Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo "Về khái niệm hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.48 KB, 4 trang )



nghiên cứu - trao đổi
28 - Tạp chí luật học

Về khái niệm hình sự hoá
các giao dịch dân sự, kinh tế

Đinh Mai Phơng *
Nguyễn Văn Cơng
iện nay, hiện tợng một số hành vi vi
phạm nghĩa vụ xác lập từ các giao dịch
dân sự, kinh tế không cấu thành tội phạm bị
khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử theo pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự đang là vấn đề
bức xúc đợc d luận, giới nghiên cứu và các
nhà hoạt động thực tiễn đặc biệt quan tâm.
Tình trạng này không chỉ gây nhiều thiệt hại
trực tiếp đối với không ít ngời dân, các nhà
doanh nghiệp mà còn làm tổn hại môi trờng
đầu t, kinh doanh, gây mất niềm tin vào nền
công lí và nền t pháp. Thực tiễn ấy đòi hỏi
phải có sự quan tâm nghiên cứu, luận giải của
các nhà khoa học pháp lí để sớm có giải pháp
khắc phục.
Theo thống kê, trong năm 1998, chánh án,
phó chánh án TANDTC, viện trởng
VKSNDTC đ kháng nghị tất cả 279 vụ án
trong đó có 48 vụ án về các tội lừa đảo, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng
trái phép tài sản XHCN. UBTP TANDTC và


Toà hình sự - TANDTC đ xét xử 33 vụ án,
trong đó có 8 vụ toà án cấp giám đốc thẩm đ
xác định các bị cáo không phạm tội hình sự,
chuyển giải quyết lại theo thủ tục kinh tế hoặc
dân sự; 19 vụ bị sửa đổi từng phần do có những
hành vi đ bị hình sự hoá không đúng pháp
luật. Cũng trong năm 1998, các toà án địa
phơng đ gửi hồ sơ vụ án về TANDTC để trao
đổi với tổng số là 39 vụ án do VKSND truy tố
các bị cáo về các hành vi lừa đảo hoặc lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhng qua
nghiên cứu chuẩn bị xét xử TAND cấp tỉnh
thấy có vấn đề vớng mắc về tội danh và đờng
lối xử lí vụ án, cần trao đổi xin ý kiến
TANDTC. Qua nghiên cứu các vụ án này
TANDTC cũng đ phát hiện khoảng 1/3 số vụ
án, trong đó các bị can bị truy tố không đúng
tội hoặc oan và theo yêu cầu các cơ quan tiến
hành tố tụng ở cấp tỉnh xem xét và giải quyết
lại theo trình tự thủ tục các vụ án dân sự hoặc
kinh tế.
(1)
Theo Báo cáo của VKSNDTC, trong
năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000, đ có 76
vụ án và 349 bị can bị khởi tố, điều tra về các
nhóm tội: Tội phạm kinh tế, xâm phạm sở hữu
nhà nớc, xâm phạm sở hữu công dân sau đó
phải đình chỉ điều tra vì không có tội mà thực
chất đây chỉ là vụ việc thuộc các quan hệ dân
sự và kinh tế.

(2)
Cũng theo Báo cáo này, có 115
ngời bị khởi tố, điều tra, truy tố và đa ra xét
xử sau đó toà án đ tuyên bị cáo không phạm
tội (trong đó có 59 ngời do toà án cấp sơ thẩm
tuyên án và 56 ngời do toà án cấp phúc thẩm
tuyên án không phạm tội).
Để đặt tên cho hiện tợng kể trên, trên báo
chí, công luận và một số nhà nghiên cứu đ
xuất hiện một số cách gọi tơng đối phổ biến
nh hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế,
hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế,
hình sự hoá các tranh chấp dân sự, kinh tế
(3)

H

* Viện nghiên cứu khoa học pháp lí - Bộ t pháp


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 29

(xin gọi chung là "hình sự hoá các giao dịch
dân sự, kinh tế")
Cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau về việc có nên hay không nên sử dụng
cụm từ này đồng thời cũng có nhiều ý kiến
khác nhau về cách hiểu của cụm từ này. Đáng
lu ý có quan điểm cho rằng cách dùng cụm

từ hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế
là hoàn toàn không chính xác về mặt khoa học
và vì vậy không nên sử dụng cụm từ này. Vấn
đề mấu chốt của sự phản đối này chính là sự
bất đồng trong việc sử dụng cụm từ hình sự
hoá. Thực ra, cụm từ hình sự hoá đ trở
thành một trong những khái niệm cơ bản của
khoa học luật hình sự truyền thống. Trong lí
luận luật hình sự truyền thống, hình sự hoá
(penalisation) cùng với khái niệm tội phạm
hoá (criminalisation), phi tội phạm hoá
(decriminalisation), phi hình sự hoá
(depenalisation) trở thành những khái niệm
chủ chốt để mô tả quá trình phát triển, vận
động của luật hình sự. Theo lí luận luật hình
sự truyền thống thì tội phạm hoá là việc
thông qua hình thức văn bản nhất định, nhà
làm luật quy định những hành vi nào đó là tội
phạm. Còn việc quy định hình phạt hay xác
định loại hình phạt, khung hình phạt, điều
kiện quyết định hình phạt đối với loại tội
phạm này hay tội phạm kia đợc khoa học
pháp lí hình sự gọi là hình sự hoá. Nh vậy,
"hình sự hoá" chỉ diễn ra ở giai đoạn xây dựng
pháp luật chứ không thể có ở giai đoạn áp
dụng pháp luật. Thêm vào đó chỉ có Quốc hội
mới có thẩm quyền tiến hành việc hình sự
hoá. Quan điểm này đ đợc trình bày khá
nhất quán trong các tác phẩm về lí luận luật
hình sự ở Việt Nam.

(4)

Xuất phát từ cơ sở đó thì rõ ràng việc giải
thích cụm từ hình sự hoá các giao dịch dân
sự, kinh tế hoặc hình sự hoá các quan hệ
dân sự, kinh tế bằng cách tổng hợp nghĩa của
các cụm từ thành phần sẽ trở nên có vấn đề.
Khi đó cụm từ "hình sự hoá các giao dịch dân
sự, kinh tế" sẽ không thể có nội hàm phản ánh
hiện tợng áp dụng pháp luật oan sai trong
việc xử lí các vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch dân sự, kinh tế. Đây cũng chính là lí
do cơ bản để không ít nhà nghiên cứu phản
đối việc sử dụng cụm từ "hình sự hoá các giao
dịch dân sự, kinh tế" để phản ánh hiện tợng
xử lí oan sai các vi phạm nghĩa vụ trong giao
dịch dân sự, kinh tế bằng pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, cụm từ
hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế
hoặc hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh
tế xuất hiện khá độc lập với bản thân cụm từ
hình sự hoá của khoa học luật hình sự
truyền thống. Cách hiểu về hình sự hoá
trong cụm từ hình sự hoá các giao dịch dân
sự - kinh tế đợc sử dụng nhiều trên báo chí
và trong nhiều bài viết của một số nhà nghiên
cứu trong một vài năm gần đây không có nội
hàm nh khái niệm hình sự hoá vừa phân
tích ở trên. Thay vào đó khi đợc sử dụng để
mô tả hiện tợng oan sai trong tố tụng, mô tả

hành vi trái pháp luật của cơ quan tố tụng
trong việc làm oan sai ngời vô tội thì cụm từ
này đ mang trong mình nội hàm mới. Với
việc xuất hiện trên hàng chục báo chí, nhiều
diễn đàn quan trọng đợc thông tin trong toàn
quốc trong thời gian qua cụm từ "hình sự hoá
các giao dịch dân sự, kinh tế" đ trở thành
cách sử dụng khá phổ biến và chứng tỏ sức
sống độc lập của nó. Nh vậy, việc xuất hiện
và sử dụng cụm từ hình sự hoá các giao dịch


nghiên cứu - trao đổi
30 - Tạp chí luật học

dân sự, kinh tế là hiện tợng ngôn ngữ, có
thể coi nh kiểu "dùng mi thành quen" và
nhờ đó trở thành cụm từ có sức sống độc lập
với các cụm từ thành phần. Nếu thừa nhận lập
luận này, việc sử dụng cụm từ hình sự hoá
các giao dịch dân sự, kinh tế sẽ không thể bị
coi là thiếu khoa học mà ngợc lại do đợc sử
dụng rộng ri trên diễn đàn, trên báo chí,
trong công luận việc sử dụng cụm từ kể trên
có giá trị thực tiễn to lớn.
Tuy vậy, vấn đề hiện nay phải đặt ra chính
là làm sao thống nhất đợc những nội dung cơ
bản trong nội hàm của cụm từ này bởi lẽ, hiện
tại tuy việc sử dụng cụm từ kể trên khá phổ
biến song không phải những ngời sử dụng

đều đ thống nhất về cách hiểu cụm từ này.
Trong thực tế, có ý kiến cho rằng hình sự hoá
các giao dịch dân sự, kinh tế là việc xử lí các
hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế cha
cấu thành tội phạm bằng biện pháp hình sự.
Có ý kiến chỉ bó hẹp việc xử lí các hành vi vi
phạm nghĩa vụ thanh toán, trả tài sản trong
các hợp đồng kinh tế dân sự bằng con đờng
hình sự mới là hình sự hoá. Có quan điểm cho
rằng hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế
xảy ra không chỉ trong quá trình áp dụng pháp
luật mà cả trong quá trình xây dựng pháp luật.
Qua các diễn đàn, hội thảo về chống hình sự
hoá các giao dịch dân sự, kinh tế vừa qua,
chúng tôi thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đều
tán đồng một số điểm sau đây trong nội hàm
của cụm từ (khái niệm) hình sự hoá các giao
dịch dân sự, kinh tế:
- Hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế
là hiện tợng đợc đặc biệt lu ý trong một
vài năm gần đây khi mà quá trình chuyển đổi
kinh tế diễn ra ngày một mạnh mẽ.
- Hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế
là sự sai lầm trong việc áp dụng pháp luật hình
sự.
- Sự sai lầm kể trên có thể là do cơ quan tố
tụng cha điều tra đầy đủ, khách quan, nôn
nóng trong khi giải quyết hoặc cũng có thể do
một số cán bộ biến chất trong các cơ quan tố
tụng cố ý hình sự hoá để trục lợi.

- Nội dung của sự sai lầm này là một hành
vi vi phạm nghĩa vụ dân sự hoặc nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng kinh tế (chủ yếu là nghĩa vụ
thanh toán, hoàn trả tài sản) không cấu thành
tội phạm nhng đ bị khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử theo pháp luật hình sự và tố tụng hình
sự.
Dựa trên những điểm thống nhất đó, có
thể hiểu khái niệm hình sự hoá các giao dịch
dân sự, kinh tế" nh sau: Hình sự hoá các
quan hệ dân sự, kinh tế là sự sai lầm trong
việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình
sự theo đó ngời có hành vi vi phạm nghĩa vụ
thanh toán, hoàn trả tài sản xác lập từ giao
dịch dân sự, kinh tế (chủ yếu từ hợp đồng dân
sự, kinh tế) tuy không cấu thành tội phạm
nhng đ bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
theo pháp luật hình sự và tố tụng hình sự bởi
các cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo cách hiểu này, hình sự hoá các giao
dịch dân sự, kinh tế trớc hết là sự sai lầm
trong việc áp dụng pháp luật hình sự, là dạng
làm oan sai ngời vô tội. Sự sai lầm này có thể
là do cố ý hoặc vô ý. Trong thực tiễn, tuy
không loại trừ hiện tợng cơ quan tố tụng
(thông qua ngời tiến hành tố tụng) cố ý hình
sự hoá nhng sự sai lầm này chủ yếu đợc
thực hiện một cách vô ý. Sự sai lầm ấy thể
hiện ở việc cơ quan tiến hành tố tụng đ khởi



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 31

tố, điều tra, truy tố (tức là áp dụng pháp luật
hình sự, áp dụng pháp luật tố tụng hình sự)
ngay cả đối với hành vi cha phạm tội (cha
đủ cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật
hình sự). Cách hiểu về hình sự hoá các giao
dịch dân sự, kinh tế kể trên cũng ám chỉ rằng
hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế là sự
can thiệp trái pháp luật của các cơ quan tố
tụng vào sự vận động bình thờng của các
giao dịch dân sự, kinh tế, do đó xâm hại tới
các quan hệ dân sự, kinh tế. Vì thế, chống
hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế cũng
là một trong những biện pháp bảo vệ các giao
dịch dân sự, kinh tế, làm lành mạnh môi
trờng kinh doanh, góp phần làm giảm rủi ro
trong môi trờng kinh doanh vốn đầy thách
thức của các nhà doanh nghiệp.
Nh vậy, có thể khẳng định rằng, không
nên coi việc sử dụng cụm từ hình sự hoá các
giao dịch dân sự, kinh tế là không có tính
khoa học, không có giá trị thực tiễn mà thay
vào đó, chúng ta cần thống nhất về cơ bản
cách hiểu về cụm từ này, nhận diện thực trạng
của hiện tợng, phân tích nguyên nhân và đề
ra hệ thống giải pháp hợp lí để sớm khắc phục
hiện tợng kể trên./.


(1).TS. Nguyễn Văn Hiện - Tạp chí kiểm sát số 6/1999.
(2).Xem: Báo Kinh doanh và Pháp luật số 44 ra ngày
2/11/2000. tr.15, Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh
số ra ngày 28/11/2000. tr. 3.
(3). Lời của ông Phạm Quốc Anh - quyền trởng Ban
nội chính trung ơng trả lời Báo lao động số ra ngày
29/5/2000.
(4). Xem: Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Viện nghiên cứu nhà nớc và pháp
luật, Nxb. Chính trị quốc gia 1994, tr.124; TSKH Đào
Trí úc: Luật hình sự Việt Nam, quyển 1 - Những vấn
đề chung, Nxb. Khoa học x hội - 2000, tr. 85.

Những vấn đề (Tiếp theo trang 17)
- Cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ
một năm đến năm năm (khoản 4 Điều 123;
khoản 3 Điều 124; khoản 3 Điều 125; khoản 3
Điều 126; khoản 3 Điều 127; khoản 2 Điều
129; khoản 3 Điều 131; khoản 3 Điều 132).
- Phạt tiền (khoản 3 Điều 125; khoản 3
Điều 131).
- Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm (khoản 2 Điều
129; khoản 3 Điều 131).
Với việc quy định thêm hai hình phạt bổ
sung là phạt tiền và cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định trong chơng "các tội
xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công
dân" không những thể hiện thái độ mềm dẻo

của Nhà nớc trong xử lí các tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân mà còn
góp phần loại trừ những điều kiện phạm tội
nhằm phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu
quả hơn.
6.3. BLHS năm 1999 bỏ hình phạt bổ sung
cấm đảm nhiệm chức vụ đối với tội tội buộc
ngời lao động, cán bộ, công chức thôi việc
trái pháp luật. Về điểm này, theo chúng tôi
đây là thiếu sót của nhà làm luật, bởi lẽ, áp
dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức
vụ đối với tội phạm này là cần thiết, góp phần
hỗ trợ hình phạt chính để đạt mục đích
phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
X hội ta đang trong quá trình chuyển đổi
mang tính cách mạng định hớng x hội chủ
nghĩa, xây dựng nhà nớc pháp quyền của
dân, do dân và vì dân với mục tiêu dân giàu,
nớc mạnh, x hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Những thay đổi cơ bản trong BLHS
năm 1999, đặc biệt những thay đổi tại chơng
các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân đ đáp ứng đợc những đòi hỏi cấp
thiết của x hội nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân./.

×