Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các trường hợp chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.42 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ CƠM THUG

CÁC TRƯỜNG HỢP chỉ định
NGƯỜI BÀO CHỮA CHO NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
TRONG TƠ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
• NGUYỄN CHÍ HIẾU - PHAN HỒNG PHÚC - ĐẶNG VĂN vũ LÂM

TĨM TẮT:

Bài viết phân tích quy định pháp luật về các trường hợp bắt buộc chỉ định bào chữa cho người
bị buộc tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, mục đích góp phần làm rõ tính nhân
đạo xã hội chủ nghĩa trong Việt Nam. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng đánh giá những hạn chế
đang tồn tại trong quy định này, đồng thời đề xuất giải pháp hồn thiện.
Từ khóa: người bào chữa, người bị buộc tội, Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

1. Đặt vấn đề
Quyền có người bào chữa của người bị buộc tội
là một quyền tố tụng cơ bản được ghi nhận trong
hầu hết các văn bản pháp lý về quyền con người1.
Bảo đảm quyền bào chữa đồng nghĩa với việc bảo
đảm sự cõng bàng trong quá trình giải quyết vụ án.
Trong các quy định về bảo đảm quyền bào chữa
cho người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành thì quy định về chỉ định người bào
chữa thể hiện rõ nét nhất việc đảm bảo quyền con
người của người bị buộc tội. Chỉ định người bào
chữa cho người bị buộc tội là việc cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong một số trường hợp
luật định đảm bảo cho người bị buộc tội có được
người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho họ trong quá trình giải quyết vụ án khi


người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân
thích của họ khơng mời người bào chữa. Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 quy định các trường hợp bắt
buộc phải chỉ định người bào chữa cho người bị

50

SỐ 9 - Tháng 5/2022

buộc tội khi họ khơng có người bào chữa được mời
tại khoản 1 Điều 76 căn cứ vào tính chất đặc biệt
nghiêm trọng của hành vi phạm tội bị truy cứu hoặc
do hạn chế về tư duy, lập luận của người bị buộc tội
từ các yếu tố như: độ tuổi, nhược điểm về tinh thần,
thể chất. Tuy được đánh giá là đã có sự sửa đổi, bổ
sung “thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng,
Nhà nước và phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta ”2, nhưng với mục đích đảm bảo hơn nữa quyền
của người bị buộc tội, quy định về các trường hợp
chỉ người bào chữa cần tiếp tục được nghiên cứu,
đánh giá nghiêm túc.
2. Quy định pháp luật về các trường hợp
chỉ định người bào chữa trong tố tụng hình sự
Vi định
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 quy
định các trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho
người bị buộc tội nếu người bị buộc tội, người đại
diện hoặc người thân thích của họ khơng mời người



LUẬT

bào chữa tại khoản 1 Điều 76, cụ thể: Thứ nhất, đối
với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy
định mức cao nhát của khung hình phạt là 20 năm
tù, tù chung thân, tử hình; Thứ hai, đơ'i với người bị
buộc tội có nhược điểm về thể chất mà khơng thể tự
bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
người người dưới 18 tuổi.
2.1. Trường hợp bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật
Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình
phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình và khơng
có người bào chữa được mời
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 76 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015, nếu bị can, bị cáo
về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất
của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân,
tử hình và đồng thời khơng có người bào chữa
được mời thì được cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tơ' tụng phải chỉ định người bào chữa để bảo
vệ bị can, bị cáo về mặt pháp lý trong quá trình
giải quyết vụ án. So sánh với quy định về chỉ định
người bào chữa trong các Bộ luật Tố tụng hình sự
Việt Nam trước đây thì đối tượng được chỉ định
người bào chữa theo mức tối đa của khung hình
phạt bị áp dụng ở Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 được mở rộng hơn. Cụ thể, nếu như Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 quy định cơ quan tiến hành tô' tụng

chỉ định bào chữa đô'i với bị can, bị cáo về tội mà
Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung
hình phạt là tử hình khi khơng có người bào chữa
được mời3 thì Bộ luật Tơ' tụng hình sự năm 2015
ngồi việc tiếp tục kê' thừa, ghi nhận trường hợp
trên còn quy định bắt buộc chỉ định đối với bị can,
bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao
nhất của khung hình phạt là 20 năm tù và tù chung
thân mà khơng có người bào chữa được mời.
Có thể thấy quy định mở rộng các trường hợp chỉ
định người bào chữa trên là cần thiết, hợp lý, bởi
hành vi phạm tội mà bị can, bị cáo đang bị truy cứu
thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, mức độ
ảnh hưởng của hình phạt tương ứng đối với họ là
đặc biệt lớn, tác động trực tiếp đối với quyền tự do
thân thể, tự do đi lại hoặc quyền sống của người bị
buộc tội nếu họ bị kết tội bằng bản án có hiệu lực
pháp luật của Tịa án.

2.2. Triiờng hựp người bị buộc tội có nhược điểm
về thể chất mà khơng thể tự bào chữa, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi và
khơng có người bào chữa được mời
Điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tơ' tụng hình sự

năm 2015 quy định “Người bị buộc tội có nhược
điểm về thể chất mà khơng thể tự bào chữa; người
có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18
tuổi” mà người bị buộc tội, người đại diện hoặc
người thân thích của họ khơng mời người bào chữa

thuộc nhóm chủ thể được cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tô tụng chỉ định người bào chữa. So sánh
với quy định về trường hợp chỉ định người bào chữa
căn cứ vào đặc điểm về thể chất hoặc tâm thần, độ
tuổi của người bị buộc tội trong Bộ luật Tơ' tụng
hình sự năm 1988 và Bộ luật Tơ' tụng hình sự năm
2003 trước đây, quy định hiện hành có sự mở rộng
và chi tiết hơn:
Thứ nhất, đô'i tượng được chỉ định người bào
chữa khơng chỉ có bị can, bị cáo mà cịn có người bị
bắt, người bị tạm giữ4 nhằm đảm bảo việc chỉ định
cho người bị buộc tội được thực hiện sớm nhất ở giai
đoạn đầu tiên của q trình tơ' tụng từ khi có người
bị buộc tội chứ không phải đến khi người bị buộc tội
bị khởi tơ' về hình sự (bị can) hoặc bị Tịa án quyết
định đưa ra xét xử (bị cáo).
Thứ hai, trường hợp chỉ định người bào chữa
người đối với người bị buộc tội có nhược điểm về
thể chất thì người này phải trong tình trạng “khơng
thể tự bào chữa” thay vì chỉ quy định chung
chung“có nhược điểm về thể chất” như Bộ luật Tơ'
tụng hình sự năm 1988, Bộ luật Tơ' tụng hình sự
năm 20035. Việc quy định cụ thể tình trạng “không
thể tự bào chữa ” là hợp lý bởi lẽ có rất nhiều trường
hợp trên thực tế, tuy người bị buộc tội có nhược
điểm về thể chất nhưng hồn tồn khơng ảnh
hưởng lớn đến khả năng tự bào chữa, ví dụ như bị
khuyết tật về thân thể (mất tay, chân hoặc khuyết
tật nhẹ khác).
Ngoài ra điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tơ'

tụng hình sự năm 2015 cũng dùng cụm từ “người
dưới 18 tuổi” thay thê' cụm từ “người chưa thành
niên” trong quy định của Bộ luật Tô' tụng hình sự
trước đây6, giúp các chủ thể quan tâm nội dung điều
luật dễ dàng xác định được ngay độ tuổi của người

SỐ9-Tháng 5/2022

51


TẠP CHÍ CƠNG ĨHIÍDNG

bị buộc tội được chỉ định người bào chữa mà không
cần phải tra cứu thêm quy định độ tuổi nào là người
thành niên trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt
Nam hiện hành7.
Nhìn chung, quy định về các trường hợp chỉ định
người bào chữa cho người bị buộc tội trong Bộ luật
Tơ' tụng hình sự Việt Nam hiện hành có sự mở rộng,
thay đổi theo hướng phát huy hơn nữa tính chất
nhân đạo của Nhà nước ta, mong muốn người bị
buộc tội có được sự bảo vệ sớm nhất, tốt nhất từ
người bào chữa.
3. Hạn chế và đề xuất hướng hoàn thiện quy
định pháp luật về các trường hựp chỉ định người
bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
3.1. Triiờng hợp chỉ định người bào chữa căn cứ
vào mức cao nhất của khung hình phạt được Bộ
luật Hình sự quy định đơ'i với hành vi phạm tội của

bị can, bị cáo
a. Hạn chê'
Điểm a khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 quy định bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật
Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt
là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình mà họ, người
đại diện hoặc người thân thích khơng mời người
bào chữa thuộc trường hợp được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa.
Trong các trường hợp này, có thể thấy pháp luật
mong muốn đảm bảo cho bị can, bị cáo bị buộc tội
về tội đặc biệt nghiêm trọng có được người bào
chữa để bảo vệ cho họ, làm cơ sở để cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét thận trọng
hơn trong môi tương quan so sánh giữa các chứng
cứ của bên buộc tội và gỡ tội, cân nhắc ra quyết
định phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội. vấn đề đặt ra là liệu bị can, bị
cáo là pháp nhân thương mại bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng trong
cùng điều, khoản của Bộ luật Hình sự mà cá nhân
bị truy cứu có mức cao nhất của khung hình phạt là
20 năm tù, chung thân hoặc tử hình8 và khơng có
người bào chữa được mời thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có chỉ định người bào chữa
hay khơng?
Xét về câu chữ của quy định thì bị can, bị cáo
là pháp nhân thương mại thuộc trường hợp trên

52


SỐ9-Tháng 5/2022

phải được chỉ định người bào chữa vì bản chất họ
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở cùng điều,
khoản của Bộ luật Hình sự mà cá nhân bị truy cứu
có mức cao nhất của khung hình phạt là 20 tù, tù
chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên, xuất phát từ
việc kế thừa quy định về chỉ định người bào chữa
của các Bộ luật Tố tụng hình sự trước đây, nhiều ý
kiến cho rằng quy định này chỉ nên áp dụng đối
với cá nhân, vì suy cho cùng phần đơng bị can, bị
cáo là cá nhân bị hạn chế tài chính hay kiến thức
về quyền của người bị buộc tội trong việc mời
người bào chữa. Ngược lại bị can, bị cáo là pháp
nhân thương mại thường có tiềm lực tài chính tốt,
am hiểu pháp luật nên luật không cần thiết phải
được chỉ định bào chữa.
b. Đề xuất hướng hồn thiện
Theo nhóm tác giả, nội dung quy định này cần
được hiểu theo hướng mở rộng chỉ định cho cả bị
can, bị cáo là pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng trong cùng
điều, khoản đối với cá nhân bị truy cứu mà có mức
cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình. Bởi lẽ, 33 tội danh mà pháp nhân
thương mại bị truy cứu theo quy định tại Điều 76 Bộ
luật Hình sự hiện hành thuộc nhóm các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về mơi
trường và các tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật

tự công cộng9, nếu pháp nhân bị truy cứu về một tội
ở mức đặc biệt nghiêm trọng, có tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà khơng mời
được người bào chữa (pháp nhãn khơng có khả
năng chi trả mức chi phí bào chữa phía luật sư đưa
ra hoặc không luật sư nào muốn nhận bào chữa vụ
án vì ngại dư luận xã hội). Và vì thế, mức hình phạt
cao nhất có thể áp dụng đơ'i với pháp nhân là đình
chỉ hoạt động vĩnh viễn, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc làm của nhiều người lao động thuộc pháp nhân
đó, kéo theo những hệ lụy tiêu cực về mặt xã hội.
Cho nên trong những trường hợp này, việc chỉ định
người bào chữa cho pháp nhân là cần thiết để pháp
nhân có được cơ chế bảo vệ tốt cho mình, đồng thời
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tô' tụng cũng xem
xét được đầy đủ các yếu tố gỡ tội, giảm trách nhiệm
hình sự cho pháp nhân từ chứng cứ do người bào
chữa cung cấp.


LUẬT

3.2. Trường hợp chỉ định bào chữa căn cứ vào
đặc điểm về thể chất hoặc tâm thần, độ tuổi người

trường hợp này, tinh thần của họ dễ bị căng thẳng,
không ổn định do đang mang thai hoặc khủng

bị buộc tội
a. Hạn chế

Thứ nhất, điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tơ'

hoảng ni con đang cịn nhỏ chưa đủ 36 tháng
tuổi; hoặc sức khỏe không ổn định, suy nghĩ, lập

tụng hình sự năm 2015 quy định người bị buộc tội
là người có nhược điểm về thể chất mà khơng thể

tự bào chữa là một trong những trường hợp được
chỉ định người bào chữa bắt buộc nếu người bị
buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của
họ khơng mời người bào chữa. Tuy nội dung quy
định này cụ thể hơn quy định của các Bộ luật Tố
tụng hình sự trước đây ở việc địi hỏi người bị
buộc tội “có nhược điểm về thể chát” phải trong
tình trạng “khơng thể tự bào chữa” cho mình
nhưng đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có văn bản
dưới luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hướng dẫn chi tiết như thế nào là người có nhược
điểm về thể chất mà khơng có khả năng tự bào
chữa. Việc chậm trễ này có thể dẫn đến sự không
đồng nhất về quan điểm giữa các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tơ' tụng khi đánh giá tình trạng
khơng có khả năng tự bào chữa của người bị
buộc tội để có thể kịp thời chỉ định người bào
chữa cho họ.
Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm về thể chất, tinh
thần hoặc độ tuổi của người bị buộc tội, điểm b
khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tô' tụng hình sự năm
2015 quy định người bị buộc tội có nhược điểm về

thể chất mà không thể tự bào chữa; người có
nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18
tuổi mà khơng có người bào chữa được mời thuộc
trường hợp được chỉ định người bào chữa. Quy
định này hoàn toàn hợp lý và nhân đạo đối với bị
buộc tội vì dễ dàng nhận thấy trong các trường
hợp này họ khơng có khả năng tự bào chữa tơ't cho
mình trước sự buộc tội của cơ quan công tô' (Viện
kiểm sát). Tuy nhiên, theo chúng tôi, nội dung
điều luật là thiết sót, hạn chê' khi chưa quy định
những trường hợp mà người bị buộc tội có tính
chất tương tự, bị hạn chê' khả năng tự bào chữa tốt
cho mình, cụ thể là người bị buộc tội là phụ nữ
đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
người trên 60 tuổi10 và khơng có người bào chữa
được mời. Thiết nghĩ người bị buộc tội trong các

luận của họ khơng cịn nhanh nhẹn, nhạy bén,
khả năng tiếp cận pháp lý thấp do tuổi cao (chưa
đến mức độ được xem là người có nhược điểm về
tâm thần), cộng với áp lực đang trong tình trạng bị
buộc tội, họ trở thành người yếu thế, khơng có
khả năng tự bảo vệ tốt cho mình.
b. Đe xuất hướng hồn thiện
Một là, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần
nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết
những trường hợp người bị buộc tội có nhược
điểm về thể chất mà khơng có khả năng tự bào
chữa để tạo tính thống nhất trong việc áp dụng
pháp luật. Chúng tôi đề xuất nhà làm luật tham

khảo kinh nghiệm pháp luật tơ' tụng hình sự các
nước trên thê' giới, đơn cử là pháp luật tơ' tụng
hình sự của Nhật Bản và Trung Quô'c, xem xét
đưa vào văn bản hướng dẫn Bộ luật Tơ' tụng hình
sự năm 2015 về trường hợp người bị buộc tội có
nhược điểm về thể chất mà khơng có khả năng
bào chữa là người câm, điếc, mù11 vì trên thực tế,
người bị buộc tội có các nhược điểm về thể chất
kể trên rất khó khăn để tự bào chữa tơ't cho mình
trong q trình giải quyết vụ án. Việc ban hành
văn bản hướng dẫn mang tính liệt kê các trường
hợp có nhược điểm về thể chất mà khơng có khả
năng tự bào chữa giúp cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tơ' tụng xác định nhanh chóng các
trường hơp buộc phải chỉ định người bào chữa,
tiến hành việc chỉ định người bào chữa kịp thời
cho người bị buộc tội.
Hai là, xem xét bổ sung vào khoản 1 Điều 76
Bộ luật Tơ' tụng hình sự năm 2015 theo hướng chỉ
định người bào chữa cho cả các trường hợp “người
bị buộc tội là phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, người trên 60 tuổi”. Việc
bổ sung này là hoàn toàn phù hợp nguyên tắc
nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, góp phần bảo đảm hơn nữa quyền có người
bào chữa của nhóm người bị buộc tội bị hạn chê'
khả năng tự bào chữa do tình trạng thể chất, tâm
thần hoặc độ tuổi ■

SỐ 9-Tháng 5/2022


53


TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG

TÀI LIỆU TRÍCH DẦN:
’Tun ngơn thế giới về quyền con người năm 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966;
Cơng ước Châu Âu về quyền con người năm 1950; Công ước Châu Mỹ về quyền con người năm 1969.
2

PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật Tơ' tụng hình sự năm 2015, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, trang 173.
3

Xem: Điểm a khoản 2 Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và điểm a khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003.
4 So sánh điểm b khoản 2 Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 quy định chỉ định bào chữa đối vổi “bi can, bị cáo...” Thì điểm b khoản I Điều 76 Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015 chỉ định bào chữa đối với “người bị buộc tội...” mà người bị buộc tội theo luật bao gồm người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. (xem điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
5

Xem: điểm b khoản 2 Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003.
6


Xem: điểm b khoản 2 Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003.

7

Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 quy định “người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên”.

8

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại chỉ bị xem xét ở một số hành vi phạm tội nhất định, cụ thể là các

tội danh được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các tội do pháp
nhân thực hiện cũng có thể được thực hiện bởi cá nhân. Tuy hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại bao

gồm phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, pháp nhân khơng thể bị áp dụng
hình phạt tù hay tử hình nhưng việc phân loại tội phạm do pháp nhân thực hiện cũng dựa vào quy định tương ứng
như phân loại tội phạm đô'i với cá nhân, tức dựa mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với cá nhân, (xem
khoản 2 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).

9Xem chi tiết các tội danh được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
10 Theo Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009 thì người cao tuổi là cơng dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Người
cao tuổi thuộc đối tượng được nhà nước quan tâm, bảo vệ, chăm sóc.

11

Khoản (iii) Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản quy định “bị cáo bị câm hoặc điếc” thuộc một trong các

trường hợp được Tòa án chỉ định bào chữa; Điều 35 Luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng

quy định “bị can, bị cáo là người mù, điếc, câm” mà chưa có người bào chữa thì được Tịa án, Viện kiểm sát, cơ
quan công an chỉ định người bào chữa cho họ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Văn bản pháp luật Việt Nam:
1.

Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015;

2.

Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

3.

Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988;

4.

Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003;

5.

Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015;

6.

Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2009;

Văn bản pháp lý quốc tế, văn bản pháp luật nước ngồi:

7.

Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa;

8.

Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản;

54

Số9-Tháng 5/2022


LUẬT

9.

Công ước Châu Âu về quyền con người năm 1950;

10.

Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966;

11.

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948;

Sách:
12. PGS.TS. Nguyễn Hịa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật Tơ' tụng hình sự năm 2015, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016.


Ngày nhận bài: 1/3/2022
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 1/4/2022
Ngày châp nhận đăng bài: 11/4/2022
Thơng tin tác giả:
1. ThS. NGUYỄN CHÍ HIÊU

Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học cần Thơ

2. PHAN HOÀNG PHÚC
Kiểm sát viên sơ câp Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang
3. ĐẶNG VĂN VŨ LÂM
Chuyên viên nghiệp vụ Công ty Đấu giá hợp danh Đông Nam, Thành phố Hồ Chí Minh

MANDATORY APPOINTMENT
OF DEFENSE COUNSELS FOR THE ACCUSED
IN VIETNAM CRIMINAL PROCEDURE CODE
• Master. NGUYEN CHI HIEU
Lecturer at Faculty of Law, Can Tho University

• PHAN HOANG PHUC
Primary Procurator of the People's Procuracy
of Chau Thanh District, Hau Giang Province

• DANG VAN vu LAM
Auctioneer at Dong Nam Auction Partnership Company,

Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

The article analyzes the legal provisions on the mandatory appointment of defense

counsels for the accused in the current Vietnam Criminal Procedure Code, with the aim of
contributing to clarifying the Vietnam’s socialist humanitarianism. In addition, the authors also
assessed the existing limitations in this regulation, and propose some solutions for
improvement.
Keywords: defense counsel, accused person, Vietnam Criminal Procedure Code.

SỐ 9 - Tháng 5/2022

55



×