canh dồn – nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống
thể hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã ⇒ Con người chất chứa nỗi niềm,
bất an
● Không gian: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng tĩnh
vắng
⇒ Con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cơ đơn
• Câu 2: Diễn tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng từ ngữ gây ấn tượng
mạnh:
● Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn, đồng thời thể
hiện bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.
● Cái hồng nhan: Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng
⇒ Hai vế đối lập: “cái hồng nhan” đối với “với nước non”
⇒ Bi kịch người phụ nữ trong xã hội
2. Hai câu thực: Diễn tả rõ nét hơn tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi
• Câu 3: Hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót
xa
● Chén rượu hương đưa: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu
● Say lại tỉnh: vòng luẩn quẩn khơng lối thốt, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như
cuộc tình vương vít cũng nhanh tàn, để lại sự rã rời




Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
⇒ Vòng luẩn quẩn ấy gợi cảm nhận dun tình đã trở thành trị đùa của số phận
• Câu 4: Nỗi chán chường, đau đớn ê chề
- Hình tượng thơ chứa hai lần bi kịch:
● Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn ⇒ tuổi xuân đã trơi qua
● Khuyết chưa trịn: Nhân dun chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên
mãn, trịn đầy ⇒ sự muộn màng dở dang của con người
- Nghệ thuật đối → tô đậm thêm nỗi sầu đơn lẻ của người muộn màng lỡ dở
⇒ Niềm mong mỏi thoát khỏi hồn cảnh thực tại nhưng khơng tìm được lối thốt.
3. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương
- Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của người mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính:
● Rêu: sự vật yếu ớt, hèn mọn mà cũng không chịu mềm yếu
● Đá: im lìm nhưng nay phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân
mây”
● Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng
bỉnh, ngang ngạnh
● Nghệ thuật đối, đảo ngữ ⇒ Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt
⇒ Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng
⇒ Sự phản kháng của thiên nhiên hay cũng chính là sự phản kháng của con người
4. Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán trường, buồn tủi
• Câu 7:
● Ngán: chán ngán, ngán ngẩm
● Xuân đi xuân lại lại: Từ “xuân” mang hai ý nghĩa, vừa là mùa xuân, đồng thời
cũng là tuổi xuân
⇒ Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hồn cịn tuổi xn của con người cứ qua đi
mà không bao giờ trở lại ⇒ chua chát, chán ngán.
• Câu 8:
● Mảnh tình: Tình u khơng trọn vẹn



Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
● Mảnh tình san sẻ: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn
đã khơng được trọn vẹn nhưng ở đây cịn phải san sẻ
● Tí con con: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này
cạnh nhau càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn
⇒ Mảnh tình vốn đã khơng được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở
thành tí con con
⇒ Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân
phận làm lẽ
5. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả:
+ Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa
- Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6
- Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.
III. Kết bài
● Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
● Thông qua bài thơ thể hiện giá trị hiện thực và bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu
sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”
Dàn ý số 2
1. Mở Bài
Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ "Tự tình" (bài II)
● "Bà Chúa Thơ Nơm" - Hồ Xuân Hương là một nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ,
thơ của bà chính là tiếng nói thương cảm đối với số phận người phụ nữ, đồng
thời đó còn là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
● Bài thơ "Tự tình" (bài II) nằm trong chùm thơ "Tự tình" của bà là một trong
những sáng tác mà ở đó ta cảm nhận được tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước
duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc ở Hồ Xuân Hương.
2. Thân Bài

- Phân tích bốn câu thơ đầu để thấy được hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ:
● Không gian đêm khuya tĩnh mịch gợi nỗi cô đơn, muộn phiền


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
● Phận hồng nhan vẫn còn trơ trơ, chỉ có mình ta với nước non, đó là sự cơ đơn,
lẻ bóng.
- Phân tích hình tượng thiên nhiên trong câu thơ 5 - 6 để thấy được tâm trạng và thái
độ của nhà thơ trước số phận:


"Xiên ngang, đâm toạc" là sự phẫn uất và phản kháng của nhà thơ đối với cuộc
đời, số phận của mình.
● Từng lời thơ nghe có vẻ đầy căm phẫn nhưng sâu xa ta lại thấy sự chua chát,
cam chịu và chấp nhận của nhà thơ.
- Phân tích tâm sự của nhà thơ trong hai câu thơ kết:
● Nhắc đến mùa xuân là nhớ về tuổi xuân của mình, nữ thi sĩ ngán ngẩm bởi mùa
xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến nhưng tuổi xuân mà qua thì là hết hẳn.
● Lời thơ như lời tâm sự của nhà thơ về chính tình dun và số phận của mình,
nỗi lịng của nhà thơ thể hiện sự khát khao có được hạnh phúc
3. Kết Bài
Khẳng định giá trị bài thơ: Bài thơ nói lên bi kịch duyên phận của nhà thơ, đồng thời
cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ.
Xem thêm: Dàn ý phân tích Tự tình
Phân tích Tự tình - Mẫu 1
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ
biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia
đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần
thể hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những
tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.

Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời
khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng
trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong
lại càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thơng báo về thời
gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin,
đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.
Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà
chồng không đến bằng một chữ trơ - trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ
với nước non, với đời, với tình yêu.


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ
chồng.
Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa
nghĩa là uống rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu
vẫn không quên được mối sầu!
Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn
mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có
thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.
Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mịn mỏi có phần tuyệt
vọng, bng xi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình
ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia cịn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi
chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân
mây để soi đến. Hố ra thân phận mình cơ đơn không bằng được như mấy thứ vô tri
vô giác kia! Đây khơng nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong
tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu
trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường,
do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hịn.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá
mấy hịn vươn lên đâm toạc chân mây. Và đó khơng phải là hình ảnh của ngoại cảnh,
mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn
làm loạn, muốn được giải thoát khỏi sự cơ đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính
mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất
ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và
cam chịu. Câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian
và sự chán nản kéo dài. Cuộc đời cứ trơi đi, thời gian cứ trơi đi, tình u và hạnh phúc
thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí
chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ,
như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn
về tình u và hạnh phúc lứa đơi khơng trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể
hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn
tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường
nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên
ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, ... và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn...
để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường
đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về
sự cơ đơn, trơ trọi đến vơ dun của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước
non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung
phá, đầy sức sống thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa

đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống
trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống
trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem
lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ,
phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất
lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát
vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội
xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hồn tồn chính đáng nhưng khơng thể thực hiện
được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch khơng thể giải tỏa. Vì thế giọng
điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng
tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử xã hội mới mà thôi.
Phân tích bài thơ Tự tình - Mẫu 2
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của bao nhà văn, nhà thơ với những quan
điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật khác nhau vô cùng độc đáo và đa dạng. Một
trong số đó ta khơng thể khơng nhắc đến nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương với cá tính mạnh
mẽ và trái tim khao khát yêu thương. Tài năng của bà được thể hiện rõ nét qua bài thơ
Tự tình 2 được rút từ tập thơ cùng tên.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh thời gian và không gian bộc lộ tâm trạng của nữ thi sĩ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Thời gian vào đêm khuya, khi mọi vật đã chìm trong bóng đêm, vạn vật trở nên tĩnh
lặng, không gian trở nên hoang vắng, đủ để nghe thấy tiếng trống canh từ nơi xa vọng
lại. Âm thanh “văng vẳng” được vọng lại từ một nơi rất xa xôi, dường như âm thanh
tiếng trống canh chỉ nghe thấy thấp thống theo từng cơn gió thổi và người nghe phải
lắng tai lắm mới nghe được. Từ “cái” đặt trước danh từ “hồng nhan” khiến cho hai

chữ này không còn giá trị. Hồng nhan nhưng lại là “cái hồng nhan” ẩn chứa đằng sau
một cái gì đó như xem thường, thể hiện rõ ràng ở đây sự tự ý thức của người trong
cuộc. Trước “cái hồng nhan” còn là tính từ “trơ” chỉ trạng thái đơn độc, lẻ loi, không
nơi nương tựa. Giữa không gian vắng lặng của buổi đêm, khi mọi vật đang chìm trong
sự nghỉ ngơi, yên tĩnh cịn mình lại vẫn ngồi đây với rất nhiều nỗi lịng, rất nhiều tâm
sự đối lập với khơng gian rộng lớn.
Nối tiếp khơng gian, thời gian là hình ảnh của người phụ nữ lẻ loi:
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn
Thơng thường, con người tìm đến rượu khi người ta cảm thấy đau khổ, bế tắc, thất
vọng để nó trở thành một liều thuốc làm khuây khỏa tâm hồn nhưng cuối cùng, nữ thi
sĩ vẫn khơng thể trốn tránh được hiện thực xót xa của mình. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi
lên cái vòng luẩn quẩn. Để miêu tả về vầng trăng, Hồ Xuân Hương đã dùng một lúc
đến tận ba cụm từ: bóng xế, khuyết, chưa trịn. Cả ba từ này đều có ý nghĩa diễn tả về
một vầng trăng khơng trọn vẹn. Nó là ta nhớ đến số phận éo le của chính nữ sĩ, chính
sự tương đồng này đã khiến cho nỗi niềm tâm sự của nhân vật trữ tình càng trở nên
sâu sắc và giàu sức ám ảnh.
Hai câu thực là những hình ảnh độc đáo và vơ cùng cá tính, khác biệt của thiên nhiên:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Đám rêu phải mọc xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc, lại càng phải trở nên rắn chắc
hơn để có thể vượt lên “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai
câu thơ luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn
uất của tâm trạng. Những động từ mạnh “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ
“ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh như một lời thách thức
những khó khăn, cay đắng trong cuộc sống của nhân vật trữ tình.
Khép lại bài thơ là tâm tình, thái độ của nữ thi sĩ trước số phận bất hạnh:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,



Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xn Hương
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm cuộc đời éo le, bạc bẽo, thế cục xoay vần của tạo
hóa mà mình thì vẫn cơ độc. "Xn" vừa là mùa xn mà cũng chính là tuổi xn.
Mùa xn quay vịng với tạo hóa nhưng tuổi xuân của con người đã đi qua thì khơng
bao giờ trở lại. Hai từ “lại lại” nghe ngao ngán, nó khiến cho khoảng đối lập giữa con
người và tự nhiên càng lớn và nghịch cảnh lại càng éo le hơn. Đã là một “mảnh tình”
rất nhỏ bé tội nghiệp rồi mà giờ đây còn là “san sẻ” đến nỗi cuối cùng chỉ là “tí con
con”. Điều ấy đối với một người bình thường đã là ít ỏi lắm rồi thì với một người bản
lĩnh như Hồ Xuân Hương lại càng khó chấp nhận. Từ đây, ta cũng sẽ thấy được ý thức,
cá tính mạnh của Hồ Xuân Hương càng khiến tình cảnh trở nên éo le, xót xa và tội
nghiệp hơn.
Bài thơ như một lời đại diện bộc lộ tâm tư, tình cảm của người phụ nữ trong xã hội cũ
đối với số phận bất công của mình. Qua bài thơ ta thêm hiểu và yêu hoàn cảnh của họ;
đồng thời sẽ thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp mà chúng ta đang có được ngày
hơm nay. Bài thơ đã góp phần làm phong phú nền văn học Việt Nam và đưa tên tuổi
của nhà thơ Hồ Xuân Hương đến gần hơn với độc giả.
Phân tích bài Tự tình - Mẫu 3
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Từ lâu, thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã gắn liền với thân phận bèo bọt,
trôi nổi, bất hạnh. Có lẽ, ai cũng đã từng khóc thương tha thiết cho nàng Kiều tài hoa
mà bạc mệnh, từng ấm ức thay cho nỗi oan khuất thấu tận trời xanh của Vũ Nương.
Và giờ đây, khi đến với tác phẩm “Tự tình 2” của Hồ Xn Hương, ta lại thêm phần
xót thương cho thân phận trôi nổi của người phụ nữ trong xã hội Phong kiến xưa. Bài
thơ là tiếng lòng chất đầy nỗi niềm sâu kín của nữ thi sĩ.
Với thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngơn ngữ Nơm thuần Việt,
bài thơ có lẽ đã được nữ sĩ viết về cuộc đời của chính bản thân mình, trong một phút
suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn,
vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung

của những người phụ nữ trong Xã hội đương thời..
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ đề trong thể thơ độc đáo này.
Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya
lạnh tanh hồ theo tiếng trống thơng báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của
thời gian. Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cơ độc một mình. Khơng cịn một âm
vang nào khác, khơng cịn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng
trống canh cùng người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua
chát của cuộc đời và sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”. Tại sao nữ sĩ
Hồ Xuân Hương lại đặt mình vào trong nhân vật với một khơng gian buồn bã, tàn lụi
đến như vậy? Đối với riêng nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào?
Phải chăng bà muốn diễn tả thân phận khơng chỉ của riêng bà, mà cịn là của những
người phụ nữ khác trong cái quy luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay
cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” – Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ?
Thật đớn đau …
Bước qua hai câu thơ kế, cũng là hai câu thực, liệu rằng ta có cảm nhận được điều gì
trong sáng hơn, tươi đẹp hơn hay khơng ?
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn
Trong cái khơng gian cơ quạnh khơng bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ tìm
đến những chén rượu để giải thốt mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo
khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau,
tủi nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét,
cay nghiệt của người vợ cả ? Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ
đến những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại.
Nhưng… Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại,

thì cũng là lúc mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu khơng cịn tác dụng. Người
phụ nữ chợt bừng tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn. Ba từ : “Say lại tỉnh”
đã chứng minh được điều đó. Càng uống càng tỉnh, càng tỉnh lại càng nghĩ suy. Trong
cái “Bóng xế khuyết chưa trịn” của Vầng trăng tưởng chừng như êm đềm, phải chăng
tác giả đang nghĩ về nhan sắc của mình đang tàn phai theo năm tháng, mà tình dun
vẫn chưa thể vẹn tồn? Ánh trăng đêm là ánh trăng của kỷ niệm, của hẹn ước u
đương, của bao đơi tình nhân. Ánh trăng cũng là biểu tượng của sự thuỷ chung của
bao tình yêu đơi lứa. Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng sau những
rặng dừa cao, người phụ nữ vẫn chưa thể chìm sâu vào giấc ngủ. Trăng chưa thể trịn,
như cuộc tình dang dở của người phụ nữ. Có lẽ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn đưa cái
sự suy nghĩ về lẽ đời, về sự hạnh phúc mà tác giả đang mong đợi vào chính tâm trạng
của nhân vật.


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Trong lúc suy tư đó, mà đối với những bạn trẻ đang hạnh phúc là vầng trăng cổ tích,
cịn đối với người phụ nữ là ánh trăng suy tư, tác giả đã đánh động người đọc ra khỏi
sự suy nghĩ về nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến lạc hậu bằng hai câu thơ
luận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hịn
Ánh mắt ngước nhìn bầu trời đêm có trăng, có sao, có mây trơi, có gió thổi từ lúc
“Trống canh dồn”, giờ đây người phụ nữ lạc lõng đó đang ngắm nhìn những sự vật
xung quanh mình. Có lẽ nào người phụ nữ ấy đang dạo quanh đâu đó trong khung
cảnh khi bình minh chưa ló dạng, và phát hiện ra một sự thật hiển nhiên mà lâu nay
không một ai để ý đến? Những động từ mạnh mẽ như “Xiên ngang” – “Đâm toạc”
được sử dụng trong phép đảo ngữ đã toát lên được sức mạnh của sự sinh tồn từ trong
những sự vật nhỏ bé. Giữa mặt đất đầy đất và đá, đâu đó mọc lên một nhành cây con
con, xanh tươi. Cũng đâu đó dưới khung trời rộng lớn nhưng trống trải, những hòn đá
tuy nhỏ bé thôi, cũng đủ làm khung cảnh trở nên sinh động… Ta đang cảm nhận được

sức mạnh của thiên nhiên. Những ngọn cỏ tí hon hay những sự vật vơ tri như hịn đá
kia, đã được tác giả tơ điểm bằng nghệ thuật vơ cùng độc đáo. Chính điều đó đã đánh
thức người đọc ra khỏi tâm trạng u uẩn của người phụ nữ cơ đơn trong bóng đêm. Ta
cũng cảm nhận được sức sống mãnh liệt để sinh tồn, dù trước mắt hiện tại đang rất rất
khó khăn của từng sự vật thiên nhiên. Nếu như thế, phải chăng tác giả đang hướng
người đọc đến sự hạnh phúc, niềm tin ở tương lai, dù khó khăn, bất hạnh ở phút hiện
tại, đối với nhân vật trong bài thơ, với tác giả hay toàn thể những người phụ nữ trong
Xã hội phong kiến? Dưới góc nhìn của chúng ta ở thời này, có thể cho là như vậy. Với
hai câu Luận này, khát vọng sống và được sống, yêu và được yêu của nữ sĩ được thể
hiện vô cùng quyết liệt ! Thật là một người phụ nữ có ý chí và niềm tin
Tưởng chừng như cảnh cửa cuộc đời đang mở ra cho người phụ nữ và toàn thể phái
đẹp trong Xã hội phong kiến một hạnh phúc và niềm tin mới, nữ sĩ Hồ Xuân Hương
đã kéo chúng ta về suy nghĩ hiện tại, cũng chính là hai câu thơ kết, vừa chua xót, vừa
đắng cay của cuộc đời :
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Tâm trạng mong mỏi chờ đợi của người phụ nữ lại trở về khi ngày mới bắt đầu. Quy
luật của thời gian chính là chỉ trơi theo một chiều chứ không tương tác song song.
Xuân đến rồi Xuân lại đi. Ngày xuân hôm qua cũng chẳng giống ngày xuân hôm nay.
Mùa xuân năm sau cũng khác hẳn mùa xn năm nay. Chẳng có sự vật gì có thể thốt


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
khỏi quy luật chung đó. Thế nhưng Xn thì có thể đến, chứ người thì khơng thể
trường tồn mãi mà không già đi. Tuổi xuân – là nhan sắc mà mỗi ngày một phai tàn
của những “Hồng nhan”. Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm
nhận hạnh phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để
nàng có thể trao đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình u.
Đó cũng là nỗi uất ức khi “Tình đã nhỏ, mà cịn xé nhỏ hơn” thì cũng tương tự việc
chia cắt trái tim. Thật khơng cịn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó. Bằng nghệ thuật

tăng tiến giảm dần, ta thấy được sự ít ỏi, nhỏ bé của hạnh phúc trong cảnh cái cảnh
chồng chung đáng phê phán, chê trách ấy…
Có lẽ khi đọc đến đây, chúng ta mới cảm nhận được nỗi đau khổ đau đáu cũng những
người phụ nữ thầm lặng, hi sinh cho chồng cho con, hay những số phận hẩm hiu khác
trong xã hội đương thời. Bài thơ “Bánh trôi nước” của nhà thờ cũng từng thể hiện
được nội dung tương tự. Thế nhưng trong cái xã hội này, ta cũng thấy được những
người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, được sự quan tâm, yêu thương của chồng
con, dù cuộc đời có bôn ba vất vả. Tiêu điểm cho nhận định này chính là bài thơ
“Thương vợ” của Tú Xương. Nói cho cùng thì bất kỳ ai, sống trong thời kỳ nào thì
cũng có nỗi khổ riêng của chính họ mà thơi…
“Tự tình 2” chính là tiếng lịng của Hồ Xn Hương đúng như nhận định “ Thơ là
tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất ánh sáng
của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức bước đi nghiệt
ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ “ Tự tình” vẫn in
sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.
Phân tích Tự tình - Mẫu 4
Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự tình” là
một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của
người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao
khát tình u nhưng chỉ gặp tồn dang dở, bất hạnh. Đó cịn là sự bất hạnh của một
mơ ước không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh
hưởng cái khơng khí sơi sục của phong trào quần chúng địi quyền sống, quyền hạnh
phúc cho con người. Khơng khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thơng minh và giàu lịng
trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về đời mình, một cuộc đời lắm éo le,
bạc phận: Lấy chồng hai lần, hai lần làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó,
với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”.



Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Mở đầu bài thơ "Tự tình", tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian
xao xác tiếng gà.
Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ
tâm trạng tác giả: "Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng” chính là từ
tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị tâm trạng, khơng khí, cái khơng khí buồn
vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối
một tâm sự:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “trơ”. Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm
nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn “cụ thể” càng kinh khủng hơn khi cọ xát với
toàn xã hội, toàn cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số
phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. “Chén
rượu hương đưa" là một phương tiện. Không phải phương tiện duy nhất nhưng hầu
như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”.
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:
“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cảnh sinh tình. Hồ Xn Hương nói:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong quan điểm thẩm mĩ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của
người phụ nữ. Câu "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn" vừa là một hình ảnh đẹp,
có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa,
cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu " bà
đã ẩn ý suy nghĩ như vậy.
Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. Sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả
cảnh trở nên thuần khiết. Một cảnh thực hoàn toàn:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hồn”



Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống
nhờ tài quan sát của bà như quẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của "Bà
chúa thơ nôm" chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn
nhưng điều đó vẫn khơng suy giảm chất riêng của Hồ Xn Hương. Bản lĩnh, sức
sống mãnh liệt, sự khao khát với cuộc đời khiến cho dù lòng đầy cám cảnh bà vẫn
nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là sự lí giải về
những phản kháng, đối nghịch trong bản chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm
đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiện kì diệu nâng
đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân
Hương, ở hai câu thơ kết:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
u đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn: “Xuân đi xuân lại
lại.”, điệp từ chỉ cái vịng luẩn quẩn đáng ghét, vơ vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều
này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa
cái tuần hồn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với
trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.
Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc “Tự tình”, là
thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn
khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn
những dở dang, bất hạnh, điều đó tạo nên trong thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một
tiếng thở dài đáng quý của một người có hồi bão nhưng khơng thể thực hiện được,
trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập
thật gay gắt với cơ cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình" là một bài thơ
địi quyền hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực
của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le, trắc trở.
Phân tích Tự tình - Mẫu 5

Hồ Xn Hương một nữ sĩ đại tài của văn học Việt Nam, bà được mệnh danh là Bà
chúa thơ Nôm. Các vần thơ của bà tập trung nói về người phụ nữ với sự ý thức cao độ
về vẻ đẹp hình thức và nhân cách. Nhưng đằng sau những vần thơ ấy còn là nỗi đau
thân phận bị rẻ rúng. Nỗi niềm đó được thể hiện trong rất nhiều bài thơ của bà, và một
trong những bài thơ đó khơng thể khơng nhắc đến bài Tự tình II.
Văn bản nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài. Cả ba bài đều thể hiện nhất quán
nỗi tự thương mình trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
mãnh liệt. Những vần thơ còn thể hiện sự vùng vẫy, bứt phá để dành hạnh phúc cho
chính mình, nhưng cuối cùng vẫn phải nhận về thất bại cay đắng.
Trước hết thân phận người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy cay đắng xót xa, họ
ý thức về thân phận mình, ý thức về tuổi thanh xuân trôi nhanh mà hạnh phúc lứa đôi
chưa được trọn vẹn:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn.
Trong đêm khuya tĩnh mịch, cái sự vật đều trở về trạng thái lặng thì tiếng trống “vắng
vẳng” nghe càng trở nên da diết, dồn dập hơn, nó như thúc giục người phụ nữ về sự
chảy trôi của thời gian, của thanh xuân. Câu thơ thứ hai diễn tả nỗi niềm trơ trọi, cô
đơn của những người phụ nữ trong không gian quạnh hiu đó. Từ “trơ” được đảo lên
đầu câu càng nhấn mạnh hơn nữa vào thân phận bất hạnh của họ. Từ “hồng nhan” vốn
được hiểu là người con gái xinh đẹp, có nhan sắc. Nhưng đến đầu thế kỉ XVIII chữ
“hồng nhan” thường gắn liền với yếu tố “bạc mệnh”: để nói lên số phận bất hạnh của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc
mệnh có chừa ai đâu” hay “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Trong bài thơ
này, Hồ Xuân Hương dùng từ “hồng nhan” với ý nghĩa hồng nhan bạc mệnh, diễn tả
nỗi niềm chua xót trước thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong

nỗi đau của kẻ hồng nhan bạc mệnh, nhân vật trữ tình tìm đến rượu để quên, đến trăng
để bầu bạn nhưng chén rượu uống vào muốn say mà lại càng tỉnh, ngắm trăng lại càng
nhận rõ thân phận bất hạnh của bản thân. Trăng sắp tàn mà vẫn khuyết, cũng như con
người thanh xuân sắp qua mà tình duyên vẫn còn lận đận, lỡ dở.
Bốn câu thơ đầu, khung cảnh nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình, kết hợp với
thủ pháp tương phản: một bên là con người cô đơn, nhỏ bé với một bên là không gian
rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ (hồng nhan/ nước non), thời gian đêm mênh mông,
quạnh vắng, lạnh lùng với sự bé nhỏ của người phụ nữ (vầng trăng, trống canh); rượu
không thể làm con người khuây khỏa, say lại tỉnh,… tất cả những yếu tố đó đã góp
phần làm nổi bật sự cô đơn, buồn chán của nhân vật trữ tình – người phụ nữ.
Khơng chỉ vậy, người phụ nữ còn ý thức về hạnh phúc và nỗi đau thân phận. ý thức về
hạnh phúc ngày càng rời xa, nhân vật trữ tình có những phản ứng hết sức quyết liệt:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Hai câu thơ thể hiện một sức sống mạnh mẽ, khỏe khoắn bằng những hình ảnh thơ hết
sức độc đáo: rêu, đá. Rêu vốn là loài cây mềm mại, nhỏ bé nhưng dưới con mắt của
tác giả những đám rêu tưởng nhỏ bé, yếu đuối đó lại “xiên ngang mặt đất” mà trỗi dậy
tìm sự sống; hịn đá tưởng chừng như chỉ đứng bất động trước sự chảy trôi của thời
gian lại có thể “đâm toạc chân mây”. Dưới con mắt của Hồ Xuân Hương tất cả các sự
vật tưởng như bất động, khơng có sự sống lại được tác giả cấp cho sức sống tràn trề,
mạnh mẽ. Nhưng không dừng lại ở đó hình ảnh những sự vật đó kết hợp với cụm từ
“xiên ngang” “đâm toạc” đã cho thấy sự bứt phá, không cam chịu số phận đau khổ, tủi
hèn của nhân vật trữ tình. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ khi người phụ nữ luôn
được giáo dục với tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, an phận thủ thường thì câu thơ
mang nhiều ý nghĩa tích cực, tiến bộ. Người phụ nữ trong bài thơ không chấp nhận số
phận mà bộc lộ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc, mở ra khả năng đấu tranh để đạt
được tình u hạnh phúc về cho chính mình. Ý thơ này thống nhất với những bài thơ

khác trong chùm thơ Tự tình của bà: “Thân này đâu đã chịu già tom” – khát vọng tình
yêu được thể hiện nhất quán.
Nhưng trước thực tại quá đỗi phũ phàng, dường như người phụ nữ cũng phải chấp
nhận: “Ngán nỗi xuân đi xn lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy
ai ốn chua xót. Trong một bài thơ khác Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái
kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” để cho thấy rõ hơn số phận bất
hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tuổi xuân người con gái có được là bao nhiêu,
xuân “lại lại” đồng nghĩa với thanh xuân người con gái ngày một ngắn lại, vậy mà
mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Câu thơ với cách dùng từ độc đáo, cho
thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ – càng ít hơn và
cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”.
Bằng khả năng điều khiển ngơn ngữ tài tình, Hồ Xuân Hương đã cho người đọc phần
nào thấy được thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ, tình u bị san sẻ,
hạnh phúc khơng thể với đến. Nhưng đồng thời còn thấy được khát khao hạnh phúc
mãnh liệt của họ. Qua những vần thơ đó Hồ Xuân Hương cũng lên án xã hội phong
kiến đã kìm kẹp nhu cầu hạnh phúc chính đáng của con người.
Phân tích Tự tình - Mẫu 6
Hồ Xn Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác
phẩm bà để lại khá nhiều, và phong cách sáng tác thơ chủ yếu của bà là tả cảnh ngụ
tình. Bà cịn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ viết nhiều về thân phận
người phụ nữ, là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của người phụ
nữ, đồng thời lên tiếng bênh vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã hội cũ.


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Tự tình 2 là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của
chính tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung.
Bài thơ mở đầu với hai câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một người
phụ nữ hay có thể gọi là hồng nhan. Nhưng tiếc thay, hồng nhan đó lại rơi vào hồn
cảnh cơ đơn trống vắng, giữa đêm khuya u tịch.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ láy “văng vẳng” được tác giả sử dụng để miêu tả thứ âm thanh từ xa vang lại, mặc
dù không biết nó xuất phát từ đâu hoặc dù ở xa nhưng nghe mỗi lúc một gần một rõ
hơn. Thời gian được nhắc tới là “đêm khuya” - thời điểm khiến con người dễ rơi vào
các cung bậc cảm xúc trạng thái khó tả nhất, cũng chính thời gian này có một người
phụ nữ vẫn ngồi đó, khơng n lịng mà ngủ được vẫn ngồi đó nghĩ ngợi về mọi thứ
xung quanh đặc biệt về con người cuộc đời của mình. Là một người phụ nữ có nhan
sắc, nhưng lại được miêu tả “trơ với nước non". Trước cuộc đời rộng lớn, người phụ
nữ đó nhận ra thân phận của mình lẻ loi đơn chiếc, và âm thanh của trống cầm canh lại
càng điểm thêm một nỗi buồn, trống vắng khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu để
giải sầu:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng xế bóng khuyết chưa trịn”
Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để trút
bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng
nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi người muốn say nhưng
tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tĩnh. Không có nỗi buồn nào biến mất ở đây mà càng
làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện
nhưng khuyết chưa trịn phải chăng ngụ ý cho thân phận, cho hạnh phúc của chính tác
giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phận hẩm hiu chưa một lần trọn vẹn. Tuổi xuân
dần đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hịn”
Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân
Hương. Rêu là lồi mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vơ cùng mạnh mẽ,
khơng dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt, dù là điều
kiện sống như thế nào đi chăng nữa. Hình ảnh "rêu từng đám" đâm xuyên ngang mặt



Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
đất gợi ra cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng
như sự chống đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh "đá mấy hịn" cũng
vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng
làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó khơng tầm thường một tí nào.
Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, ln đối mặt với khó khăn thách thức nhưng
chưa bao giờ đi đến thành công. Kiếp làm vợ lẽ, dù cố thốt ra nhưng vẫn khơng được.
Cho nên mới có hai câu cuối:
“Ngán nỗi xuân đi xn lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác, với
người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa.
Lại càng đáng buồn hơn cho những số phận hẩm hiu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có
một niềm hạnh phúc trọn vẹn nhưng nào đâu có được. Trước sự lẻ loi, chán chường
mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lịng của thi sĩ bây
giờ. Mảnh tình đã bé lại cịn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu
một hạnh phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san sẻ, thật quả là đáng
thương. Qua đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ, chịu cảnh thê
thiếp, dưới chế độ cũ khơng được coi trọng và khơng có quyền lên tiếng.
Tự tình 2 là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của
Hồ Xuân Hương đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Qua đây chúng
ta cũng thấy được một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng
mạnh mẽ khi dám bộc lộ những suy nghĩ của chính mình.
Phân tích Tự tình - Mẫu 7
Hồ Xn Hương là một trong những nữ sĩ tài ba bậc nhất của văn học Trung đại Việt
Nam. Bà để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, giàu giá trị trên cả mảng thơ chữ Nôm và
chữ Hán. Nổi bật trong tác phẩm của bà là tiếng nói thương cảm với số phận người
phụ nữ và bài thơ Tự Tình (bài II) là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ nằm trong chùm thơ Tự tình, gồm có tất cả ba bài, được viết theo thể thơ
Đường luật. Tác phẩm là nỗi thương mình trong sự cơ đơn khi phải chịu cảnh làm lẽ,

khao khát hạnh phúc mãnh liệt. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện thái độ bứt phá, vùng
vẫy, muốn thốt khỏi cảnh ngộ éo le để có thể đạt được hạnh phúc, nhưng cuối cùng
bi kịch vẫn hoàn bi kịch.


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài thơ mở đầu là thời điểm canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với chính
mình, nhưng cũng chính lúc đó Xn Hương tự nhận ra tình cảnh đáng thương của
chính mình:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Trong đêm khuya thanh vắng, nhịp gấp gáp của tiếng trống “dồn” càng trở nên vội vã,
gấp gã hơn. Đó cũng chính là những bước đi thời gian vội vàng đang chảy trôi trước
mắt người con gái. Đồng thời tiếng trống đó cũng chính là sự rối bời trong tâm trạng
của nhân vật trữ tình. Đối diện với nhịp thời gian vội vàng, gấp gáp là hình ảnh “trơ
cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ngay ở đầu câu nhấn mạnh nỗi cô đơn, trơ trọi của
người phụ nữ. Nhưng bên cạnh nỗi đau đớn, xót tủi cho thân phận lại thể hiện một
Xuân Hương thật bản lĩnh. “Trơ” không chỉ là sự bẽ bàng mà còn là thách thức với xã
hội, với cuộc đời. Hai câu thơ đầu là tiếng than cho số phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến, hồng nhan mà bạc mệnh.
Trong cái cô đơn, tội nghiệp đến tột cùng ấy, con người tìm đến rượu để khuây khỏa
nỗi niềm:
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn
Nhưng rượu cũng khơng thể làm cho nhân vật vơi đi nỗi cô đơn, sầu muộn. Chén rượu
uống vào mà lại càng tỉnh hơn, để nhân vật trữ tình càng thấm thía hơn nỗi cơ đơn, lẻ
bóng của mình. Tìm đến trăng làm bạn, để tâm sự trị chuyện thì lại nhận ra thực tại
phũ phàng. Nỗi niềm chất chứa đã thấm dần và lan vào cảnh vật. Quả thực “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Hai câu thơ tác giả sử
dụng rất thành công cụm từ: “say lại tỉnh” cho thấy cái vịng luẩn quẩn, tình dun trở

thành trị đùa của tạo hóa, càng uống lại càng tỉnh, lại càng nhận ra sự hẩm hiu duyên
phận của chính mình; “khuyết chưa trịn” vầng trăng là ngoại cảnh mà cũng chính là
tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa cảnh vật và con người. Trăng sắp tàn mà vẫn
khuyết cũng như con người tuổi xuân vội vã trôi qua mà tình duyên vẫn chưa trọn vẹn.
Bốn câu thơ đầu đã khắc họa sâu sắc nỗi đau, bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Các động từ mạnh “xiên, đâm” kết hợp với “ngang, toạc” đã thể hiện sự ngang ngạnh,
phẫn uất đến tột cùng của nhân vật trữ tình. Nếu như người phụ nữ trung đại nổi bật


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
lên với tính cách cam chịu, khuất phục trước số phận thì ở đây lại xuất hiện một người
phụ nữ hoàn toàn khác. Những sinh vật nhỏ bé đường kia khơng chịu mềm yếu trước
hồn cảnh thực tại, phải mọc xiên, đâm ngang để tìm sự sống. Đá phải kiên cường, rắn
chắc để có thể đâm toạc chân mây. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu thơ đã cho thấy
sự phẫn uất của cỏ cây, đá đó đồng thời cũng chính là nỗi niềm của con người trước
thực tại cuộc sống. Bởi vậy, hình ảnh rêu xiên ngang, đá đâm toạc chân mây cũng
chính là sự phản kháng của người phụ nữ trước thực tại nhiều bất công, ngang trái.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Trong câu thơ có hai chữ “xuân” xuất hiện, chữ “xuân” thứ nhất là tuổi xuân của con
người, “xuân” thứ hai là mùa xuân của vạn vật. Hai chữ xuân này kết hợp với từ “lại”
đã nhấn mạnh tuổi xuân của con người một đi không trở lại, trái ngược với mùa xuân
của thiên nhiên đất trời, mỗi khi xuân của đất trời quay lại đồng nghĩa với tuổi xuân
của con người ngày một rút ngắn, nỗi chán ngán lại càng gia tăng. Thủ pháp nghệ
thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho hoàn cảnh càng trở nên éo le
hơn: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Mảnh tình vốn đã bé, đã nhỏ nay lại phải san sẻ
lại càng trở nên ít ỏi, eo hẹp hơn. Tình cảnh đó thật xót xa, tội nghiệp. Hai câu thơ kết
thể hiện nỗi lịng sâu kín của người phụ nữ trong xã hội cũ: với họ tình yêu, hạnh phúc

thật mong manh, bé nhỏ.
Hồ Xuân Hương là bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ, thơng qua khả năng diễn đạt tư
tưởng, tình cảm của nhân vật trữ tình: tả âm thanh (văng vẳng), tả cảm giác (trơ, say,
lại tỉnh, ngán), tả động thái (xiên ngang, đâm toạc),… Nghệ thuật đảo ngữ tài tình
(xiên ngang, đâm toạc). Giọng điệu thơ phẫn uất, tủi hờn. Tất cả đã hòa quyện với
nhau để diễn tả sự cô đơn, thân phận bé nhỏ của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Với ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi cảm, sử dụng thành công phép đối, tác phẩm vừa
nói lên số phận rẻ rúng, bi kịch người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời còn
cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương nói riêng và của
người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Phân tích Tự tình - Mẫu 8
Tự tình là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xn Hương, đây là bài thơ tự
bày tỏ lịng mình. Như chúng ta cũng biết Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỉ XVIII
– đầu thế kỷ XIX , bà xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy
học. Thế nhưng, Hồ Xuân Hương không chịu gị bó vào cái xã hội eo hẹp, tù túng mà
bà là một người phóng khống, đa tài, đa tình, giao thiệp với những nhà văn, tài tử, đi
rất nhiều nơi. Nhưng éo le thay, người xưa thường có câu “Hồng nhan bạc phận”, bà


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
cũng phải chịu kiếp số lận đận, éo le, đầy ngang trái trong con đường tình duyên. Các
tác phẩm của bà chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Người ta thường gọi
bà là “Bà chúa thơ Nôm”. Hồ Xuân Hương - hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học
Việt Nam.
Bài thơ Tự Tình được viết dưới dạng Đường luật thất ngơn bát cú. Với lối viết sắc sảo
và cũng chính là lời tự bày tỏ lịng mình nên chủ đề bài thơ được hiện lên là một
nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi tác giả cứ lạnh lùng trôi qua.
Điều này dẫn đến tâm trạng vừa buồn vừa phẫn uất, nhưng cuối cùng vẫn đọng lại
trong tâm trí của bà.
Để thấy rõ được nội dung chính, ta sẽ đi vào tìm hiểu sâu qua các câu thơ. Bài thơ

được viết theo thể thơ đường luật bát cú ngôn nên bố cục gồm 4 phần: 2 câu đề, 2 câu
thực, 2 câu luận và 2 câu kết.
Trước hết, tác giả mở đầu với hai câu đề:
“Đêm khuya văng vẳng bóng canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Khung cảnh được hiện lên là một đêm khuya, khi con người chìm sâu vào giấc ngủ,
nhưng cũng chính là lúc người ta đối diện với chính mình và đây cũng là lúc Hồ Xuân
Hương nhận ra được cảnh đáng thương của mình. Sự cơ đơn, lẻ bóng một mình gắn
liền với thời gian, tạo cho người ta một cảm giác thật đáng thương cho thân phận
người phụ nữ. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật lấy động nói tĩnh: âm
thanh “văng vẳng” của tiếng trống cầm canh để nói lên một khơng gian tĩnh lặng,
vắng vẻ. Chính cái khoảnh khắc ấy, tự soi vào mình, tác giả thấy “trơ” mà đặc biệt nó
cịn được đặt ở đầu câu, càng thêm nhấn mạnh nỗi đau, bất hạnh về đường tình dun,
số kiếp “hồng nhan bạc phận” của chính tác giả. “Trơ” ở đây có thể được hiểu là tủi
hổ, bẽ bàng. Tiếp theo nó là “cái hồng nhan” ý nói đến dung nhan của người phụ nữ,
thường được dùng trong xã hội xưa. Nhưng điều đáng chú ý ở đây, một nhân phẩm, vẻ
đẹp của người phụ nữ lại gọi là “cái” gợi cho người đọc thấy được sự rẻ rúng, mỉa mai.
“Cái hồng nhan” trơ với nước non khơng chỉ là sự cay đắng, tủi hổ mà cịn là nỗi xót
xa, thấm thía, càng ngẫm càng thương thân. Nhưng chữ “trơ” ở đây một phần cũng có
thể hiểu được đó chính là sự gan dạ của Xn Hương, là sự thách thức. Để nhấn mạnh
điều này, tác giả đã dùng nhịp thơ: 1/3/3 để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.
Nối tiếp hai câu đề, tác giả viết:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Với hai câu thơ thực trên, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ được hiện lên rõ hơn.
Khi sầu, người ta thường làm bạn với rượu, để có thể qn đi mọi thứ khơng vui,
những nỗi đau. Thế nhưng “say lại tỉnh” làm nỗi buồn khơng thể ngi được. Đây

chính là một vịng quay luẩn quẩn, tình dun đã trở thành một trị đùa, càng say càng
tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau của thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm
trạng. Vì vậy, tạo nên sự đồng nhất giữa tâm trạng và cảnh “ trăng” sắp tàn “bóng xế”
và vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân, cái tuổi đẹp nhất của người con gái đã trôi qua
mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn gợi lên một nỗi sầu lẻ bóng.
Tiếp tục hướng về ngoại cảnh, lấy thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng, nỗi lịng của mình,
Hồ Xn Hương viết:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Hai câu luận ở trên được tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái
của thiên nhiên, nhưng đó cũng chính là tâm trạng của con người. Rêu và đá là hai
hình ảnh được hiện lên là những vật yếu mềm, không chịu chấp nhận sự thấp bé ấy, đã
vươn lên bằng mọi cách, vượt qua những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ
mình. Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc gợi cho người ta
thấy sự ngang ngạnh, phẫn uất. Nó khơng chỉ thể sự phẫn uất mà cịn nói lên một phần
của sự phản kháng. Cũng có thể cho người đọc ngầm hiểu Hồ Xuân Hương với sức
sống mãnh liệt ngay cả khi đau buồn nhất.
Khép lại bài thơ với hai câu kết:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con”
Hồ Xn Hương đã có cách dùng từ rất độc đáo “xuân” tức là mùa xuân, tuổi xuân,
“ngán” tức là ngao ngán, chán. Bên cạnh đó từ “lại” chỉ sự trở lại một cách nhanh, sợ
sự quay trở lại. Theo quy luật của tạo hóa, mùa xuân qua rồi sẽ trở lại. Nhưng mỗi
mùa xuân qua đi lại mang theo tuổi xuân của con người và mãi không trở lại. Sự trở
lại của mùa xuân chính là sự ra đi của tuổi xuân. Tác giả đã quá ngán ngẩm với cuộc
đời éo le. Với lối nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào những điều bé nhỏ, làm cho
nghịch cảnh éo le hơn. Mảnh tình đã nhỏ bé lại còn phải san sẻ “tý con con” tạo nên
một cảm giác xót thương. Đây cũng chính là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội
xưa. Hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp.
Như vậy, bài thơ Tự tình đã hiện lên với những hình ảnh giản dị mà đặc sắc, hình ảnh

giàu sức gợi cảm, tinh tế từ đó nói lên tâm trạng của chủ thể. Bài thơ hiện lên cả bi


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Trong những lúc buồn tủi, bế
tắc, người phụ nữ cố vươn lên nhưng lại vẫn bị rơi vào cái vòng quay luẩn quẩn, tù
túng của xã hội đương thời.
Phân tích Tự tình 2 - Mẫu 9
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim,
là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho
rằng, “thơ là tiếng lòng”. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng
người phụ nữ sống trong xã hội xưa đầy xót xa, tủi hổ, nổi bật là Hồ Xuân Hương với
tác phẩm “ Tự tình II”.
Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ.
Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch nỗi lịng mình.
Họ như những con ong chăm chỉ bay xa để đem về hương phấn làm nơi mật ngọt, tái
tạo tài tình bằng những cảm xúc cá nhân để tạo mật ngọt toả ngát cho đời.
Trong những con ong chăm chỉ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,
Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương nổi lên là một hiện tượng văn học độc đáo chuyên viết
về phụ nữ với thể loại trữ tình và trào phúng, kết hợp văn học dân gian và văn học bác
học. Xuyên suốt các tác phẩm của bà là nỗi lòng người phụ nữ với những đau xót,
buồn tủi về thân phận và khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Bài thơ “ Tự tình
II” đã thể hiện rõ điều đó. Mở đầu bài thơ, chúng ta như đồng cảm với tâm trạng cô
đơn, buồn tủi của Hồ Xuân Hương:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Câu thơ mở ra không gian vắng lặng, yên tĩnh trong đêm khuya tĩnh mịch. Trong
không gian nghệ thuật ấy, cùng với bước đi vội vã của thời gian “ trống canh dồn”,
“ trơ” lại “ cái hồng nhan với nước non”. “ Trơ” nghĩa là trơ trọi gợi lên nỗi cơ đơn, cơ
độc nhưng cũng có nghĩa là trơ trẽn gợi lên nỗi xấu hổ, bẽ bàng. “Trơ” lại một "cái

hồng nhan” gợi lên sự mỉa mai, rẻ rúng cùng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, cô đơn của một thân
phận phụ nữ nhỏ bé và bất hạnh. Không chỉ cơ đơn, buồn khổ, bài thơ cịn thấm đượm
nỗi xót xa, bẽ bàng, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn.”
Cụm từ “ say lại tỉnh” tạo nên một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng là vòng luẩn quẩn
của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Mượn rượu để men cay làm quên sự đời,


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
quên đi những tủi hổ, bẽ bàng nhưng, hơi rượu cũng không thể xua tan đi nỗi đau thân
phận. Như vậy, uống rồi say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi đau, đau rồi lại uống.
Ở đây, người phụ nữ đau bởi nhận thức rõ “vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”.
Hình ảnh ẩn dụ đầy sức gợi thể hiện rõ nỗi đau tột cùng của nhân vật trữ tình bởi tuổi
xuân sắp qua đi như “ vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên chưa trọn vẹn nên “ khuyết
chưa tròn”. Dường như càng khao khát một hạnh phúc nhỏ nhoi, người phụ nữ càng
xót xa, đau đớn cho phận mình. Đau đớn, xót xa ắt dẫn đến phẫn uất, phản kháng.
Người phụ nữ đã phản kháng lại số phận để mong muốn thay đổi cuộc đời:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Phép đảo ngữ đưa những động từ mạnh “ xiên ngang”, “ đâm toạc” lên đầu câu nhấn
mạnh sự phẫn uất phản kháng của người phụ nữ. “ Rêu”, “ đá” là những vật vơ tri, bé
nhỏ, yếu mềm chính là thân phận người phụ nữ tuy nhỏ bé, tầm thường, vô dụng trong
xã hội “ trọng nam khinh nữ” nhưng cũng mang sức mạnh phản kháng, đấu tranh đòi
quyền sống, quyền hạnh phúc.
Quyền được sống, được tự do yêu đương và nhu cầu hạnh phúc là điều nhỏ nhoi mà
bất kỳ người phụ nữ nào cũng được hưởng. Nhưng, chế độ xã hội xưa không cho phép
họ được sống với quyền lợi chân chính của mình. Xã hội với tư tưởng “ trọng nam
khinh nữ”, với quan niệm vạn đời bất biến “ trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
đã ngang nhiên chà đạp lên cuộc đời người phụ nữ. Cố ngoi đầu lên họ lại bị dìm

xuống sâu hơn nữa. Cố phản kháng họ lại chuốc thêm đau buồn:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mối tình san sẻ tí con con.”
Câu thơ thể hiện nỗi chán chường, ngao ngán khi tuổi xuân con người ra đi mà không
bao giờ trở lại. “ Xuân” vừa là mùa xuân của đất trời vừa là tuổi xuân của con người.
Cùng là “ xuân” thế nhưng xuân của đất trời đi rồi đến cịn xn của con người một đi
khơng trở lại. Bởi thế, sao tránh khỏi nỗi đau buồn, tủi hổ!
Đã nhiều lần chính nhà thơ lên tiếng “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” nhưng rồi
lại đau buồn bởi quy luật “ gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” (Nguyễn Du). Khao khát
hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ cịn lại sự xót xa của một thân phận hai lần
làm lẽ. “ Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Chỉ đơn độc, duy nhất một “ mảnh tình” nhưng cũng phải “ san sẻ” từng “ tí con con”.
Tấm lịng cơ độc mềm yếu nhưng cũng chẳng được vẹn toàn. Trong xã hội phong kiến,


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
hạnh phúc với người phụ nữ như một chiếc chăn quá hẹp, người này ấm thì người kia
lạnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”.
Cả bài thơ “ Tự tình II” tốt lên nỗi đau thân phận của Hồ Xuân Hương cũng là nỗi
đau của tất cả người phụ nữ trong xã hội đương thời. Đó là tâm trạng vừa đau buồn,
vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Tất
cả khái quát thành quy luật như Nguyễn Du đã viết trong “ Truyện Kiều”:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
“Tự tình II” giúp người đọc thấu hiểu nỗi đau thân phận và khát vọng mạnh mẽ muốn
vươn lên số phận của người phụ nữ qua nỗi đau và khát vọng của Hồ Xuân Hương
nhưng cũng giúp ta nhận ra và trân trọng tài năng độc đáo của “ Bà chúa thơ Nôm”
trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình ảnh. Quả là “ Nghệ thuật làm nên
câu thơ, trái tim làm nên thi sĩ”.
“Tự tình II” chính là tiếng lòng của Hồ Xuân Hương đúng như nhận định “ Thơ là

tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất ánh sáng
của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức bước đi nghiệt
ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ “ Tự tình” vẫn in
sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.
Phân tích Tự tình 2 - Mẫu 10
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa luôn là đề tài phổ biến trong văn
học. Khi phân tích Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương, chúng ta sẽ thấy được nỗi buồn và
cơ đơn thấm thía của người phụ nữ luôn yêu đời và tràn đầy sức sống nhưng lại bị
cuộc sống vùi dập với nhiều bất hạnh ngang trái.
Mở đầu bài thơ, hai câu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyền ở nơi
dòng sơng đến khắp mọi chịm xóm, thơn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những
canh dài. Tiếng gà gáy “văng vẳng” trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển
canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy “văng vẳng” như thế.
Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi
làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng "oán hận" của người phụ nữ thao thức
suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi
“trông ra" màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cơ
đơn, ốn hận:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,


Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Oán hận trông xa khắp mọi chòm”.
Hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh “mõ thảm" và “chng sầu"
đối nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong
cảnh ngộ quá lứa lỡ thì, trắc trở trong tình duyên, vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để
khẳng định tiếng "cốc" của “mõ thảm", tiếng “om” của “chuông sầu". Nữ sĩ đã và
đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cơ
đơn như “mõ thảm”, chẳng ai khua “mà cũng cốc”, tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ
bóng chăn đơn như “chng sầu" chẳng đánh “cớ sao om".

Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thấm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang toả rộng
trong khơng gian “khắp mọi chịm", như kéo dài theo thời gian của những đêm dài.
“Om” là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau
đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng
người như một lời than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao
ngán:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”
Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như
“Thân em vừa trắng lại vừa trịn” (Bánh trơi nước), “Hai hàng chân ngọc duỗi song
song” (Đánh đu),… ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được
diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.
Lời than tự tình trong cơ đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà “rầu rĩ” thêm, giận
hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu: “Trước nghe" đối với “sau giận"; “tiếng" hô ứng
với “duyên”-, “rầu rĩ" là tâm trạng đối với “mõm mòm" là trạng thái. "Trước nghe
những tiếng…”, là những tiếng gì? – Tiếng của miệng thế? Hay tiếng gà văng vẳng
gáy, tiếng “chuông sầu", tiếng "mõ thảm" đáng “cốc”, đang “ơm" trong lịng mình?
Giữa cảnh khuya thao thức, càng nghe càng thêm “rầu rĩ", buồn tủi. Giữa lúc tàn canh
thao thức, càng nghe càng “giận”, càng hờn về tình dun bẽ bàng. Tình dun của
mình được ví với trái cây, khơng cịn “má hây hây gió" (Xn Diệu) nữa mà đã chín
“mõm mịm", nghĩa là q chín, đã nẫu đi! “Duyên mõm mòm" là duyên phận hẩm
hiu, q lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân
trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên.
Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương
cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cơ đơn lẻ bóng: “Giật
mình mình lại thương mình xót xa" (Truyện Kiều)Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ.


×