Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhận diện về đặc điểm tâm lý tư pháp của người bị buộc tội, bị hại, người 52 làm chứng dưới 18 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.24 KB, 6 trang )

HỌC VIỆN Tư PHÁP

NHẬN DIỆN VỀ ĐẶC DIEM tâm lý tư pháp của người bị buộc tội,
BỊ HẠI, NGƯỜI LÀM CHỨNG DƯỚI 18 TUổl
Cao Thị Ngọc Hà'
Cao Thị Hưyển Nga12

Tóm tắt: Người dưới 18 tuổi luôn là chù thể được quan tâm của các nhà làm luật nói chung và
cơ quan tiên hành tơ tụng nói riêng, bởi lẽ dù những người này là chủ thê cùa tội phạm hay khi là
bị hại của hành vi phạm tội thì họ ln được xác định là “nạn nhãn ”vì sự non nớt trong nhận thức
và điểu khiển hành vi. Nhận thức về đặc điếm tâm lý tư pháp của người tham gia tổ tụng là người
dưới 18 tuôi là vân đê mà người tiền hành tô tụng cũng như luật sư phải lưu ý khi giải qut vụ án
hình sự đơi với người dưới 18 tuồi phạm tội. Bài viêt dưới dây sẽ làm rõ vê đặc diêm tâm lý tư pháp
của người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng là người dưới 18 ti. Theo đó, giúp cho luật sư cỏ
được kỹ năng tốt nhất trong tiếp xúc, trao đôi hoặc tham gia bào chữa, bảo vệ cho người chưa thành
niên trong các vụ án hình sự đạt hiệu quả tơt nhát.
Từ khóa: Đặc diêm tâm lý tư pháp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người dưới 18
tuổi.
Nhận bài: 20/4/2022; Hoàn thành biên tập: 16/5/2022; Duyệt đăng: 20/5/2022.

Abstract: People under the age of 18 are always the subject of interest of legislators in general
and law-conducting agencies in particular since whether these people are the subject ofa crime or
the victim of a crime, they are always identified as “victims” because of their immaturity in
perception and behavioral control. Awareness of the psycho-judicial characteristics ofprocedure
participants who are under 18 years old is an issue that procedure-conducting persons as well as
lawyers must pay attention to when solving criminal cases against persons under 18 years ofage who
commit crimes. The following article will clarify the psychological characteristics of the accused,
the victim, the witness under 18 years old to provide lawyers with proper skills in working with or
protecting the juveniles in criminal cases with better results.
Keywords: Psychological judicial characteristics, accused persons, victims, witnesses, people
under 18 years ofage.


Date of receipt: 20/4/2022; Date of revision: 16/5/2022; Date ofApproval: 20/5/2022.
1. Nhận diện về đặc điểm tâm lý tư pháp
của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Người bị buộc tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
tâm sinh lý, còn nhiều hạn che về nhận thức xã
hội. Đây là độ tuổi có đầy đủ các đặc tính sinh
học, xã hội như đã phân tích và bước đâu phải
chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất
định (từ đủ 14 đên dưới 16 tuôi) và phải chịu
trách nhiệm hình sự hâu hêt các tội phạm (từ đủ
16 ti). Như vậy, họ đã có năng lực trách nhiệm
hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự tương
ứng với hai nhóm tụơi cụ thê như trên.
Khi tham gia tố tụng, người dưới 18 tuổi
tham gia tô tụng thường có tâm lý sợ hãi, e dè,

khơng dám bộc lộ hết suy nghĩ và mong muốn
của bản thân, về phía người bị buộc tội, một số
người dưới 18 tuỗi lại co tỏ ra bất chấp, bất cần,
coi thường người tiến hành tố tụng để che giấu sự
sợ hãi bên trong. Có trường hợp lại từ chối tiếp
xúc với cha mẹ, người đại diện hợp pháp, đại
diện củạ nhà trường vì mặc cảm, sợ bị lên án,
trách măng. Do kiên thức xã hội hạn chê, kinh
nghiệm sọng chưa nhiều, người dưới 18 tuổi
tham gia tơ tụng chưa có nhận thức thức đây đủ
về các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tổ
tụng, chưa có ý thức thực hiện các quyền của bản
thân và yêu câu các chủ thê khác tôn trọng quyên

và lợi ích hợp pháp mà người dưới 18 tuôi được
hưởng. Người dưới 18 tuôi cũng chưa biết cách

1 Tiến sỹ, Phó trưởng bộ mơn kỹ năng tham gia giải quyết vụ án hình sự, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
2 Thạc sỹ, Giàng viên, Trường Đại học Lao động - Xã hội.


số 5/2022 - Năm thứ mười bảy

Nghê Luật
để tự bảo vệ mình trước những tác động mà q
trình tơ tụng hình sự mang lại.
Những đặc diêm tâm lý trên được thê hiện ở
những tính cách nổi bật của người dưới 18 tuồi là
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như:
- Tính ích kỷ: Đây là nét tính cách bao trùm
ở người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Thơng
thường các em chỉ nghĩ đên mình, chỉ lo thu vén
cho cá nhân mà không quan tâm đên người xung
quanh.
- Sự thiếu kiên định: Đây chính là sự thay đổi
nhanh chóng các hứng thú, tâm trạng, nhu câu,
ham muộn... một cách tùy hứng khơng có cơ sở.
Tính thiếu kiên định cho thấy tâm trạng luôn luôn
mâu thuặn giữa tâm trạng tư duy và việc làm;
giữa thiêu kiên nhân và bên bỉ, đây cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự mâu thuẫn chống đối lẫn
nhau gây khó khăn cho việc tác động, trợ giúp
và giáo dục.
- Tính phủ định: Đây là nét tính cách biểu

hiện sự độc lập một cách thái q, ln mn
mình tự qut tât cả, mình đúng tât cả, phủ nhận
thực tê xung quanh một cách giả tạo, cơ đê khăng
định mình (biêt mình sai song không thừa nhận,
biêt người xung quanh đúng nhưng không muôn
công nhận).
- Tính dối trá: Đây là một trong những nét
tính cách của người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi được thể hiện bằng lời nói, việc làm khơng
trung thực, luôn biết che đậy, lấp liếm những việc
làm sai trái, thói hư tật xâu của mình.
- Tính ưa được tâng bốc, đánh giá cao: Đây là
nét tính cách đơi lập tính khiêm tơn, thường là sự
phát triển lệch lạc của nhu cầu về uy tín, nhu cầu
được khăng định. Những em có những nét tính
cách này thường muốn được mọi người đánh giá
cao hơn khả năng mình có do đó dê bị kích động
và có hành vi lệch chn. Hành vi phạm tội của
những em này thường do động cơ muôn được
“oai”, được vị nể và được đánh giá cao.
- Tính vơ kỷ luật: Đây thường là hậu quả của
tác động giáo dục sai lâm như nuông chiêu quá
đáng, bỏ qua các vi phạm nhỏ của các em trong
cuộc sông hàng ngày. Người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi có tính vơ kỷ luật, có thái độ xấc
xược và hành vi tùy tiên, tự do bừa bãi, coi
thường xung quanh, chống lại sự giáo dục và
khuôn khô chuân mực xã hội.
- Tính liều lĩnh manh động: Người dưới 18
tuổi thường nơng nổi, hiếu thắng, khơng biết


nhìn nhận và đánh giá đúng tình huống thực tế,
bât châp hậu quả xảy ra.
Những nét tính cách cơ bản trên mang tính
nổi bật, có ảnh hưởng trực tiếp tới những hành
vi phạm tội của người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi. Song khơng phải người dưới 18 tuổi nào
cũng có đây đủ những nét tính cách trên. Vì vậy,
trong q trình làm việc, tiêp xúc, trợ giúp người
dưới 18 tuổi phạm tôi phải xác định rõ đặc điểm
riêng của từng em đê có sự tác động cụ thê, phù
họp, hiệu quả.
Thứ nhất, một số đặc điểm tâm lý riêng cùa
người bị bắt, người bị tạm giữ dưới 18 tuoi.
Tâm trạng hoang mang, lo lắng.
Đây là biểu hiện tâm lý phổ biến nhất ở người
bị băt, người bị tạm giữ nói chung và người dưới
18 ti nói riêng trong các vụ án hình sự; đó là
trạng thái tâm lý biêu hiện sự bât ôn, sự xáo trộn
trong đời sông tinh thân của họ. Thông thường,
tâm trạng này xuât hiện ở cá nhân ngay sau khi
bị bắt và có thể kéo dài trong suốt quá trình tham
gia tố tụng. Ở trạng thái này, khi họ trình bày
thơng tin vê sự việc xảy ra thường thiêu logic, dê
bộc lộ các diêm mâu thuân. Cùng với việc người
bị buộc tội là người bị bắt, bị tạm giữ xuất hiện
tâm trạng hoang mang, lo lắng, bất an khi bi
khống che, giám sát bởi các cơ quan tiến hành tố
tụng thì ở trong họ cũng nảy sinh cảm giác cô
độc, mât phương hướng, tự ti.

- Trạng thái tâm lý hay quan sát, thăm dò,
đánh giá luât sư trong lan tiếp xúc đầu tiên.
Trong lân tiêp xúc đâu tiên với luật sư, người
bị băt luôn quan sát, nhận xét vê thái độ, cách đặt
câu hỏi và mọi biêu hiện khác nhau của luật sư đê
phán đốn tình hình và căn cứ vào nhận định đó
để lựa chọn cách thức làm việc với luật sư. Ấn
tượng ban đầu là một trong những yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình giao
tiếp giữa luật sư và người bị bắt, người bị tạm
giữ, đặc biệt là người dưới 18 tuổi.
Thứ hai, một so đặc điếm tâm lý riêng của
bị can dưới 18 tuổi.
- Có khả năng miêu tả chính xác các dấu hiệu
cơ bản của sự việc, hiện tượng nói chung và sự
việc do mình và đơng phạm gây ra nói riêng.
- Có khả năng nghe cao nhưng sự chú ý thâp,
thiêu tri thức và kinh nghiệm nói chung, khả
năng phân tích chưa sâu săc.
- Bị can người dưới 18 tuổi là nam giới
thường muốn tỏ ra mình là người lớn, độc lập và


HỌC VIỆN Tư PHÁP

tự chủ trong hành động của mình.
- Trong quá trình tham gia tố tụng, bị can
dưới 18 ti có thê sử dụng những thuật ngừ,
khái niệm của người lớn nhưng thực tê lại không
hiêu bản chát và hiêu sai nghĩa sử dụng.

- Nhiêu trường hợp bị can chưa thành niên
khai thêm tình tiêt hoặc thay đơi lời khai do bị
tác động của điêu tra viên hoặc luật sư.
Đặc diêm tâm lý của bị can dưới 18 tuôi
ảnh hưởng trực tiêp tới lời khai cũng như sự
tham gia của họ trong các hoạt động tô tụng.
Đối với bị can dưới 18 tuổi, ngoài tâm trạng
hoang mang, lo lăng, các em còn thê hiện trạng
thái bi quan, chán chường, thât vọng. Các em
thường từ chôi giao tiêp, từ chôi tiêp xúc, do
đó khó tiến hành hoạt động trợ giúp pháp lý
hay bào chữa khó có hiệu quả được khi mà
khách hàng bât hợp tác. Nguyên nhân tâm lý
này thường gặp ở những bị can dưới 18 tuôi
phạm tội lan dẫu, do bị lôi kéo, lừa dối, cưỡng
ép mà phạm tội, do hoàn cảnh đặc biệt mà
phạm tội, hoặc bị can thây phải chịu hình phạt
cao nhât... Đây là nguyên nhân tâm lý thuộc
dạng tiêu cực, do đó người tiên hành tô tụng
và người bào chừa cho các em cân tác động
tâm lý, phân tích đúng - sai trong cách ứng xử
của họ, hoặc dựa ra các tình huong có thể xảy
ra để bị can thấy được điều sai trái trong phản
ứng hiện tại của họ, để từ đó bị can thay cần
phải thay đơi.
Có thể nói, những đặc điểm tâm lý nào và
xuất hiện ra sao ở bị can dưới 18 tuổi phụ thuộc
vào hoàn cảnh phạm tội cụ thể, hoàn cảnh bị bắt
cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn;,
hậu quả của tội phạm và sự cảm nhận của họ vê

tính nghiêm trọng của tội phạm. Đặc diêm tâm
lý của bị can không chỉ chịu tác động bởi thái độ,
phong cách và phương pháp hỏi của Cán bộ điêu
tra mà còn bị chi phối bởi cách tiếp xúc của luật
sư. Vì vậy, luật sư cân phải nghiên cứu kĩ các đặc
điểm tâm lý của bị can và nguồn gốc sự việc để
có phương pháp làm việc phù hợp.
Thứ ba, một sô đặc điêm tâm lý riêng của bị
cáo dưới 18 tuổi.
Đặc điểm tâm lý của bị cáo dưới 18 tuổi
trong hoạt động xét hỏi tại phiên tịa rât đa dạng
tùy thuộc vào cơng việc, trình độ học vân, lân
đầu phạm tội hay phạm tội nhiều lần; tính chất
và mức độ nguy hiêm cho xã hội của hành vi
phạm tội...

0

So với các giai đoạn tố tụng trước đó, ở giai
đoạn xét xử bị cáo có tâm lý ôn định hơn, không
còn bỡ ngỡ với hoạt động tô tụng như ở giai đoạn
điêu tra. Bị cáo đã biêt được cơ quan tơ tụng có
những chứng cứ gi buộc tội mình, họ tự đánh giá
được mức độ hình phạt mà bản thân phải chịu.
Bị cáo luôn mong muôn được Tòa án tuyên án
với mức án nhẹ hơn tội danh và hình phạt mà
Viện kiêm sát đã truy tơ (trừ trường hợp oan sai)
đê kêt thúc sớm việc thi hành án và được tự do
nên sẵn sàng khai báo tại Tịa.
Khi tham gia phiên tịa, bị cáo nói chung và

bị cáo dưới 18 tuổi nói riêng thường có tâm lý
căng thẳng, nhiều bị cáo có thể rơi vào trạng
thái bão hoà cảm xúc. Đối với bị cáo khi tham
dự phiên tồ, hiện tượng bão hịa càm xúc có
thê xảy ra như là hệ quả của trạng thái tâm lý
căng thăng quá mức kéo dài trong suôt các giai
đoạn của hoạt động tố tụng từ giai đoạn điều
tra cho đên giai đoạn xệt xử tại Tịa. Ngồi ra,
các yếu tố khác dẫn đến hiện tượng bão hoà
cảm xúc ở bị cáo bao gồm: diễn biển tại phiên
tồ khơng đúng như kì vọng của bị cáo, tác
động mạnh mẽ của dư luận xã hội, điêu kiện
sức khọẻ, biên cơ gia đình hay chứng kiên sự
đau khơ của người thân tại Tịa... Khi bị rơi vào
trạng thái bão hoà cảm xúc, bị cáo sẽ có ứng
xử tại phiên tồ một cách máy móc, kém nhanh
nhạy và sáng st, do đó, khơng trình bày được
một cách thuyết phục những vấn đề có liên
quan đên vụ án hoặc không trả lời được một
cách logic, rõ ràng và mạch lạc các câu hỏi của
những người tiên hành tơ tụng tại phiên tịa.
Bị cáo dưới 18 ti thường là người có ít
kinh nghiệm sống, ít vạ chạm trong cuộc sống,
tính tự chù và kiêm chế cảm xúc yếu khi tham
gia phiên tịa có đơng người tham gia. Trước
thái độ của bị hại, người bào chữa và người
thân bị hại, dư luận xã hội về vụ án nên có thể
xuât hiện các cản) xúc, lời nói và hành vi bột
phát, thiếu-sáng suốt. Bị cáo dưới 18 tuổi tại
phiên tịa có thê xt hiện những biêu hiện tâm

lý trái ngựợc nhau: Có bị cáo thì tỏ ra sợ hãi,
hơi hận đơi với hành vi vi phạm pháp luật của
mình, song ngược lại thì cũng có những bị cáo
thể hiện “chat anh hùng” của mình, bất cần,
khơng chút sợ hại, thậm chí có hành vi cố tình
cười cợt... thể hiện sự hạn chế trong nhận thức
vê pháp luật, sự nhận thức không đây đủ hoặc
phiến diện về chuẩn mực đạo đức.


số 5/2022 - Năm thứ mười bảy

Nghé Luột
2. Đặc điểm tâm lý tư pháp của bị hại là
người dưói 18 tuổi
Đối với bị hại là người dưới 18 tuổi, khi bị
hành vi phạm tội xâm hại, nhóm đối tượng này
thường bị tôn hại nặng nê hơn vê thê chât, tinh
thần; hậu quả do hành vi phạm tội để lại thường
sâu săc, lâu dài hơn sq với người đã thành niên.
Bị hại dưới 18 tuổi là tất cả những người ở
mọi độ tuổi dưới 18 mà không phải chỉ ở độ tuổi
14-18 như đôi với người bị buộc tội. Người dưới
18 tuổi dễ bị tội phạm xâm hại, khả năng tự bảo
vệ bản thân còn hạn chê do ngây thơ, cả tin, thiêu
hiêu biêt xã hội. Khi bị tội phạm xâm hại, họ có
nguy cơ bị tổn thương cao hơn (cho rằng tổn thất
mình phải gánh chịu là quá lớn, xã hội quá bât
công, cuộc đời quá bât hạnh, người lớn q vơ
tâm). Một số bị hại dưới 18 tuổi có diễn biến tâm

lý tiêu cực theo chiêu hướng tự đô lơi cho bản
thân, tự ốn trách bản thân hoặc ngược lại chưa
ý thức được vê tơn thât mà mình đã trải qua hoặc
những hậu quả mà mình sẽ phải gánh chịu trong
những giai đoạn săp tới.
Người dưới 18 tuôi bị xâm hại là nạn nhân
của các hành vi bạo lực, lạm dụng tinh dục hoặc
đe doạ tâm lý làm tôn thương vê thê xác và tinh
thân, trí tuệ (người chưạ thành niên bị xâm hại là
nạn nhân trong từng điêu luật cụ thê). Đặc diêm
cơ bản của người dưới 18 tuổi bị xâm hại nói
chung bao gơm:
- Bị tổn thương về thể xác, đau đớn về cơ thể,
hành vi xâm hại đã làm cho cơ thê hoặc một bộ
phận của cơ thể hoạt động khơng bình thường,
sự tơn hại đó được thê hiện ra bên ngồi như: vêt
bâm tím, ,vêt xây xước, vêt hăn, sẹo...
- BỊ tổn thương về mặt tinh thần: Bị hại dưới
18 ti thường có tâm lý hoảng sợ, lo lăng, căng
thăng, luôn bị ám ảnh kéo dài vê các hành vi đã
gây ra tổn thương cho các em; lo lắng, sợ hãi khi
nhớ lại sự việc hoặc gặp lại, nhìn thây người lạ có
hình dáng, đặc diêm, thái độ, động tác như kẻ đã
gây ra sự việc đôi với các em; sợ tiêp xúc với cha
mẹ, người lạ và thường xuyên có những ác mộng
khi ngủ...
Trong nhóm tội phạm xâm phạm danh dư,
nhân phâm con người, các tội danh liên quan đên
xâm phạm tình dục, đặc biệt là xâm hại tình dục
trệ em là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng

đến tâm, sinh lý bị hại. Một số đặc điểm tâm lý
của bị hại là trẻ em bị xâm hại tình dục có thê
thây như:

- Trẻ bị xâm hại tình dục thường có cảm giác
xấu hổ và tội lỗi, trẻ tự đổ lồi cho ban thân mình
vệ những gì đã xảy ra với trẻ và có cảm giác xấu
hổ vì mình là nạn nhân. Từ tâm lý xấu hổ, mặc
cảm tội lôi này sẽ ngăn cản việc trẻ khai báo,
trình bày lại sự việc với luật sư cũng như các cơ
quan bào vệ pháp luật. Hiêu được trạng thái tâm
lý trẻ em như vậy, giúp lụật sư tìm hiểu thêm về
tâm lý trẻ em và diên biên tâm lý của trẻ đê có
phượng pháp tiếp xúc, trao đổi và kế hoạch bảo
vệ tốt nhất cho các em.
- Trẻ tự ti và nhút nhát không tin tưởng vào
bản thân, vào người khác và vào môi trường
xung quanh. Trẻ mât khả năng chia sẻ cảm xúc
và vật chât của mình với người khác do đó sẽ
thiêu sự hợp tác trong quá trình làm việc với luật
sư cũng như cơ quan bảo vệ pháp luật. Với đặc
diêm tâm lý này, trẻ thường có độ lì cao độ,
khơng nói và không trả lời, không nghe. Trạng
thái này không thuộc dạng chống đối bất hợp tác
mà quá tự ti dan đen không thể hợp tác được.
- Trẻ thê hiện nhiêu hành vi tự hủy hoại bản
thân khác nhau như tự gây ra tai nạn cho mình,
cố tình để bị đau ốm, đến việc có hành vi cổ gắng
tự sát.. .Đây là cách để trẻ thốt khỏi cảm nhận
khơng tơt vê bản thân. Dạng tâm lý này còn được

gọi là tâm lý của dạng tự kỷ, trâm cảm, stress nên
thường có những hành vi hành hạ bản thân mới
thấy mình đỡ xau hổ, tủi nhục. Hiểu được trạng
thái tâm lý bất ổn này, giúp luật sư có phương án
tiêp cận và đưa trẻ ra khỏi trạng thái đó, an ủi và
động viên kịp thời giúp trẻ bình tĩnh và hợp tác
với luật sư.
- Trẻ coi các đổi tượng xung quanh gắn liền
với mối đe dọa, sự sợ hãi, với nguy cơ se bị đối
xừ tơi tệ dưới hình thức này hay hình thức khác.
Một trong những biểu hiện lớn nhất của rối loạn
tinh thân ở trẻ bị xâm phạm tình dục là sự khó
khăn trong giao tiêp với mọi người xung quanh,
kê cả người lớn và bạn bè cùng trang lứa.
Thựờng gặp trạng thái tâm lý này ở trẻ em có
nhiêu thiệt thịi trong cuộc sơng, như trẻ em lang
thang đường phơ, trẻ mơ cơi, trẻ em bị lạm dụng
tình dục hoặc sức lao động...
- Trẻ có phản ứng bốc đồng, hiếu chiến,
ngang bướng do bắt chước hành vi của kẻ xâm
hại, có thê lặp lại hành động tình dục đó với trẻ
khác... Những điêu này khiên trẻ gặp khó khăn
trong việc xây dựng quan hệ tốt đẹp với bạn bè
do vậy càng làm cho trẻ thêm tự ti, tự hạ thâp giá


HỌC VIỆN Tư PHÁP

trị bản thân;
- Trẻ thường có tâm lý bực tức, căng thẳng

điều này có thể ảnh hưởng nặng nề đến quá trình
phục hổi và cuộc sống sau này của trẻ;
- Trẻ trở nên thụ động, tránh né mọi khả năng
phải đơi đâu, hồn tồn phục tùng và nghe lời
của người khác, lựa chọn thái độ quá cân trọng
trong mọi việc, luôn tỏ ra cân sự bảo vệ đê tránh
mọi răc rôi, nhạy cảm với những lời phê bình,
khơng tự nhiên, thiếu tư tin;
- Trẻ có thể có biểu hiện rối loạn hành vi.
Mức độ bị xâm hại tình dục có ảnh hướng lóp
đên tâm lý của các em và những biêu hiện rôi
loạn hành vi của môi em cũng khác nhau.
Sự thiệt hại về thể chất, tinh thần hay tài sản
đêu có tác động rât mạnh tới trạng thái thân kinh
- tâm lý của bị hại dân đên việc suy giảm khả
năng kiêm chê cảm xúc. Có những trường hợp
bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm
trqng vê mặt tâm lý (sợ hãi, suy nhược vê tinh
thần và thể chất, rối loạn tâm than và hành vi) do
tác động bởi hành vi phạm tội gây ra. Vì vậy, khi
tiếp xúc với luật sư? phần lớn bị hại thuộc trường
hợp này khi yêu câu cung câp các thông tin vê
vụ việc mà họ phải trải qua thì có thể xuất hiện
sự xúc động, hoảng loạn cảm xúc và hành vi. Do
đó, họ khơng thể tự mình cung cấp thơng tin đầy
đủ, chính xác vê vụ việc.
Ngồi ra, bị hại là người dưới 18 tuổi thường
có tâm lý lo sợ khiến họ rơi vào trạng thái bât
hợp tác, từ chịi khai báo. Lý do từ chơi khai báo
có thê là do bị hại có quan hệ đặc biệt với kẻ

phạm tội, có tâm lý khơng mn người thân bị
trừng phạt hoặc có tâm trạng xâu hơ (trong
những vụ án bị hại bị kẻ phạm tội xâm hại tình
dục nên khơng mn những người khác biêt),
hoặc người bị hại lo sợ sự khai báo sệ ảnh hưởng
đến hạnh phúc hoặc làm lộ những điều bí mật ve
đời tư hoặc tội lôi khác của họ. Trên thực tê, rât
nhiêu bị hại dưới 18 tuổi không hợp tác với cơ
quan tiến hành tố tụng do các nguyên nhân khách
quan như do phải đên trường, do tác động của
gia đình và do nguyên nhân chủ quan (sợ đên cơ
quan công an, sợ đến bệnh viện đe giám định, sợ
phải nhớ lại, nhăc lại quá trình bị tội phạm xâm
hại, sợ gặp lại ngựời phạm tội, sợ bạn bè và dư
luận xã hội đàm tiêu). Vì vậy, khi tiêp xúc với bị
hại trong những trường hợp này phải tê nhị,
không hỏi vê các tình tiêt diên biên cụ thê, khi
tiếp xúc phải xác định chính xác nguyên nhân

tâm lý cản trở sự khai báo của họ để lựa chọn
cách thức bảq vệ lợi ích họp pháp cho họ.
3. Đặc điểm tâm lý tư pháp của người làm
chứng là người dưới 18 tuổi
Người làm chứng nói chung có tâm lý sợ
phiền hà, không muốn mất thời gian ảnh hưởng
tới công việc và sinh hoạt của mình, tốn kém tiền
của hoặc bị phía đôi tượng trong vụ án mua
chuộc. Là người làm chứng cũng có nghĩa là
tham gia vào hoạt động tơ tụng, vì vậy người làm
chứng có nghĩa vụ pháp lý trong st q trình

điêu tra, truy tơ, xét xử vụ án hình sự. Người làm
chứng có the được cơ quan tiến hành tố tụng triệu
tập đễ lấy lời khai, nhận diện, đối chất vào bất kỳ
thời diêm nào trong quá trình giải quyêt vụ án
theo quy định của pháp luật. Điêu đó ảnh hưởng
đên thời gian làm việc, học tập, sinh hoạt, thu
nhập kinh tê thậm chí phải mât chi phí cho việc
làm chứng (chi phí đi lại, ăn ờ). Đơi với người
làm chứng là người dưới 18 ti, ngồi tâm lý
nệu trên, các em thường lo lắng, sợ hãi bởi một
sơ ngun nhân sau đây:
- Do ít kinh nghiệm, ít va chạm nên các em
chưa có khả năng đê có thê tự bảo vệ mình, tâm
lý sợ bị trả thù, sợ gia đình liên lụy khi đứng ra
làm chứng.
- Các em sợ bị xử lý trước pháp luật do bản
thân có liên quan tới sự việc tội phạm ở mức độ
nhât định hoặc sợ bị phát hiện hành vi không tơt
của mình, sợ bị liên đới chịu trách nhiệm với kẻ
phạm tội. Trường hợp người làm chứng khơng
có hành vi liên quan tới sự việc phạm tội nhưng
tình cờ được chứng kiên hành vi phạm tội trong
khi bản thân các em đang làm những chuyện
khơng đúng, do đó họ chỉ muôn tránh xa các cơ
quan bảo vệ pháp luật đê khơng bị lâm vào tình
cảnh rắc rối. Đó cịn chưa kể tới những trường
hợp đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật,
phạm tội nhưng chưa bị phát hiện, họ rất sợ phải
tiêp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật vì theo tâm
lý “có tật giật mình”. Trong thâm tâm họ luôn sợ

rang “cái sảy nảy cái ung” nên tốt nhất không nên
ra làm chứng để bảo vệ an tồn cho bản thân
mình.
- Các em sợ ảnh hưởng khơng tốt đến uy tín,
danh dự của bản thân hoặc đến mối quan hẹ với
các đôi tượng trong vụ án. Khi ra làm chứng
trước pháp luật, các em sợ bị mọi người xung
quanh hiểu lầm mình có dính líu gì đó đến vụ án
nên mới bị cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập.


số 5/2022 - Nỉm thứ mười bảy

NghềLuât
Mặt khác trong xã hội vẫn còn nhiềụ người thành
kiến với việc kiện tụng, coi việc tố cáo nhau là
xâu dù họ biêt việc bị tộ cáo là việc xâu, thậm
chí là tội phạm. Họ muôn tội phạm bị trừng trị
nghiêm minh nhưng nhiêu người vân cảm thây
“áy náy” vì cho răng vì mình đứng ra làm chứng
mà người khác vào tù. Việc làm chứng vói họ rât
khó khăn nên thường thiêu nhiệt tình. Nêu giữa
người làm chứng và bị can, bị cáo có mơi quan
hệ thân quen thì các em cịn có thêm tâm lý sợ bị
đưa lên bàn cân của dư luận, bị mât lịng tin với
gia đình, bạn bè, đơng nghiệp, sợ bị tây chay.
Như vậy, việc nhận diện đúng đặc diêm tâm
lý của người bị buộc tội, bị hại, người làm
chứng là người chưa thành niên có ý nghĩa quan
trọng đối với các cơ quan tiến hành to tụng và

luật sư khi tham gia giải quyêt vụ án. Đê người

chưa thành niên được lắng nghe và bảo vệ,
người tiến hành tố tụng va luạt sư cần được
trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết về đặc điểm
tâm lý tư pháp của người chưa thành niên, điều
đó giúp cho việc giải quyết vụ án diễn ra thuận
lợi. Đoi với luật sự, việc hiểu được và tỏ ra đồng
cảm với những vân đê tâm lý mà khách hàng là
người chưa thành niên đang gặp phải sẽ tạo ra
sự giao tiếp thấu hiểu và cảm thơng dẫn đến
hình thành thiện cảm, tin tưởng và sẵn lịng chia
sẻ các vấn đề từ phía khách hàng đối với luật
sư. Đồng thòi, hiểu rõ được đặc diem tâm lý của
người bị buộc tội và bị hại, người làm chứng
giúp luật sư biết cách sàng lọc, đánh giá, phản
biện thông tin do khách hàng cung câp nhăm có
được những chứng cứ giá trị phục vụ cho cơng
việc của mình./.

RANH GIỚI GIỮA QUYEN bảo vệ sự TỒN VẸN CỦA TÁC PHAM
VÀ QUYỀN LÀM TÁC PHAM PHÁI SINH
(Tiếp theo trang 44)
phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
Điều nay sẽ tránh việc lợi dụng danh tiếng, sự
phổ biến của tác phẩm gổc để trục lợi và ở một
mức độ nào đấy, giới hạn, thu hẹp khả năng sáng
tạo trong lĩnh vực SHTT.
Thứ ba, đôi với trường hợp “biên tập tác
phàm của tác giả đã qua đời”, cân xác định rõ

quyên và giới hạn của hành vi biên tập. Nghĩa là,
việc biên tập có được phép khơng, trên cơ sở
pháp lý nào. Nêu việc biên tập là có cơ sở pháp
lý, cần làm rõ phạm ỵi biên tập, ví dụ, chỉ được
biên tập vê kỹ thuật, lơi chính tả, khơng được ảnh
hưởng đến nội dung, hình thức và các yếu tố
khác của tác phẩm4. Trường hợp này, có thể bổ
sung như một ngoại lệ của quyên bảo vệ sự tồn
vẹn của tác phẩm hqặc được giải thích để hiểu rõ
vê nội hàm của quyên bảo vệ sự toàn vẹn của tác
phâm cho phép các hành vi này.
Có thể nói, tác phẩm là kết quả của hoạt động
sáng tạo tinh thân cân được tôn trọng đôi với các
chủ thê sáng tác, cũng như quyên khai thác, sử
dụng tác pham cần được đảm bảo đối với các chủ
sở hữu quyên tác giả. Quy định của pháp luật bảo

hộ về quyền tác giả, quyền liên quan cũng nằm
trong lý thuyết nen tảng về sự can bằng lợi ích
giữa nhu câu yê khoa học, nghệ thuật của xã hội
và sự công bằng, phần thưởng cần có dành cho
cơng sức của chủ thê sáng tạo. Chính vì vậy, khi
các quy định của pháp luật SHTT được xây dựng
chính xác, phù hợp, sẽ đóng vai trò hữu hiệu
ưong bảo vệ các quan hệ pháp luật, giảm thiêu
những tranh châp, bât cập khơng đáng có trên
thực te, hỗ trợ việc áp dụng pháp luật trên thực tế
một cách phù hợp. Đông thời, hệ thông pháp luật
sẽ là công cụ hiệu quả của Nhà nước trong việc
khụyến khích sáng tạo, dem đến những lợi ích

thiết thực cho cộng đồng xã hội, thông qua thụ
hưởng các thành quả sáng tạo. Do đó, yêu câu
xác định rõ ràng và phân định minh thị ranh giới
giữa quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm và
quyền làm tác phẩm phái sinh và những vấn đề
liên quan, cân đặt ra nghiêm túc, đặc biệt frong
giai đoan Việt Nam vừa tham gia nhiều Điều ước
quốc tế ưong lĩnh vực SHTT và Luật SHTT của

chúng ta đang được Quộc hội xem xét thông qua
các nội dung sửa đôi, bô sung./.

4 Vụ việc liên quan đến chinh sửa, hoàn thiện tác phẩm “Nhật kí Đặng Thuỳ Châm” theo yêu cầu của gia đinh,
(https ://www.bbc. com/vietnamese/vietnam/story/2005/10/051009_dang_thuy_tram_argument).



×