Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lí luận về sản xuất hàng hóa (KTHH) và vận dụng trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam (hoặc 1 tỉnhthành phố nào đó) hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.88 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Khoa/viện: Bất động sản và kinh tế tài nguyên thiên nhiên

BÀI TẬP LỚN
Học phần: 06

ĐỀ 1
Lí luận về sản xuất hàng hóa (KTHH) và vận dụng trong phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam (hoặc 1 tỉnh/thành phố nào đó) hiện nay.

SV: Nguyễn Trung Kiên
MSV: 11212939
Lớp tín chỉ: 63.KTTN
Lớp học phần: 06
Mơn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin ( LLNL1106 )

GV hướng dẫn: Tơ Đức Hạnh.

HÀ NỘI – 25/9/2022


MỞ ĐẦU
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đã được Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn là con đường duy nhất đúng đắn bởi nó có
đủ cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và được thực tiễn từng
bước chứng minh là thích hợp. Xét về mặt lịch sử, đó là con đường lâu dài và
phải trải qua những bước trung gian của sự quá độ, phù hợp với mỗi thời kỳ
lịch sử nhất định. Con đường quá độ đó chỉ có thể dẫn tới chủ nghĩa xã hội
khi thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn kết với
phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên con
đường ấy để thành công chúng ta phải tranh thủ được thời cơ thuận lợi và đối


mặt vượt qua những thách thức hạn chế. Trong nền kinh tế thị trường, mọi
quan hệ sản xuất và trao đổi, các hoạt động của các chủ thể đều chịu tác động
của các quy luật khách quan của thị trường về sản xuất hàng hóa, đồng thời
q trình sản xuất hàng hóa cũng chịu sự điều tiết can thiệp của nhà nước.
Nhất là từ sau Đổi mới đến nay nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào
các lĩnh vực sản xuất tiêu dùng và đạt nhiều thành tựu to lớn bên cạnh đó vẫn
tồn tại những thách thức cần khắc phục. Do đó phân tích lý luận về sản xuất
hàng hóa và vận dụng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay là vấn đề nghiên cứu cấp thiết để đưa nước ta phát triển mạnh mẽ.
NỘI DUNG
Phần I. Cơ sở lý luận
1.1.Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng
hóa.
1.1.1. Điều kiện ra đời
Thứ nhất: Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lực lượng lao động xã hội
thành các ngành, nghề chuyên môn khác nhau.
Khi tham gia vào hệ thống phân công lao động xã hội thì mỗi người lao
động chỉ sản xuất ra một hoặc vài sản phẩm, thậm chí chỉ sản xuất ra một chi


tiết của sản phẩm. Song nhu cầu cho cuộc sống của mỗi người lại cần rất
nhiều sản phẩm khác nhau, do đó họ cần phải mua những sản phẩm mình
khơng có (khơng sản xuất).
Phân cơng lao động xã hội dẫn tới sản xuất chun mơn hóa sâu hơn, làm
tăng năng suất lao động. Như vậy số lượng sản phẩm làm ra sẽ nhiều hơn,
thúc đẩy sự trao đổi giữa những người sản xuất.
Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Nguyên nhân của sự tách biệt này do sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản

xuất. Chính điều này đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở
hữu sản phẩm lao động. Mặc dù quá trình sở hữu chỉ là tương đối nhưng là
điều kiện quyết định để họ có quyền bán những sản phẩm của mình. Mặt khác
vì mục đích phát triển sản xuất, họ buộc phải bán những sản phẩm do mình
làm ra.

Như vậy: Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho

những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau nhưng tất cả họ lại nằm trong
hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và
tiêu dùng. Trong điều kiện đó, các chủ thể kinh tế muốn tiêu dùng sản phẩm
của nhau họ phải thông qua trao đổi, mua bán Đây là điều kiện đủ cho sự ra
đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy thì khơng có sản xuất hàng hóa và sản phẩm của lao
động khơng mang hình thái hàng hóa.
1.1.2. Đặc trưng
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.Trong lịch sử
loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự cung, tự cấp và
sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó
sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản
thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời kỳ công xã nguyên
thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong


kiến… Ngược lại, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản
phẩm được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa

mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã
hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong
xã hội. Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người
sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái
gì, như thế nào là cơng việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính
chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội. Đó
chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh
tế hàng hóa
1.1.3 Ưu thế
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân cơng lao động xã
hội, chun mơn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự
nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng
vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có
tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho
chun mơn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các
vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc,
bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ
hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó cịn
khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới
hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình,
mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở


nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất… thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của

sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh…
buộc người sản xuất hàng hóa phải ln ln năng động, nhạy bén, biết tính
tốn, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho
chi phí sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày
càng cao hơn.
Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở
rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước…
không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng
được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Phần II. Liên hệ với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay
2.1. Tiến hành sản xuất hàng hóa ở Việt Nam là tất yếu
Sản xuất hàng hóa ở nước ta là sự tồn tại khách quan và tất yếu. Giúp “thúc
đẩy q trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời nền sản xuất
lớn xã hội hóa cao; đồng thời chọn lọc được những nhà sản xuất kinh doanh
giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, đội ngũ lao động lành
nghề đáp ứng nhu cầu của đất nước. Đồng thời, “phát triển nền kinh tế thị
trường làm cho lực lượng sản xuất phát triển sản phẩm xã hội ngày càng
phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người”.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đến một mức độ tất yếu sẽ đạt tới trình
độ nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và
phát triển kinh tế hàng hóa ln tồn tại, do đó, sự hình thành kinh tế thị
trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.


Hướng tới hệ giá trị dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh
là mong muốn chung của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên cần phải lựa chọn một mơ hình kinh tế thị trường phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Thực tiễn lịch sử

cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt được tới giai đoạn
phát triển khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển, nhưng những
mâu thuẫn vốn có của nó khơng thể nào khắc phục được trong lịng xã hội tư
bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự
tiến hóa tạo ra những điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng xã hội cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì khơng chỉ dừng lại ở kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của
thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.Đây là bước đi, cách làm mới hiện
nay của các dân tộc, quốc gia đang trên con đường hướng tới xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế hàng hóa có tính ưu việt trong thúc đẩy sự phát triển.Thực tiễn
trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương thức làm kinh
tế có hiệu quả mà lồi người đã đạt được so với các mơ hình kinh tế phi thị
trường.Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền
kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật –
công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá thành
hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường khơng hề mâu
thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường
làm phương tiện để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu
quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế thị


trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị trường để có sự can
thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hộichủ nghĩa. Có thể
khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
lựa chọn cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan, là phương tiện

cần thiết để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu quả.
Ba là, mơ hình kinh tế thị trường đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân, đó là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Trên thế giới có nhiều mơ hình kinh tế thị trường, việc phát triển
mơ hình kinh tế thị trường dù khác nhau ở các quốc gia nhưng đều hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.Đây cũng là
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.Để thực hiện khát vọng đó, việc thực
hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách
quan.
Mặt khác, cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường kinh tế hang hóa
sẽ cịn tồn tại lâu dài ở nước ta, đó khơng chỉ là một tất yếu khách quan, mà
cịn là sự cần thiết cho cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ sự tồn tại
hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội
khách quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa như:
phân cơng lao động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất không hề mất đi...
.Mặt khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa về thực chất là quá trình phát triển “rút ngắn” của lịch sử, chứ không
phải là sự “đốt cháy” giai đoạn. Với ý nghĩa đó, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta phải làm một cuộc cách mạng về cách thức
tổ chức nền kinh tế - xã hội, chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang nặng
tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ
phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động


xã hội, phát triển ngành nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật cơng
nghệ mới bảo đảm tăng năng xuất lao động, tăng số lượng, chất lượng và

chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần từng bước cải thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu
kinh tế giữa các vùng miền trong nước và với nước ngồi; khuyến khích tính
năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bổ và sử
dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm…Như vậy, có thể xem
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là bước đi
quan trọng nhằm xã hội hóa nền sản xuất xã hội, là bước đi tất yếu của sự
phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên chủ nghĩa
xãhội.
2.2. Thực trạng của nền kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) ở nước ta
*Tích cực
Việc vận hành mơ hình kinh tế theo quy luật đem đến sự vận hành
trơn tru hơn trong sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Thứ nhất vận dụng quy luật giá trị để điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng
hóa
Vận dụng quy luật giá trị để điều tiết sản xuất điều hòa phân bổ các yếu
tố sản xuất giữa lĩnh vực kinh tế. Thơng qua sự biến động của giá cả hàng hóa
dưới tác động của quy luật cung cầu để điều tiết sản xuất. Bởi nền kinh tế thị
trường ít khi ở trạng thái bão hòa cân bằng cán cân cung – cầu mà nền kinh tế
ln vận động theo đó quan hệ giá cả, cung cầu biến động liên tục.
Mặt khác thông qua diễn biến giá cả trên thị trường sẽ giúp các chủ thể
kinh tế điều tiết lưu thông theo quy luật giá trị. Theo dõi sự biến động của giá
cả thị trường sẽ điều chỉnh nguồn hàng từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả
cao để doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao, làm cho lưu thơng hàng hóa diễn
ra liên tục. Ngồi ra giá cả hàng hóa cịn chịu tác động các yếu tố khác như
cung – cầu cạnh tranh...


Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thơng hàng hóa u cầu trao
đổi phải theo ngun tắc bằng giá trị. Do đó thị trường thơng qua sự biến

động về giá cả luồng hàng hóa sẽ lưu thơng từ đó tạo sự cân đối giữa các vùng
miền. Trong nền kinh tế thị trường định hướng của Việt Nam cũng tuân theo
quy luật giá trị bởi thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng
đến việc lưu thơng hàng hóa. Rõ ràng giá mua cao sẽ tạo ra thêm nhiều nguồn
hàng. Giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của nhân dân và
ngược lại. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào việc hoạch định giá cả
sao cho sát giá trị thực tế. Luôn xoay quanh giá trị hàng hóa để kích thích cải
tiến kỹ thuật nâng cao năng xuất và luôn tăng cường quản lý thị trường và các
doanh nghiệp tư nhân. Ví dụ khi mặt hàng tiêu có giá mua cao, thì người nơng
dân sẽ tập trung trồng tiêu, nhưng khi tiêu hạ giá nó lại thúc đẩy nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân. Nhà nước luôn cố gắng áp dụng các thành tựu về khoa
học công nghệ để tăng năng xuất và giá trị cho sản phẩm.
Ngoài ra Nhà nước linh hoạt chủ động có những khi tách giá cả khỏi giá trị
với từng loại hàng hóa. Để lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị từ đó
điều tiết một phần sản xuất và lưu thông cũng như điều chỉnh cung cầu và
phân phối.
Ví dụ: khi nhân dân sản xuất cà phê quá nhiều thì nhà nước sẽ điều chỉnh
giá giảm đi để người dân ngưng việc sản xuất ồ ạt cà phê, trồng trọt cân đối
hơn với các loại giống cây đa dạng phục vụ nhu cầu cuộc sống
Như vậy giá cả hàng hóa là một cơng cụ kinh tế quan trọng để phát triển
kinh tế có kế hoạch và hiệu quả.
Thứ hai về hình thành giá cả.
Hình thức vận dụng quy luật giá trị, trọng yếu nhất là khâu hình thành giá
cả. Bởi giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị. Do đó xác định giá
cả phải theo yêu cầu khách quan: lấy giá trị làm cơ sở đồng thời phản ánh đầy
đủ những hao phí về vật tư và lao động trong q trình sản xuất hàng hoá .


Giá cả phải là bù đắp giá thành sản xuất, nhưng đồng thời có một mức lãi
phù hợp để tái sản xuất mở rộng. Ví dụ khi sản xuất cà phê hịa tan thì nhà sản

xuất phải tính giá sản phẩm trên cơ sở đã trừ chi phí sản xuất và có lợi nhuận
để duy trì sự phát triển bền vững của công ty.
Đây là nguyên tắc chung áp dụng cho mọi quan hệ trao đổi quan hệ giữa
các xí nghiệp giữa nhà nước với nông dân. Mặt khác, giá cả là phạm trù phức
tạp tất yếu có sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị. Nhà nước ta đã vận dụng
quy luật giá trị vào những mục đích trong nhiệm vụ xây dựng kinh tế ,chính
trị phải căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về nguồn hàng lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc cung
cấp hàng hoá cho thị trường phải kế hoạch rõ ràng cụ thể. Đối với nhưng mặt
hàng có tầm quan trọng lớn đến đất nước nếu cung cầu không cân đối thì nhà
nước cần có biện pháp cụ thể để khắc phục đẩy mạnh sản xuất và tăng cường
thu mua, cung cấp theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả của hàng hóa.
Ví dụ như mặt hàng cà phê là mặt hàng nông sản quan trọng của Việt Nam
ta phải có kế hoạch rõ ràng, nếu nguồn cung quá lớn nhà nước cần thu mua để
đẩy mạnh xuất khẩu, không hạ quá mức giá thành để người nông dân có được
nguồn thu, đồng thời phải tăng cường cố gắng để cân đối trong sản xuất nông
nghiệp, tăng giá trị sản phẩm thơng qua áp dụng máy móc hạn chế xuất khẩu
thơ.
Điều chỉnh lưu thơng hàng hóa cân đối hơn trong cả nước. Ví dụ nhu cầu
tiêu thụ cà phê của thành phố Hà Nội tăng cao trong khi mặt hàng này cịn ít
và chưa phong phú. Mặt khác nguồn hàng ở Tây Nguyên lại nhiều nhưng nhu
cầu không cao nên giá thành thấp hơn. Lúc này cần tăng cường đẩy mạnh mặt
hàng cà phê ra phía Bắc để cân đối thị trường đem lại lợi nhuận cao hơn cho
chủ thể sản xuất.


Ngồi ra vận dụng quy luật giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát
triển.

Mỗi chủ thể khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao
động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội. Ví dụ đan 1 cái rổ bình
thường hết 5 tiếng, cá nhân ln cố gắng làm 1 cái rổ ít hơn 5 tiếng.
Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động và nâng cao
chất lượng sản phẩm đồng thời giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Ví dụ: Năng suất lao động làm tăng thì khối lượng nội thất sản xuất
tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất về máy móc nhân cơng và tư liệu tiêu dùng
giảm cho chi trả lương công nhân giảm xuống. Với khối lượng giá trị thặng
dư nhất định thu đươc mà doanh nghiệp dành cho tích luỹ có thể lấn sang
phần tiêu dùng có thể dùng tiền tích lũy đầu tư thêm cho việc cải tiến chất
lượng mẫu mã đảm bảo thu nhập cao. Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất
định dành cho tích luỹ gia đình tơi cũng có thể chuyển hóa thành một khối
lượng tư liệu sản xuất máy móc thiết bị và tăng phúc lợi cho công nhân nhiều
hơn trước.
Do vậy, nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình
độ sản xuất các lĩnh vực kinh tế một cách khoa học đúng đắn. Mỗi doanh
nghiệp phải cố gắng cải tiến đầu tư máy móc, hình thức và nâng cao tay nghề
lao động của người lao động. Điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản
xuất. kinh tế Việt Nam có sự “phân cơng lao động xã hội” đây là “cơ sở tất
yếu của nền sản xuất hàng hóa”. Xã hội ngày càng phát triển sự phân công lao
động xã hội cũng phát triển ngành nghề đa dạng hơn phong phú hơn, có sự
chun mơn hóa cao hơn. Khi có sự phân cơng chun mơn hóa mỗi người
lao động chun sâu về cơng việc cụ thể địi hỏi sự liên kết với nhau. Do đó,
dần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế nông nghiệp là chủ đạo
đồng thời thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Chính sự chun mơn hóa
trong lao động sẽ nâng cao năng xuất, tạo ra nhiều mặt hàng chất lượng có


sức cạnh tranh cao. Từ việc có nhiều mặt hàng đáp ứng nhu cầu của thị trường
sẽ thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển.

Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể
kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chủ
thể sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội
của hàng hóa sẽ thu được lãi cao và ngược lại sẽ bất lợi, lỗ vốn.
Để cạnh tranh và tránh nguy cơ phá sản chủ thể sản xuất phải hạ thấp hao
phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng với hao phí lao động xã hội cần
thiết.
Ví dụ: Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mơ của tích luỹ tư
bản có thể rút ra nhận xét chung là để tăng quy mơ tích luỹ tư bản cần tăng
năng suất lao động bằng cách tuyển những người cơng nhân lành nghề có
trình độ để tăng năng xuất lao động, mặt khác đầu tư các trang thiết bị để gia
cơng gỗ tìm hiểu mẫu mã mới tìm hiểu thị trường xu hướng là quan trọng
nhất. Để khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao
động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mơ vốn
đầu tư ban đầu. Vì tăng năng suất lao động sẽ đem lại lợi nhuận bền vững và
cao nhất, ở đây được hiểu với nội dung đó chính là chỉ tiêu chất lượng dùng
để phản ánh hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh nội thất của doanh
nghiệp. Đồng thời thì năng suất lao động tăng sẽ được thể hiện qua sự tiết
kiệm lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Một công
ty nội thất có năng suất cao nghĩa là cơng ty đó có thể sản xuất ra nhiều hàng
hóa hoặc dịch vụ hơn với cùng một lượng nguyên liệu/yếu tố đầu hoặc sản
xuất ra số lượng hàng hóa nội thất với lượng nguyên liệu/yếu tố đầu vào
(lượng gỗ thô, nhân công..) ít hơn. Đối với doanh nghiệp, tăng năng suất lao
động tạo ra lợi nhuận lớn hơn và thêm cơ hội đầu tư. Đối với người lao động
tăng năng suất lao động dẫn tới lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn.
Về lâu dài, tăng năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với tạo việc làm


Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, nước ta đã quyết định cổ phần hóa
phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước chỉ giữ lại một số ngành có

tính chất an ninh quốc gia để phát huy tính sáng tạo và năng xuất của nguồn
nhân lực. Các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu nơi đó mỗi cổ đơng sẽ vì
lợi ích của mình để đầu tư vào sản xuất và hoạch toán kinh tế thúc đẩy sự phát
triển mạnh và lợi nhuận cao
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Bởi mỗi doanh nghiệp phải tự
hoạt động không bị ràng buộc nhiều bởi các chỉ tiêu sản xuất mà nhà nước
đưa ra. Do đó họ tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm
hàng hóa và thực hiện sự phân đoạn thị trường sao cho linh hoạt đúng đắn
nhất
Mặt khác, nước ta gia nhập AFTA , WTO... thì mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình. Giữa các doanh nghiệp
với doanh nghiệp trong nước và giữa doanh nghiệp trong nước với doanh
nghiệp nước ngoài... giữa các cá nhân...Tạo nên sự năng động của nền kinh tế
thị trường định hướng CNXH ở Việt Nam. Việc phát triển nhiều thành phần
kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần kinh tế tận
dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hoá thu lợi nhuận và nâng cao trình
độ sản xuất từ đó thúc đẩy q trình hội nhập quốc tế.
Việc hồn thiện cơ chế sản xuất hàng hóa trong thể chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với những chính sách bổ trợ đi kèm đã tạo địn
bẩy cho nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng. Chất lượng tăng trưởng
kinh tế được cải thiện trên nhiều mặt, khi giảm dần phụ thuộc vào khai thác
tài nguyên, mở rộng tín dụng; gia tăng hàm lượng ứng dụng khoa học, cơng
nghệ và đổi mới sáng tạo. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP Total Factor Productivity) vào tăng trưởng đạt 45,2% giai đoạn 2016-2020,
tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.


Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững độc
lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn
hóa, quốc phịng, an ninh. Thực tiễn gần 35 năm mở cửa, hội nhập, dưới sự

lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của Nhà nước,
hội nhập quốc tế đã trở thành một trong các nguồn lực quan trọng để chúng ta
củng cố độc lập, tự chủ. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là một giải
pháp vừa là một động lực để giữ vững độc lập, tự chủ.
*Hạn chế: Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng
hóa thành người giàu, người nghèo. Đây là hạn chế của kinh tế hàng hóa
Q trình cạnh tranh theo lợi nhuận lợi ích riêng dẫn đến người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, trang bị kĩ thuật tốt nên có hao phí lao
động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết nên giàu nhanh chóng.
Ngược lại, những người khơng có điều kiện thuận lợi gặp rủi ro trong kinh
doanh bị thua lỗ dẫn đến phá sản nghèo khó. Vì vậy, nhà nước thông qua việc
ban hành và sử dụng pháp luật, các chính sách kinh tế, chính sách xã hội điều
tiết thị trường nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo
cũng như những tác động tiêu cực khác. Từ đó, thúc đẩy phát triển sản xuất và
lưu thơng hàng hóa, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.


2.3. Những giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Một là, nâng cao vai trò chủ đạo của nhà nước trong xây dựng cơ sở
hạ tầng và ổn định nền kinh tế vĩ mô. Thực hiện cơ chế giá do thị trường
quyết định, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn
lực, đồng thời Nhà nước phải đổi mới phương thức sử dụng các cộng cụ quản
lý để điều tiết các nguồn lực theo các kế hoạch và quy hoạch phù hợp với có
chế thị trường.
Hai là, đẩy mạnh vai trị của nhà nước đối với việc điều tiết các yếu
tố ngoại vi thúc đẩy hình thành sở hữu xã hội và hoàn thiện thể chế, cơ chế,
bảo hộ quyền tài sản của công dân để tài sản giao dịch thông suốt trên thị thị
trường. Thể chế hóa đầy đủ, cụ thể quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà
nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, khóng
sản... phù hợp với cơ chế thị trường. Tiếp tục đổi mới việc đăng ký, chứng

nhận quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền tài sản hình thành từ quyền sử dụng
đất. Triển khai áp dụng mơ hình quản lý vốn hiện đại, tách rời giữa quyền
quản lý kinh doanh vốn nhà nước với quản lý hành chính nhà nước của các
bộ, ngành.
Ba là, nâng cao vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm công bằng,
trật tự xã hội xác lập quyền bình đẳng của các chủ thể trên thị trường, thúc
đẩy tự do kinh doanh, chống độc quyền.
Bốn là, đẩy mạnh vai trò của nhà nước đối với chính sách tài chính
và tiền tệ, tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển động bộ, vận hành thông suốt của
các thị trường trên cơ sở tập trung vào hoàn thiện các phương thức giao dịch
hàng hóa - dịch vụ hiện đại, đổi mới chính sách đất đai để thúc đẩy thị trường
quyền sử dụng đất, lập sàn giao dịch đất đai.
Năm là, đẩy mạnh vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm phúc lợi
lợi xã hội bảo đảm công bằng trong phân phối nguồn lực phát triển để các chủ


thể của kinh tế thị trường có điều kiện phát huy cao nhất năng lực làm giàu
cho mình và đóng góp cho xã hội.
Sáu là, phát huy vai trị của thành tố xã hội bổ sung cho giới hạn của Nhà
nước, góp phần khắc phục khuyết tật của thị trường, kiểm sốt các nhóm lợi
ích tác động gây méo mó quy luật của nền kinh tế thị trường và trục lợi chính
sách
* Đối với bản thân tơi cần đổi mới học tập để trở thành nguồn nhân lực cao
trong thời kỳ hội nhập góp phần đưa đất nước phát triển
Thứ nhất, tôi cần cần học hỏi rất nhiều nâng cao kỹ năng thích ứng về
cơng nghệ thơng tin...Rèn luyện các kỹ năng sống như giao tiếp thuyết trình,
ca hát... để học hỏi và hoàn thiện bản thân..
Thứ hai, Để bản thân ngày càng hồn thiện và phát triển thì tơi phải biết
không ngừng học hỏi và lĩnh hội tri thức mới...kế thừa và phát huy những
truyền thống quý báu của dân tộc và đưa ra được chiến lược phát triển cho

bản thân phù hợp với yêu cầu mới của thời đại.
Thứ ba, tôi phải đổi mới bản thân để thực hiện tốt vai trò là một sinh viên
là chủ nhân tương lai của đất nước, đề ra chiến lược phát triển bản thân phù
hợp và đáp ứng được yêu cầu mới của xã hội.
Thứ tư, ni dưỡng bản tính tốt đẹp của dân tộc như cần cù, siêng năng,
dũng cảm. Nhưng cũng cố gắng cải thiện những đức tính chưa tốt, cố gắng
linh hoạt, cởi mở và sáng tạo trong học tập và cuộc sống.
KẾT LUẬN
Tóm lại, phân tích phân tích lý luận về sản xuất hàng hóa và vận dụng
trong việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là vấn đề
nghiên cứu cấp thiết để đưa nước ta phát triển mạnh mẽ với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn là con đường duy
nhất đúng đắn bởi nó có đủ cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin


và được thực tiễn từng bước chứng minh là thích hợp. Nhận thức rõ vị trí của
thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để thị trường phát triển lành
mạnh, đúng hướng. Từ những hạn chế nêu tính thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ và
kém hiệu lực, hiệu quả của thể chế sở hữu và thành phần kinh tế Việt Nam để
đưa ra các giải pháp phát triển là vô cùng cấp thiết. Để Đảng và nhà nước
hồn thiện hệ thống chính trị, pháp luật và phát triển tồn diện các mặt văn
hóa xã hội từ đó hội nhập bền vững và thành cơng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.6, tr. 139.
tr. 144, 151).
2. Giáo trình Kinh tế - chính trị Mác – Lê nin, Võ Văn Thưởng chủ biên, Hà
Nội-2019
3. Tạp chí cộng sản, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. PGS,TS Đặng Quang Định.
4. Bộ Tư Pháp, Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam và định hướng xây dựng





×