Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tìm hiểu về ngôi đền taj mahal ở ấn độ từ biểu tượng của tình yêu bất diệt cho đến kiệt tác kiến trúc của nhân loại và ảnh hưởng của ngôi đền đến kiến trúc hồi giáo tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.85 MB, 21 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA: VIỆT NAM HỌC

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ NGƠI ĐỀN TAJ MAHAL Ở ẤN ĐỘ
TỪ BIỂU TƯỢNG CỦA TÌNH YÊU BẤT DIỆT CHO ĐẾN KIỆT
TÁC KIẾN TRÚC CỦA NHÂN LOẠI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NGÔI ĐỀN ĐẾN KIẾN TRÚC HỒI GIÁO TẠI VIỆT NAM
Học phần

: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Huế, tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………… Trang 1- 4
I. Lý do chọn đề tài
II. Lịch sử nghiên cứu
III. Mục tiêu nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
V. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
VI.

Bố

cục

nghiên



cứuB.

NỘI

DUNG

…………………………………………………………………........Trang 5-15
I. Câu chuyện về tình yêu bất diệt và lịch sử ra đời đền Taj Mahal

Trang 5-7

II. Lịch sử hình thành và phát triển đền Taj Mahal

Trang 7-8

III. Những nét đặc trưng về kiến trúc của đền Taj Mahal

Trang 8-12

IV. Ảnh hưởng của kiến trúc đền Taj Mahal nói chung và kiến trúc Hồi giáo nói riêng đến kiến
trúc Hồi giáo tại Việt Nam.

Trang 13-14

C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ …………………..……………………………… Trang 15
I. Tóm tắt nội dung chính của đề tài
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH MINH HỌA


Trang 15


A. MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một quốc gia nằm ở phía Nam châu Á có nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ vào bậc
nhất của thế giới. Đây cũng là mảnh đất thu hút nhiều tôn giáo du nhập vào. Kiến trúc và điêu khắc là
một thành tựu vô cùng lớn trong kho tàng nghệ thuật Ấn Độ. Nền văn minh phương Đơng nói chung
và Ấn Độ nói riêng ln tự hào về những thành tựu kiến trúc nổi tiếng của Ấn Độ. Từ khoảng 3000
năm trước công nguyên, kiến trúc Ấn Độ đã mang đậm nét đặc trưng của một thời kỳ hưng vượng.
Trong khoảng thời gian này, kiến trúc Ấn Độ cổ đại đã thể hiện rõ sự ảnh hưởng của tôn giáo trong
từng kiến trúc xây dựng. Nó khơng chỉ có kiến trúc độc đáo mà cịn có ý nghĩa tâm linh trong cuộc
sống. Khơng khó để nhận thấy, so với kiến trúc của các nền văn minh khác, thì kiến trúc Ấn Độ cổ đại
là kiến trúc thể hiện tôn giáo rõ nét. Nghệ thuật kiến trúc phát triển với các cơng trình tiêu biểu như:
cung điện, chùa, tháp, trụ đá, ...Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật lớn ở Ấn Độ, đó là Hinđu giáo, Phật
giáo và Hồi giáo.
Qua những cơng trình nghệ thuật kiến trúc, ta sẽ có góc nhìn đặc biệt hơn về nền văn minh Ấn Độ.
Một nền văn minh nghệ thuật cổ xưa, mang đậm những nét lịch sử mà thời gian cũng khơng thể xóa
mờ. Những cơng trình kiến trúc Ấn Độ vĩ đại và nổi tiếng nhất có thể kể đến như: Cụm thánh tích
Mahabalipuram- di tích được tọa lạc ngay cửa con sơng Palar, liền bên bờ vịnh Bengal (gần thành
Madras) ở miền Nam Ấn Độ, đây được biết đến là một cụm đền thờ hay Thánh tích nổi tiếng vào bậc
nhất của Ấn Độ; Lăng mộ Humayun- lăng mộ của hoàng đế Mogul Humayun tọa lạc ở Đông
Nizamuddin, New Delhi, Ấn Độ. Lăng mộ này được tìm thấy vào năm 1533. Cơng trình lăng mộ này
được sử dụng đá sa thạch đỏ có quy mô lớn và vào năm 1993, lăng mộ Humayun được công nhận là di
sản thế giới; Harmandir Sahib- đuợc biết đến là ngôi đền thiêng liêng nhất của đạo Sikh, tọa lạc ở
thành phố Amritstar, Punjab của Ấn Độ; Cung điện Mysore- một trong những cung điện lộng lẫy xa
hoa bậc nhất Ấn Độ. Cơng trình kiến trúc này là sự pha trộn hoàn hảo của nhiều phong cách khác nhau
như: Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Rajput và Gothic; khu hang động Ajanta- được xem là một minh chứng
lịch sử rất quan trọng trong sự phát triển của đạo Phật ở đất nước Ấn Độ hay trong số đó phải kể đến
đền Taj Mahal- biểu tượng tình yêu bất diệt nổi tiếng và là di sản văn hóa thế giới tại Ấn Độ. Mỗi
cơng trình kiến trúc Ấn Độ đều có nét đặc trưng tiêu biểu và vẻ đẹp khác nhau nhưng đền Taj Mahal

thật sự là một công trình kiến trúc vĩ đại có ý nghĩa khơng chỉ riêng với Ấn Độ mà cịn được thế giới
cơng nhận, kiến trúc độc đáo của ngơi đền có ảnh hưởng lớn đến những cơng trình kiến trúc Hồi giáo
trên thế giới nói chung và kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam nói riêng.


1
I.

Lý do chọn đề tài
Trong rất nhiều cơng trình kiến trúc nổi tiếng của Ấn Độ thì đền Taj Mahal để lại ấn tượng rất

lớn trong lòng những người đã ghé thăm hay chỉ tình cờ biết đến nó. Khơng chỉ là một cơng trình
kiến trúc Hồi giáo vĩ đại được xây dựng hết sức lung linh tráng lệ mà nó cịn được xây dựng với ý
nghĩa là một món q tình u gửi tặng đến hồng hậu Mumtaz Mahal- người mà hoàng đế Shah
Jahan yêu thương nhất. Sự ra đời của ngôi đền bắt đầu bằng một câu chuyện tình mà ai đến cố đơ
Agra cũng phải nghe và có ấn tượng sâu sắc về nó. Vào năm 1983 đền Taj Mahal đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Chính vì vậy, mà tơi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu về
ngơi đền Taj Mahal ở Ấn Độ - từ biểu tượng của tình yêu bất diệt cho đến kiệt tác kiến trúc của
nhân loại và ảnh hưởng của ngôi đền đến kiến trúc hồi giáo tại Việt Nam”.
II.

Lịch sử nghiên cứu
Đền Taj Mahal là công trình nổi tiếng bậc nhất của Ấn Độ thu hút sự quan tâm nghiên cứu của

nhiều người. Thực tế có rất nhiều tài liệu về ngôi đền từ những năm mới xây dựng cho đến tận ngày
hôm nay. Tuy nhiên, những bài luận trước đó chỉ khai thác một khía cạnh của ngơi đền đó là kiến
trúc, trang trí bên ngồi, bên trong của đền mà khơng khai thác tất cả các khía cạnh đầy đủ như lịch
sử ra đời, hình thành, phát triển và những nét độc đáo về mặt kiến trúc của đền Taj Mahal và ảnh
hưởng của nó đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam. Chính vì vậy, đề tài: “Tìm hiểu về ngơi đền Taj
Mahal ở Ấn Độ - từ biểu tượng của tình yêu bất diệt cho đến kiệt tác kiến trúc của nhân loại và

ảnh hưởng của ngôi đền đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam” không bị trùng lặp với bất kì bài
luận nào về đền Taj Mahal trước đó.
III.

Mục tiêu nghiên cứu

Bài luận tìm hiểu về những khía cạnh của ngơi đền Taj Mahal như: lịch sử xuất hiện, hình thành,
những nét độc đáo về kiến trúc và ảnh hưởng của ngôi đền đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam. Bài
luận giúp người đọc hiểu rõ về những khía cạnh đó, trả lời cho các câu hỏi mà nhiều người thắc
mắc như:
-

Tại sao ngôi đền Taj Mahal được xây dựng? Qúa trình hình thành và phát triển của nó?

-

Tại sao kiến trúc của ngôi đền Taj Mahal lại được xem là kiệt tác kiến trúc của nhân loại?


2
Kiến trúc của Taj Mal có ảnh hưởng đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam như thế nào?

-

IV.

Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích, tìm hiểu đề tài về ngồi đền Taj Mahal ở Ấn Độ một cách đầy đủ và hiệu quả nhất,

người viết đã sử dụng một số phương pháp sau:

1. Phương pháp luận

Bài luận tìm hiểu, nghiên cứu được dựa trên quan điểm, lập trường của nhiều nguồn thông tin
đáng tin cậy như sách, báo kết hợp với quan điểm, lập trường của người làm bài luận.
2. Phương pháp thu thập thơng tin

Bài luận phân tích nghiên cứu tài liệu về đối tượng là ngôi đền Taj Mahal từ nhiều nguồn trên
sách, báo, internet.
V.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính là ngôi đền Taj Mahal ở Ấn Độ. Cụ thể là lịch sử ra đời, hình
thành, phát triển, những kiến trúc độc đáo và ảnh hưởng của ngơi đền nói tiêng và kiến trúc
Hồi giáo nói chung đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu

Bài luận tìm hiểu, nghiên cứu về ngơi đền Taj Mahal ở Ấn Độ được thực hiện tại nhà chỉ
thông qua những thơng tin trên những nguồn internet đáng tin cậy vì tình hình dịch bệnh
COVID 19 hiện nay. Bài luận được bắt đầu và hoàn thành trong tháng 12 năm 2021. Bài
luận tìm hiểu, nghiên cứu nhiều khía cạnh của ngơi đền khi ra đời đến khi được công nhận
là một kiệt tác kiến trúc của nhân loại, những kiến trúc độc đáo từ cả bên trong lẫn bên
ngồi ngơi đền và ảnh hưởng của ngôi đền đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam.
3


VI.

Bố cục nghiên cứu

Bố cục bài luận nghiên cứu về ngôi đền Taj Mahal ở Ấn Độ gồm 4 chương riêng biệt với nội

dung từng chương như sau:
Chương I: Lịch sử ra đời đền Taj Mahal
Chương II : Lịch sử hình thành và phát triển đền Taj Mahal
Chương III: Những nét đặc trưng về kiến trúc của đền Taj Mahal
Chương IV : Ảnh hưởng của kiến trúc đền Taj Mahal nói chung và kiến trúc Hồi giáo nói riêng
đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam.

4


B. NỘI DUNG
I. Câu chuyện về tình yêu bất diệt và lịch sử ra đời đền Taj Mahal
Lịch sử xây dựng Taj Mahal gắn liền với câu chuyện về tình u bất diệt của hồng đế Shah
Jahan (lên ngơi năm 1627) với người vợ yêu quý là hoàng hậu Mumtaz Mahah.
Shahab-ud-din Muhammad Shah Jahan I (còn gọi là Shah Jehan) (5.01.1592 - 31.1.1666) là vua
của đế quốc Mogul ở tiểu lục địa Ấn Độ từ năm 1628 đến 1658. Là một trong những Hoàng đế kiệt
xuất của Mogul, Shah Jahan rất quan tâm đến nghệ thuật và kiến trúc đã được thể hiện trong việc xây
dựng các thánh đường và lăng tẩm lớn như Taj Mahal ở Agra, lăng mộ dành cho người vợ yêu quý của
ông là Mumtaz Mahal (1593-1631). Nhà vua dời đô từ Agra tới thành phố Delhi, tái thiết lại
thành Shjahanabad, và cho xây dựng một pháo đài tại đây, thường được gọi là Pháo đài Đỏ. Mặc dù
Shah Jahan là tín đồ Hồi giáo, Ấn Độ giáo rất được ưa chuộng; hội họa và văn học phát triển và các
cung điện nổi tiếng với vẻ đẹp hoành tráng. Tuy nhiên, cũng như Jahangir, Shah Jahan là một ông vua
tàn bạo vô độ, và trong thời gian ơng trị vì nhân dân đã phải gánh chịu đủ thứ thuế má, lao dịch, binh
dịch. Năm 1658, Shah Jahan ngã bệnh, những người con của ông đã chém giết lẫn nhau để giành ngai
vàng, đó là một nguyên nhân dẫn đến sự xuống dốc của nhà Mogon.
Mumtāz Mahal (4.1593 – 17.6.1631) là tên thường gọi của hoàng hậu Arjumand Banu Begum, vợ
hoàng đế Shah Jahan của đế quốc Mogul. Phụ thân của bà là nhà quý tộc người Ba Tư Abdul Hasan
Asaf Khan, từng là thống sứ của Lahore, ơng cũng là anh trai của Nur Jahan (hồng hậu của tiên

đế Jahangir). Mumtāz Mahal là người theo đạo Hồi thuộc hệ phái Shia (Shi'a Muslim), bà lấy hoàng tử
Khurram (tên khai sinh của Shah Jahan) vào ngày 10 tháng 5 năm 1612 khi được 19 tuổi. Shah Jahan
lên nối ngôi năm 1627. Bà là người vợ thứ ba của ông và rất được sủng ái.
Truyền thuyết kể lại rằng hồng đề Jahan, lúc bấy giờ đang cịn là hoàng tử Khurram, sẽ trở thành
vị Hoàng Đế thứ năm của triều đại Moghol, là con trai của vua Jahangir, là cháu trai của Akbar, là một
người thanh niên trẻ đẹp trai mới 16 tuổi mà tài năng của chàng đã được nhiều người biết đến : tính
tình can đảm, hiếu chiến, có khiếu làm thơ, hát hay, và viết đẹp … Tại chợ Meena, người chàng bỗng
dưng như bất động khi nhìn thấy nàng cơng chúa Arjumand Banu Begam, tuổi 15 xinh đẹp. Ngay lúc
đó thì chàng đã trúng tiếng sét ái tình. Ngay hơm sau, hồng tử xin vua cha cho phép cưới nàng
Arjumand về làm vợ. Vua cha Jahangir chấp nhận lời đề nghị của Hoàng tử, nhưng nhà vua yêu cầu
phải đổi sang ngày khác theo lời các nhà chiêm tinh trong triều đình. Thế rồi một năm trơi qua, Hồng
Tử Khurram lấy vợ nhưng khơng phải kết hôn với người mà chàng đã từng yêu dấu như đề nghị với
vua cha ban đầu, mà kết hôn với nàng công chúa Ba Tư. Phong tục Hồi Giáo là đa thê, nên hoàng tử
của những triều đại Moghols sẽ phải duy trì một số lớn hầu thiếp.
5


Nhưng cặp tình nhân cịn phải chờ đợi 5 năm, mà khơng thể nói chuyện với nhau, cũng khơng trao
đổi trước khi có thể cưới nhau vào ngày được các nhà chiêm tinh gia trong triều đình ấn định là ngày
27/03/1612, lúc này Hồng Tử Khurram đã có hai vợ. Ngày đó đã đến, theo phong tục của Hồi Giáo
buổi lễ đã diễn ra tại nhà tân giai nhân, nhưng vào lúc nửa đêm, nhà vua cho triệu tập những khách mời
để cùng tham gia yến tiệc, niềm hân hoan cực hiếm. Dưới vẻ đẹp yêu kiều của nàng dâu, nhà vua
phong cho nàng nhiều danh hiệu cao qúy và đặt lại tên cho nàng. Từ nay về sau, nàng sẽ khơng cịn là
nàng cơng chúa Ba Tư nữa, mà tên mới của nàng là “Mumtaz Mahal”, tên này mang ý nghĩa là “ người
được yêu mến nhất trong cung điện”. Sau ngày cưới, đôi vợ chồng son quyến luyến nhau không rời
nửa bước, nàng Mutaz Mahal rất xinh đẹp, có tấm lịng cao thượng được mọi người q trọng, và nàng
được xem như mẫu người phụ nữ lý tưởng. Về phía hồng tử, chàng ngày càng trưởng thành và ra vẻ
đàn ông, chỉ 16 năm sau, ngày 4 tháng Giêng năm 1628, chàng được tiến cử ngôi báu Moghol và lấy
hiệu là Hoàng Đế Shah Jahan. Lúc sinh thời, Mumtaz Mahal được vua yêu chiều và tin tưởng đến nỗi
được giao cho cả con dấu hoàng gia, được các nhà thơ đương thời không ngớt làm thơ ngợi ca vẻ đẹp,

sự quyến rũ và lịng nhân hậu.
Năm 1631, hồng hậu Muntaz Mahah không may qua đời khi sinh đứa con gái thứ hai, và cũng
là đứa con chung thứ mười bốn của họ. Bà qua đời khi chỉ đang ở tuổi 39. Hồng đế Shah Jahan được
cho là khơng thể khuây khoả trước mất mát đó. Những cuốn biên niên sử triều đình thời kỳ đó chứa
nhiều câu chuyện liên quan tới nỗi buồn đau của Shah Jahan trước cái chết của hồng hậu, chúng chính
là cơ sở của những câu "chuyện tình" thường được cho là cảm hứng tạo nên ngôi đền Taj Mahal. Sau
khi người vợ yêu dấu mất đi, Shah Jahan lui vào phòng ở ẩn không thiết triều trong một năm. Khi xuất
hiện trở lại, tóc ơng bạc trắng, lưng cịng đi và mặt đầy nếp nhăn. Shah Jahan dành toàn bộ quỹ thời
gian sống còn lại để chỉ huy việc xây lăng mộ ở Agra. Tuy nhiên bất hạnh thay, ơng đã bị chính
Aurangzeb, con trai của mình và bà vợ yêu Mumtaz Mahal, tiếm ngơi. Hồng tử Aurangzeb đã giết
chết ba anh trai cùng cha khác mẹ và bắt giam vua cha vào pháo đài Agra. Cho đến tận lúc cuối đời,
Shah Jahan chỉ được phép ở trong tịa tháp có ban cơng trơng ra lăng mộ Taj Mahal. Ơng chỉ có thể
ngắm mộ vợ từ xa mà không thể đến thăm bà. Kịch bản này hầu như lặp lại lần đảo chính bất thành
của Shah Jahan đối với vua cha Jahangir 36 năm về trước . Nhà sử gia Abd al-Hamid Lahawri, đã ghi
chép rằng : “trước khi bà chết vị hoàng đế có hai mươi sợi râu bạc, nhưng sau đó khơng cịn sợi nào
khơng bạc cả.” Trước khi nhắm mắt, hoàng hậu Mumtaz đề nghị đề nghị hoàng đế xây cho mình một
lăng mộ để kỷ niệm tình yêu của họ. Ngay sau đó, vì tình u dành cho hồng hậu, hoàng đế Shah
Jahan đã cho xây dựng và tự mình theo dõi việc xây dựng ngơi đền Taj Mahal trong 16 năm từ năm
1632 đến năm 1648 để có được một món quà tặng cho người vợ quá cố trên bờ nam sông Yamuna.
6


Đến thăm ngôi đền Taj Mahal ở cố đô Agra nm 1663, nh du lch ngi Phỏp Franỗois Bernier ó viết
:
Tơi sẽ kết thúc bức thư này với những dịng miêu tả về hai lăng mộ tuyệt vời và chúng chính là
sự vượt trội đáng kể nhất của Agra trước Delhi. Một lăng được Jehan-guyre [sic] xây lên để
vinh danh người cha Ekbar và Chah-Jehan đã xây lăng kia để tưởng nhớ vợ mình Tage Mehale,
một phụ nữ đẹp và nổi tiếng khác thường, người được chồng yêu thương rất mực tới mức có ghi
chép rằng trong suốt cuộc đời và khi bà chết đức vua đã luôn ở bên và hầu như đã muốn theo bà
vào trong mộ.

Chương II : Lịch sử hình thành và phát triển đền Taj Mahal
Taj Mahal được xây trên một vùng đất ở phía nam của thành phố cổ Agra. Khu vực có diện tích
gần 3 acre (khoảng 12.000 m2) được đào lên, lấp đầy bụi để giảm thấm, và ở độ cao 50 mét (160 ft) so
với bờ sông. Ở khu vực mộ, các giếng được đào lên và lấp đầu cuội sỏi để tạo móng cho mộ. Thay vì
dùng tre chống đỡ, những người thợ đã xây dựng một giàn giáo bằng gạch lớn phản chiếu ngôi mộ.
Giàn giáo rất to lớn theo ước tính mất khoảng vài năm để những người thợ tháo dỡ nó.
Theo truyền thuyết, Shah Jahan ra lệnh rằng bất cứ ai cũng có thể giữ những viên gạch lấy từ giàn
giáo, và do đó nó đã bị những người nông dân tháo dỡ chỉ trong một đêm. 15 km (9,3 mi) đường dốc
bằng đất đầm nện được xây dựng để vận chuyển đá cẩm thạch và các vật liệu khác đến để xây dựng
cơng trình và các đội gồm 20 hoặc 30 con lạc đà được dùng để kéo các khối đá trên các toa xe có cấu
tạo đặc biệt. Một hệ thống ròng rọc phức tạp được sử dụng để nâng các khối đá lên đến vị trí thiết kế.
Nước được lấy từ sơng bằng một loạt các purs, theo cơ chế dùng sức kéo của súc vật, đổ vào một hồ
chứa nước lớn và đưa lên các bồn phân phối lớn. Nó được đưa qua 3 bồn chứa nhỏ hơn, từ đó cấp đến
các phức hợp.
Các trụ và ngôi mộ mất khoảng 12 năm để hồn thành. Phần cịn lại của khu phức hợp mất thêm 10
năm và đã được hoàn thành theo thứ tự tháp, nhà thờ Hồi giáo và Jawab, và cổng. Vì phức hợp được
xây dựng trong nhiều giai đoạn, nên có sự khác biệt về ngày hoàn thành do những quan điểm khác
nhau về sự "hồn thành". Ví dụ, riêng lăng mộ, về cơ bản hồn thành năm 1643, nhưng cơng việc vẫn
cịn tiếp tục để hồn thành những phần cịn lại của khu phức hợp. Dự tốn chi phí xây dựng có sự khác
biệt do những khó khăn trong dự tốn chi phí theo thời gian. Tổng chi phí đã được ước tính là khoảng
32 triệu Rupees tại thời điểm đó.
7


Vật liệu xây dựng Taj Mahal được lấy từ nhiều nơi trên khắp Ấn Độ và châu Á và có hơn 1000 con
voi được sử dụng để vận chuyển vật liệu xây dựng. Đá cẩm thạch trắng mờ được mua từ Makrana,
Rajasthan, jasper từ Punjab, jade và pha

lê từ


Trung

Quốc. Turquoise từ Tây

Tạng và Lapis

lazuli từ Afghanistan, trong khi sapphire từ Sri Lanka và carnelian từ Ả Rập. Tổng cộng có 28 loại đá
quý và bán quý được khảm vào đá cẩm thạch trắng. Việc xây dựng Taj Mahal đã được giao cho một
hội đồng quản trị của kiến trúc sư dưới sự giám sát của triều đình, bao gồm Abd ul-Karim Khan
Ma'mur, Makramat Khan, và Ustad Ahmad Lahauri.
Có đến 20.000 lao động được sử dụng từ khắp miền bắc Ấn Độ. Các nhà điêu khắc từ Bukhara,
nhà thư pháp từ Syria và Ba Tư, người xếp lớp đá từ miền nam Ấn Độ, người cắt đá từ Baluchistan,
một chuyên gia trong việc xây dựng tháp pháo, một người chỉ chuyên khắc hoa trên đá cẩm thạch,
trong tổng số 37 người tạo ra tuyệt tác này.
Chương III: Những nét đặc trưng về kiến trúc của đền Taj Mahal
Taj Mahal được coi là hình mẫu tuyệt vời nhất của Kiến trúc Mogon, một phong cách tổng hợp các
yếu tố của các phong cách Kiến trúc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, và Hồi giáo. Tuy phần mái
vòm bằng đá cẩm thạch trắng của lăng là phần nổi bật nhất, thực tế Taj Mahal là một tổng hợp các
phong cách kiến trúc. Nó được liệt vào danh sách các Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO năm
1983 và được miêu tả là một "kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giới".
Việc xây dựng Taj Mahal đã được giao phó cho một hội đồng quản trị của kiến trúc sư dưới sự giám
sát của triều đình, bao gồm Abd ul-Karim Khan Ma'mur, Makramat Khan, và Ustad Ahmad
Lahauri. Lahauri được coi là người thiết kế chính.
Lăng Taj Mahal là nơi phát triển nhiều truyền thống kiến trúc, đặc biệt là kiến trúc Hindu, Ba Tư và
kiến trúc Mogon trước đó. Một số cảm hứng đặc trưng lấy từ một số cơng trình Timur và Mogon đã
thành cơng trước đó. Chúng gồm Gur-e Amir (mộ của Timur, người khởi lập triều Timur,
tại Samarkand), Mộ của Humayun, Mộ Itmad-Ud-Daulah (thỉnh thoảng được gọi là Baby Taj), và
chính Jama Masjid của Shah Jahan tại Delhi. Dưới sự bảo trợ của ơng, cơng trình Mogon đã đạt tới
đỉnh cao hồn thiện mới. Trong khi các cơng trình Mogon chủ yếu được xây bằng đá sa thạch đỏ, Shah
Jahan đã sử dụng đá cẩm thạch trắng được khảm các loại đá bán quý khác để xây Taj Mahal.

Các thợ thủ công Hindu, đặc biệt là các nhà điêu khắc và thợ đá, đã mở rộng phạm vi bn bán ra tồn
châu Á vào thời điểm đó, và tài nghệ của họ được những người chịu trách nhiệm xây lăng mộ lưu tâm
tìm kiếm. Tuy kiến trúc cắt đá là đặc điểm chủ yếu của những cơng trình xây dựng ở thời kỳ đó

8


nhưng nó lại ít ảnh hưởng tới Taj Mahal (chạm khắc chỉ là một hình thức của yếu tố trang trí), các cơng
trình Ấn Độ khác như cung điện Man Singh tại Gwalior là một nguồn cảm hứng cho hầu hết kiến trúc
cung Mogon và cũng là nguồn cảm hứng của đài kỷ niệm chhatris bên trong Taj Mahal.
Vườn:
Phức hợp này được đặt trong và ngoài một charbagh lớn (Charbagh có nghĩa phản chiếu các khu
vườn thiên đàng). Một Vườn Mogon tiêu chuẩn thường được chia thành bốn phần. Với kích thước 320
m × 300 m, vườn có những đường đi đắp cao chia mỗi phần của nó thành 16 bồn hoa hay luống
hoa thấp. Một bể nước bằng đá marble cao ở trung tâm vườn, khoảng giữa mộ và cổng chính, và
một bể phản chiếu gióng theo trục bắc nam phản chiếu hình ảnh Taj Mahal. Mọi nơi trong vườn đều
được bố trí những đường đi với các hàng cây và vịi phun nước.
Vườn charbagh được vị hồng đế Mogon đầu tiên là Babur đưa vào Ấn Độ, đây là kiểu thiết kế lấy
cảm hứng từ các vườn cây Ba Tư. Trong các văn bản thần bí Hồi giáo thời kỳ Mogon, thiên đàng được
miêu tả là một khu vườn lý tưởng, phong phú. Nước đóng một vai trị quan trọng trong những phần
miêu tả đó: Ở Thiên đường, những cuốn sách đó viết: bốn con sơng bắt nguồn từ một dòng suối ở
trung tâm hay một quả núi, và chúng chia khu vườn thành bốn phần bắc, tây, nam và đơng. Đa số các
charbagh của Mogon đều có hình tam giác, với một ngơi mộ hay ngơi đình lớn ở trung tâm vườn.
Vườn Taj Mahal lại đặt yếu tố chính, ngơi mộ, ở phía cuối chứ khơng phải ở giữa vườn. Nhưng sự tồn
tại của một Mahtab Bagh hay "Vườn Ánh trăng" mới được khám phá ở phía bên kia Yamuna cho ta
một cách giải thích khác- rằng chính Yamuna được tích hợp vào thiết kế vườn, và mang ý nghĩa là một
trong những dịng sơng của Thiên đường. Cách bố trí của khu vườn, và các đặc điểm kiến trúc của nó
như các vịi phun nước, gạch, và các lối đi lát đá marble, những luống hoa theo các hình khác nhau
cùng những đặc điểm khác, tương tự với Shalimar, và cho thấy vườn có thể cũng đã được kiến trúc
sư Ali Mardan thiết kế. Những lời miêu tả đầu tiên về khu vườn nói tới sự phong phú của các loài thực

vật, gồm hoa hồng, thuỷ tiên hoa vàng, và các loại cây ăn quả. Khi Đế quốc Mogon suy tàn, khu vườn
cũng tàn tạ theo. Khi người Anh nắm quyền kiểm soát Taj Mahal, họ đã thay đổi cảnh quan để khiến
nó giống với những vườn cỏ tại Ln Đơn.
Các cơng trình phía ngồi:
Phức hợp Taj Mahal được bao quanh bởi một bức tường đá sa thạch đỏ có bố trí lỗ châu mai ở ba
cạnh. Mặt quay ra con sơng khơng có tường bao. Bên ngồi bức tường là nhiều cơng trình phụ trợ
khác, gồm cả lăng mộ của những người vợ khác của Shah Jahan, và một ngôi mộ lớn cho người hầu
thân cận của Mumtaz. Các cơng trình đó, chủ yếu được xây dựng bằng đá sa thạch đỏ, nói chung nhỏ
hơn các ngôi mộ Mogon cùng thời kỳ.
9


Phía bên trong (vườn), bức tường được xây mặt trước bằng những mái vòm với cột chống, một
đặc điểm điển hình cả các đền thờ Hindu sau này đã được tích hợp vào các thánh đường Mogon. Bức
tường được đặt rải rác một số ngơi nhà nhỏ mái vịm, và các cơng trình nhỏ có thể từng được dùng làm
nơi quan sát hay đài chiêm ngưỡng (như cái gọi là Ngôi nhà Âm nhạc, hiện được dùng như bảo tàng).
Cổng chính là một cấu trúc kỷ niệm được xây chủ yếu bằng đá marble. Phong cách làm ta liên
tưởng tới phong cách kiến trúc Mogon của các vị hoàng đế Mogon trước đó. Cổng mái vịm của nó
phản ánh hình ảnh cổng mái vịm của ngơi mộ, và trên các vịm cung pishtaq của nó được trang trí
bằng những nét chữ viết. Cổng được trang trí với các motif hoa lá theo kiểu phù điêu đắp nổi thấp
và khảm. Những vịm trần và những bức tường được trang trí các hình học phức tạp, như những hình
được tìm thấy tại các cơng trình xây bằng đá sa thạch khác trong phức hợp.
Phía trong
Ở góc xa nhất của phức hợp, hai cơng trình xây bằng đá sa thạc đỏ lớn mở ra hai phía lăng mộ.
Tường phía sau chúng song song với các bức tường bao phía tây và phía đơng.
Hai cơng trình này là hình ảnh phản chiếu của nhau. Cơng trình phía tây là một thánh đường; phía
đối diện của nó là jawab hay "sự đối diện", mục đích chính của nó là để tạo sự cân bằng kiến trúc (và
có thể nó từng được sử dụng như một nhà khách ở thời Mogon). Sự khác biệt giữa chúng
là jawab khơng có mihrab, một hốc tường bên trong hướng về phía Mecca, và sàn của jawab có kiểu
thiết kế hình học, trong khi sàn thánh đường Hồi giáo được khảm 596 tấm thảm của người cầu nguyện

bằng đá marble đen.
Thánh đường Taj Mahal:
Thiết kế căn bản của thánh đường tương tự với những thánh đường khác được Shah Jahan xây
dựng, đặc biệt là thánh đường Jama Masjid tại Delhi: một sảnh dài nổi lên với ba lớp mái vòm. Các
thánh đường Mogon giai đoạn này chia sảnh điện thành ba khu vực: một điện chính với các điện nhỏ
hơn ở hai bên. Tại Taj Mahal, mỗi điện dẫn tới một sảnh mái vòm lớn.
Mộ:
Điểm nhấn của Taj Mahal là lăng mộ đá cẩm thạch trắng. Giống như hầu hết lăng mộ Mogon khác,
các yếu tố căn bản đều có nguồn gốc Ba Tư: một tòa nhà đối xứng với iwan, một ơ cửa hình vịm, trên
đỉnh là một vịm lớn.
Lăng mộ đứng trên một bệ hình vng. Cấu trúc nền lớn và có nhiều phịng. Phịng chính là nơi
đặt bia kỷ niệm Shah Jahan và Mumtaz (mộ ở dưới một cấp).
10


Mỗi bên vịm chính, các lối đi có mái vịm phụ được sắp xếp bên trên và bên dưới. Motif sắp xếp
pistaq được lặp lại tại khu góc xoi. Thiết kế hoàn toàn đồng nhất và như nhau ở mọi phía tịa nhà.
Bốn tháp, ở mỗi góc chân cột, đối diện với các góc xoi, tạo thành khung bao mộ.
Vịm đá mable trên mộ là điểm đáng chú ý nhất. Nó cao bằng với nền tịa nhà khoảng 35m. Chiều
cao của nó nổi bật nhờ được đặt trên một cấu trúc hình trụ cao khoảng 7 mét. Vì hình dạng của nó,
vịm thường được gọi là vịm củ hành. Đỉnh vịm được trang trí một bơng hoa sen, với vai trị nhấn
mạnh chiều cao. Đỉnh cao nhất là một hình chạm đầu mái mạ vàng, theo phong cách pha trộn Ba Tư
truyền thống và các yếu tố Hindu.
Hình dạng vịm được nhấn mạnh bởi bốn buồng nhỏ hơn đặt ở bốn góc. Vịm của buồng tn theo
hình dạng củ hành của vịm chính. Đáy hình cột của chúng mở qua mái mộ, và dẫn ánh sáng vào bên
trong. Buồng cũng có đỉnh là các hình chạm đầu mái mạ vàng. Các đường xoắn ốc trang trí kéo dài
cách đáy tường, và là điểm nhấn quang học cho chiều cao vịm.
Hình chạm đầu mái:
Đỉnh của mái vịm chính có một chóp nhọn dát vàng. Cho tới những năm đầu 1800 đỉnh chóp được
làm bằng vàng, ngày nay nó được làm từ đồng. Hình chóp chính là bằng chứng rõ ràng cho thấy có sự

hịa nhập giữa truyền thống Ba Tư và những yếu tố trang trí Hindu. Trên cùng của hình chóp là một
Mặt Trăng theo motif Hồi giáo truyền thống, có hai đầu nhọn hướng lên trời. Do vị trí của nó ở trên
đầu mái, hai đầu nhọn của Mặt Trăng và đỉnh chóp tạo thành một hình đinh ba, gợi lại một biểu tượng
truyền thống Hindu là Shiva. Những đỉnh tháp đều có dạng củ hành tương tự nhau. Đỉnh tháp trung
tâm giống hệt như một chén đựng nước thánh của người Hindu.
Tháp:
Tại mỗi góc của mặt nền lăng mộ là các ngọn tháp theo kiểu giáo đường Hồi giáo: bốn ngọn tháp
lớn cao hơn 40m. Một lần nữa các ngọn tháp đã thể hiện xu hướng chủ đạo cơ bản của Taj Mahal là sự
đối xứng và thiết kế lặp lại. Các ngọn tháp được thiết kế với công năng tương tự như các ngọn tháp
truyền thống ở giáo đường Hồi giáo, đó là nơi các thầy tu kêu gọi những tín đồ sùng đạo cầu nguyện.
Mỗi ngọn tháp được chia làm ba phần bằng nhau rõ rệt bởi hai ban công, dùng để rung chuông cho
tháp. Trên đỉnh mỗi ngọn tháp là ban công cao nhất với một chhatri trên cùng, phản chiếu lại những
thiết kế trên hầm mộ. Chhatri của các ngọn tháp đều có những chi tiết hồn thiện giống nhau: thiết kế
hình hoa sen, trên cùng là hình chạm đầu mái. Mỗi ngọn tháp đều được xây hơi nghiêng ra phía ngồi
của mặt nền, để cho khi tháp có bị sụp đổ thì các mảnh vụn cũng sẽ có xu hướng rơi ra xa hầm mộ.
11


Trang trí:
Các trang trí bên ngồi đền Taj Mahal được đánh giá là những trang trí đẹp nhất thời vương triều
Mogon. Một chi tiết trang trí nổi bật chính là các dịng chữ pishtaq nổi tiếng. Các chữ pistaq phía dưới
được viết nhỏ hơn phía trên để khi từ dưới nhìn lên, ta có cảm tưởng là các chữ này to bằng nhau.
Chúng được viết bằng sơn, hoặc bằng vữa, hoặc bằng đá khảm hoặc đơn giản hơn là chạm khắc thẳng
vào vách tường.
Các đoạn văn trên tường đền Taj Mahal được viết theo kiểu Thuluth, một kiểu chữ rất đẹp và
bóng bẩy do Amanat Khan tạo ra giống như chữ thư pháp. Chúng được khảm bởi các loại đá quý
như đá hoa và cẩm thạch, đặc biệt các đoạn chữ viết trên bệ đá cẩm thạch của đài tưởng niệm trong
đền lại càng chi tiết và thanh nhã hơn. Một số đoạn văn trong kinh Koran cũng được trang trí trên
tường đền, tương truyền rằng đích thân Amanat Khan đã chọn những đoạn này.
Khi bước vào cổng Taj Mahal, có một dịng chữ viết như sau: O Soul, you are at rest. Return to the

Lord at peace with Him, and He at peace with you. (tạm dịch là: Này linh hồn, mi đang yên nghỉ. Hãy
trở về bên Thượng đế, bình yên với Ngài, và Ngài bình yên với mi.)
Nội thất bên trong lăng Taj Mahal đã vượt ra khỏi những yếu tố trang trí truyền thống. Có thể
nhận xét không hề cường điệu, lăng mộ đúng là một món trang sức. Những chi tiết trang trí ở đây
khơng phải là tranh khảm mà là chạm khắc. Vật liệu trang trí trên bề mặt khơng phải là cẩm thạch hay
ngọc bích mà là đá quý hay đá bán quý. Mỗi chi tiết trang trí ngoại thất của hầm mộ đều được đánh giá
lại với nghệ thuật kim hoàn.

12


Chương IV: Ảnh hưởng của kiến trúc đền Taj Mahal nói chung và kiến trúc Hồi giáo nói
riêng đến kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam.
Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Ở nước ta, cộng đồng cư dân Chăm
theo Hồi giáo mang tính đặc thù rõ nét, được chia thành 2 dòng khác nhau. Người ta thường gọi là
Chăm Islam và Chăm Bàni. Qua tìm hiểu có thể thấy rõ rằng kiến trúc trong thánh đường Hồi giáo có
sự tương đồng ở tất cả mọi nơi trên thế giới.
Trong số những cơng trình kiến trúc Hồi giáo ở Việt Nam có những ngơi thánh đường được xây
dựng lâu đời, nguy nga, ví dụ như thánh đường Hồi giáo Jamia AL-Noor tại Hà Nội và Thánh đường
Jamain Al Muslimin (còn gọi là Thánh đường Đông Du) ở 66 Đông Du, Quận 1), được cộng đồng Hồi
giáo người Ấn Độ xây dựng vào năm 1935, thánh đường Hồi giáo Jamiyah ở thành phố Hồ Chí Minh
và thánh đường Hồi giáo Mubarak, An Giang. Đây là những ngơi thánh đường có phong cách kiến trúc
độc đáo, ấn tượng, mang đậm dấu ấn Hồi giáo vùng Nam Á, được xây dựng rất kỳ công với những
ngọn tháp cao vút, chỏm cầu hình búp sen, hình củ hành, vịm cuốn cửa nhọn đầu hình lá bồ đề là
những đặc trưng lâu đời nhất của kiến trúc Hồi giáo.
Ngôi chính điện (nhà nguyện) là hạng mục chính của thánh đường. Nhà nguyện có hình chữ nhật
hoặc hình vng, rộng rãi, thống mát, tráng lệ, đủ sức chứa nghìn tín đồ tập trung xếp hàng ngang
hành lễ cầu nguyện mỗi ngày. Sàn nhà nguyện được trải thảm có họa tiết hoa văn rất cầu kỳ, có tác
dụng lót cho đầu gối các tín đồ khi hành lễ ở tư thế quỳ, cúi lạy đầu luôn chạm sàn. Bên cạnh lối vào
chính điện là một bể nước dành riêng cho những nam tín đồ lấy nước để thanh tẩy, trước khi bước vào

hành lễ cầu nguyện. Chỉ nam tín đồ mới được hành lễ cầu nguyện trong phịng chính, cịn nữ tín đồ
hành lễ cầu nguyện ở hành lang thánh đường.
Điểm nhấn khác biệt trong kiến trúc của thánh đường so với các tôn giáo khác như Phật giáo, Thiên
Chúa giáo đó là ngơi chính điện thánh đường Hồi giáo khơng hề có bàn thờ, hay tượng, ảnh thờ. Bởi
theo quan niệm Hồi giáo chỉ cơng nhận một Đấng Tồn Năng duy nhất đó là Thánh Allah. Nhưng
Allah khơng có hình dạng cụ thể, là Đấng vơ hình có mặt ở khắp mọi nơi. Bởi vậy nên nội thất chính
điện thánh đường Hồi giáo hoàn toàn trống trải. Tuy nhiên, nếu du khách tham quan chính điện thánh
đường sẽ ấn tượng với hai điểm nhấn đặc biệt, đó là một hốc lõm trên bức tường gọi là Mihrab và một
cái bục gọi là Minbar. Mihrab là hốc lõm trên bức tường chính điện thường được gọi là bức tường cầu
nguyện (Qib la) được xây dựng nằm về hướng Tây là hướng Thánh địa Mecca.

13


Khi Muhammad tạ thế, hốc lõm tượng trưng cho sự hiện diện của Ngài và thông qua Ngài là sự hiện
diện của Allah, nên các tín đồ khi hành lễ hướng về hốc lõm cũng có nghĩa là hướng về Thánh địa
Mecca linh thiêng. Chính vì thế, chi tiết hốc lõm trở thành tính nguyên tắc bất di bất dịch trong kiến
trúc thánh đường Hồi giáo. Minbar là một kiểu bục bằng gỗ, hoặc được xây bằng xi măng, ốp đá quý
cao cấp, có tay vịn như chiếc ngai nằm chếch về phía bên trái. Trước Mihrab (hốc lõm) là nơi dành cho
vị giáo cả (ông Tuôn) giảng kinh, diễn thuyết trước các tín đồ.
Những cơng trình kiến trúc thánh đường Hồi giáo ln tốt lên một vẻ đẹp ẩn dấu sự huyền bí, với
những chi tiết trang trí cơng phu, cầu kỳ, tinh tế và tráng lệ. Theo nhận xét của nhiều kiến trúc sư, yếu
tố góp phần tạo nên phong cách độc đáo, ấn tượng, uy nghi, tráng lệ của các thánh đường Hồi giáo ở
TP. Hồ Chí Minh nói riêng, Nam Bộ nói chung, đó là những mái vòm, ngọn tháp đặc trưng. Đây là hai
yếu tố quan trọng tạo nên sắc diện rất riêng, rất khác biệt, với sự mềm mại, thanh thoát về đường nét
và sự thanh cao thoát tục về tâm linh của thánh đường Hồi giáo.Những thánh đường ở TP. Hồ Chí
Minh thường có một mái vịm lớn ở trung tâm với những chóp nhơ cao hình củ hành. Ngồi mái vịm
thì đường nét vòm cũng được sử dụng phổ biến trong các hạng mục cơng trình của thánh đường. Mái
vịm rất đa dạng về kiểu dáng, thường được thể hiện với các dạng vịm, nhưng cạnh của nó đều được
kht thành nhiều vòm nhỏ với hai nửa hợp lại tại đỉnh vòm, tạo thành những chóp nhọn rất ấn tượng.

Mái vịm của thánh đường rất phổ biến trong kiến trúc, cho ta liên tưởng đến quan niệm về “trời trịn,
đất vng” từ xa xưa của người phương Đông. Đây là những kiến trúc có nét tương đồng với ngơi đền
Taj Mahal nổi tiếng tại Ấn Độ.
Nhà nghiên cứu kiến trúc về tôn giáo Nguyễn Đệ khi viết về kiến trúc và trang trí thánh đường Hồi
giáo có nhận xét, những ngọn tháp thánh đường Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của kiến
trúc đền Taj Mahl Ấn Độ rất đồ sộ và vươn cao. Hầu hết trên thân tháp đều có hoa văn, họa tiết trang
trí bằng kỹ thuật đắp nổi, khắc chìm, hay ốp gạch có hoa văn khá cơng phu, tinh tế. Chính sự kết hợp
tinh tế của cả hai loại hình kiến trúc và trang trí mỹ thuật đã tạo nên vẻ đẹp trong dáng dấp thân tháp
vừa vững chãi, vừa mềm mại, tao nhã như thoát tục của một nơi hành lễ thiêng liêng nhất. Đạo Hồi
nghiêm cấm sử dụng hình tượng người, động vật, nên trong nghệ thuật trang trí thánh đường chỉ chủ
yếu tập trung vào những họa tiết về thực vật như các loài hoa, lá, dây xoắn, dây leo và các hình học
trịn, vng, chữ nhật, đa giác, đường gợn sóng, hình ngơi sao, hình vịm, trăng lưỡi liềm...Trong đó
nổi bật nhất chính là biểu tượng vành trăng khuyết và ngơi sao năm cánh, được trang trí với nhiều dạng
khác nhau.
14


C. KẾT LUẬN

I.

Tóm tắt nội dung chính của đề tài

Ngơi đền Taj Mahal là minh chứng lịch sử cho tình yêu bất diệt của hoàng đế Shah Jahan đối với
người vợ thân u của mình là hồng hậu Mumtaz Mahal. Theo phong tục Hồi giáo đa thê, thì bắt buộc
một vị vua của đất nước phải có nhiều hầu thiếp nhưng đối với Shah Jahan tồn bộ tình u của ông
đều giành cho người vợ thứ ba này thậm chí là từ lúc ơng cịn chỉ đang là một vị hồng tử và tình cờ
bắt gặp nàng ở chợ Meena. Tình u của vị hồng đế q đỗi sâu đậm nên ông đã vô cùng đau buồn
trước cái chết của bà. Sau khi vợ mất, ông cũng không lấy thêm bất kỳ thê thiếp nào mà chỉ giành 22
năm còn lại để tưởng nhớ bà. Vì vậy, theo mong ước của người vợ u q mà ơng đã dốc lịng xây

dựng nên ngơi đền Taj Mahal như một món q tình u mà ơng giành tặng cho bà. Ơng hình dung đó
là nơi mà hồng hậu Mumtaz sống khi lên thiên đường. Câu chuyện về tình yêu trọn vẹn và bất diệt
của hai người là yếu tố tạo thành nên một ngôi đền Taj Mahal đầy lung linh tráng lệ và có ý nghĩa mà
bất cứ du khách nào khi đến thăm cố đô Agra cũng phải ghé thăm và nghe câu chuyện tình này. Taj
Mahal khơng chỉ nổi tiếng về câu chuyện ra đời mà còn nổi tiếng khắp thế giới vì kiến trúc độc đáo có
một khơng hai trên thế giới. Thậm chí cịn có truyền thuyết rằng các nghệ sĩ và kiến trúc sư thiết kế
ngôi đền đã bị kí cam kết để đảm bảo rằng họ khơng bao giờ có thể xây nên một ngơi đền xinh đẹp như
thế nữa. Taj Mahal được coi là hình mẫu tuyệt vời nhất của kiến trúc Mogon, một phong cách tổng
hợp các yếu tố của các phong cách kiến trúc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, và Hồi giáo. Tuy phần mái
vòm bằng đá cẩm thạch trắng của lăng là phần nổi bật nhất, thực tế Taj Mahal là một tổng hợp các
phong cách kiến trúc. Tất cả các phần của ngôi đền bao gồm: Lăng, vườn, các cơng trình phía trong,
các cơng trình phía ngồi, thánh đường, mộ, tháp, thánh đường, hình chạm đầu mái và trang trí đều
được thiết kế và xây dựng hết sức tỉ mỉ và độc đáo. Mất 16 năm và vô số sức người, sức của để có thể
hồn thành nên cơng trình vĩ đại này. Thơng qua miêu tả về kiến trúc, có thể thấy ngơi đền thật sự
xứng đáng khi được liệt vào danh sách các địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO năm 1983 và
được miêu tả là một "kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giới". Ngôi đền
Taj Mahal tuy bắt đầu chỉ đơn giản là món q tình u mà vua Shah Jahan xây dựng để làm nơi yên
nghỉ và giành tặng cho vợ của mình nhưng qua đó có thể thấy được tình u của ơng to lớn đến nỗi mà
ơng đã dốc hết sức mình để giám sát việc xây dựng và cho đến sau này thì kiến trúc của ngôi đền đã
được công nhận là một trong những kiệt tác kiến trúc của nhân loại. Ngôi đền trở thành hình mẫu tuyệt
vời cho kiến trúc Hồi giáo và có ảnh hưởng nhất định đến các cơng trình Hồi gíao trên khắp thế giới
nói chung và cơng trình kiến trúc Hồi giáo tại Việt Nam nói riêng.
15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Slide bài giảng về văn minh Ấn Độ
/> /> /> /> />PHỤ LỤC
Hình ảnh minh họa


Hồng đế Shah Jahan và hồng hậu Mumtaz

Đền Taj Mahal


Toàn cảnh Taj Mahal từ trên cao

Những họa tiết khắc nổi trên tường đá cẩm thạch

Khảm đá quý


Mộ của hồng đế Shah Jahan và hồng hậu Mumtaz

Dịng chữ pistag nổi tiếng

4 ngọn tháp

Kiến trúc bên trong ngôi đền Taj Mahal


Thánh đường Hồi giáo Jamia AL-Noor, Hà Nội

Thánh đường Hồi giáo Jamia Al-Musulman, Hồ Chí Minh

Thánh đường Hồi giáo Jamiyah, Hồ Chí Minh

Thánh đường Hồi giáo Mubarak, An Giang




×