Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở VN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.11 KB, 46 trang )

I. Tổng quan về thuế thu nhập cá nhân:
1. Định nghĩa:
Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh vào thu nhập nhận được từ nhiều
nguồn khác nhau của các cá nhân trong xã hội, trong một thời kỳ nhất định ( thường
là một năm ).
Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế
này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở
tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Ðồng thời, tùy theo tính chất của
các khoản thu nhập cá nhân, người ta chia thu nhập làm hai loại: thu nhập thường
xuyên và thu nhập không thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Lần đầu tiên ở Anh
vào năm 1798, thuế TNCN được áp dụng và là nguồn thu quan trọng của Nhà nước
để trang trải cho việc mua sắm vũ khí, trang thiết bị trong cuộc chiến tranh chống
Napoleon (Pháp) với mức thuế lúc bấy giờ là 0,8333% đánh trên những khoản thu
nhập vượt quá 60 GBP và tăng đến mức 10% nếu vượt quá 200 GBP. Sau đó nhiều
nước tư bản phát triển khác cũng áp dụng thuế này như: Nhật (1887), Ðức (1899),
Mỹ (1913), Pháp (1914), Liên Xô (1922), Trung Quốc (1936), Hàn Quốc
(1974) Đây là loại thuế có tính công bằng nhất trong phân phối thu nhập xã hội.
2. Đặc điểm:
- Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập chính
đáng của từng cá nhân và Nhà nước thu tiền thuế trực tiếp từ các chủ thể trong nền
kinh tế. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế
theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế thu nhập cá
nhân không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng
khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một là đối
tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh
thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước
ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu
nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú
thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu
nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN. Vì vậy nó tạo ra nguồn thu rất


cao cho Ngân sách Nhà nước của mỗi quốc gia.
- Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế Thu nhập doanh
nghiệp ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù
quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có
tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại
1
trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp
xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi
mang tính nhân đạo xã hội.
- Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế
rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng
phương pháp luỹ tiến từng phần trên thu nhập chịu thuế. Có như vậy mới đảm bảo
công bằng xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn
còn một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế.
II. Hệ thống quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam:
1. Khái niệm công tác quản lý thuế TNCN :
- Quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của cơ quan chức năng trong
bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế TNCN để thay đổi quá trình này
nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu nhà nước đặt ra.
- Công tác quản lý thuế TNCN nhằm đạt được các mục tiêu sau:
+ Tăng cường tập trung, huy động đầy đủ và kịp thời số thu cho ngân sách nhà
nước trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.Thuế TNCN chiếm
tỉ trọng chủ yếu trong số thu ngân sách nhà nước ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới.Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thuế thu nhập nói chung và TNCN nói riêng sẽ
có tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động đầy đủ và kịp thời số thu cho NSNN.
+ Góp phần tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các TC kinh tế và dân
cư.
+ Phát huy tốt nhất vai trò của thuế TNCN trong nền kinh tế.
2. Nội dung công tác quản lý thuế TNCN:
Công tác quản lý là một phần quan trọng của quản lý tài chính nhà nước, công

tác này cần được nhìn nhận ở tầm vĩ mô và phải bao gồm toàn bộ các công việc thuộc
các lĩnh vực lập pháp , hành pháp , tư pháp về thu.
a. Ban hành chính sách thuế TNCN:
Đây là công việc thuộc lĩnh vực lập pháp.Việc ban hành chính sách thuế TNCN
sẽ tạo ra những quy định pháp luật làm cơ sở để tính và thu thuế.Đồng thời, ban hành
chính sách cũng đưa ra những căn cứ để kiểm tra, thanh tra, và áp dụng các chế tài
đối với quá trình tính và thu này. Để mỗi công dân đều sống và làm việc theo pháp
luật thì chính sách thuế TNCN cần được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản
sau:
- Việc xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách thuế cần đảm bảo tính đơn
giản, rõ ràng, chặt chẽ. Vì loại thuế này khá phức tạp nên nguyên tắc này cần được
đảm bảo để hạn chế hành vi trốn thuế của các đối tượng nộp thuế.
2
- Quy định trong chính sách thuế này cần đảm bảo được yêu cầu đặt ra trong
việc huy động nguồn thu cho ngân sách, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế-xã
hội và đảm bảo tính công bằng đối với cả người nộp thuế và xã hội.
- Thuế TNCN đóng vai trò phân phối lại thu nhập trong xã hội , giảm bớt sự
cách biệt quá lớn về mức sống giữa các cá nhân trong xã hội nhưng cũng cần động
viên sự phấn đấu làm việc của người lao động. Các quy định phải đảm bảo cho thu
nhập thực tế sau khi nộp thuế của các đối tượng nộp thuế tương xứng với công sức
lao động và sự đóng góp của họ.
- Để đảm bảo chính sách thuế TNCN phát huy hiệu quả cần chuẩn bị các điều
kiện cần thiết cho quá trình triển khai thực hiện , bao gồm: Phát triển mạnh hệ thống
thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt bằng các phương pháp bắt buộc và
khuyến khích tự nguyện, cải tiến và hoàn thiện chế độ kế toán, thống kê, thông
tin,báo cáo để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế TNCN, đặc biệt đối
với cá nhân , hộ gia đình tự doanh; phát triển hệ thống dịch vụ kế toán, tư vấn , kê
khai thuế chuyên nghiệp; Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan
quản lý nhà nước, các tổ chức cá nhân có liên quan.Nâng cao vai trò và thẩm quyền
của cơ quan thuế trong việc kiểm tra, kiểm soát, thanh tra thuế, cưỡng chế thuế; Tăng

cường tuyên truyền, vận động sâu rộng về chính sách thuế TNCN, xây dựng cơ chế
tiếp thu ý kiến thông tin phản hồi từ người nộp thuế .
b. Những nội dung cơ bản của chính sách thuế TNCN:
• Đối tượng nộp thuế:
3
Thuế TNCN thuộc loại thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế cũng đồng thời là
đối tượng nộp thuế.Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những nội dung quan
trọng của thuế TNCN, từ đó mới có thể vận dụng cách tính thuế cho phù hợp. Khi
tiến hành xác định đối tượng nộp thuế , người ta thường dựa vào hai tiêu thức là “nơi
cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”.
• Đối tượng tính thuế:
Việc xác định đối tượng tính thuế là một trong những vấn đề quan trọng hàng
đầu được đề cập đến trong chính sách thuế TNCN của các nước. Căn cứ vào đó,
người ta có thể thấy rằng loại thuế TNCN mà từng nước cụ thể áp dụng có công bằng
không, thuế này tạo được nguồn thu như thế nào cho ngân sách nước đó. Đối tượng
tính thuế ở đây là một số khoản thu nhập nằm trong trong diện tích thuế TNCN theo
quy định trong chính sách thuế TNCN của từng quốc gia. Để tính được thuế TNCN
cá nhân phải nộp trước tiên phải xác định những khoản thu nhập nào là đối tượng
tính thuế và tính toán thu nhập đó như thế nào. Sau đó , căn cứ vào 1 số quy định
khác trong chính sách thuế như các khoản miễn giảm, khấu trừ…cơ quan thuế xác
định được thu nhập tính thuế, từ thu nhập tính thuế và thuế suất sẽ xác định thuế phải
nộp.
• Các phương pháp tính thuế TNCN:
Thông thường, thuế TNCN được chia làm 2 loại riêng biệt : thuế TNCN theo
khoản và thuế TNCN tổng hợp.
+ Thuế thu nhập cá nhân theo khoản: là thuế được xác định theo từng nguồn thu
nhập. Ứng với mỗi nguồn thu nhập khác nhau. Do đó, tổng số thuế phải nộp chính là
tổng số thuế thu nhập mà họ phải nộp theo từng nguồn. Thuế TNCN theo khoản này
tồn tại với 2 nguyên tắc: tính thuế độc lập và có phân biệt thuế suất với các loại thu
nhập khác nhau. Từ đó, nó cho phép điều chỉnh tăng giảm mức đóng góp về thuế tùy

theo nguồn gốc thu nhập , có sự phù hợp giữa kỹ thuật tính thuế với đặc điểm của
mỗi loại thu nhập.
+ Thuế thu nhập cá nhân tổng hợp: là loại thuế được tính trên tổng thu nhập
tương ứng với tổng số các khoản thu nhập cộng lại. Thông thường, theo cách tính
này, người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp.
• Đơn vị tính thuế:
Cá nhân có thu nhập hoặc là hộ gia đình thường là đơn vị tính thuế.Vì thuế
TNCN ảnh hưởng đến hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế nên cần phân biệt cá
nhân có gia đình với cá nhân độc thân khi tính thuế. Với cá nhân độc thân, nhiều
người cho rằng cần phải tính thuế cao hơn cá nhân có gia đình vì họ chỉ phải chi phí
cho bản thân họ.Nhưng có người lại cho rằng nên tính thuế thấp hơn đối với những
người này vì họ đã chịu thiệt thòi do không được hưởng hạnh phúc gia đình. Nói tóm
4
lại, mỗi đơn vị tính thuế đều có những ưu, nhược điểm khác nhau. Tính thuế TNCN
trên thu nhập thực tế của từng cá nhân có ưu điểm là đơn giản, dễ làm, thu kịp thời
cho NSNN nhưng lại có nhược điểm là chưa đảm bảo được yêu cầu phân phối lại thu
nhập quốc dân qua thuế, chưa đáp ứng được tính công bằng xã hội.
• Thời gian tính thuế:
Thời điểm tính thuế phải là thời điểm thuận lợi cho công tác quản lý thu cũng
như việc kê khai và nộp thuế của người dân và phải chịu đảm bảo giá trị của đồng
tiền nộp thuế trước tình trạng lạm phát, đảm bảo việc chi tiêu theo kế hoạch của nhà
nước, tránh được việc chiếm đoạt tiền thuế.
Thông thường, các nước xác định mức thuế phải nộp từng năm. Ưu điểm của
việc sử dụng khoảng thời gian năm là đảm bảo nguồn thu nhập thường xuyên của
chính phủ để trang trải các chi phí vì các kế hoạch kinh tế-xã hội của chính phủ được
đặt ra hàng năm. Đây là khoảng thời gian hợp lý cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân
trên cơ sở hệ thống kế toán ở các doanh nghiệp đơn vị kinh tế hạch toán, quyết toán.
• Về miễn, giảm thuế TNCN:
Các nước cũng có quuy định về vấn đề này tùy theo trình độ phát triển kinh tế-
xã hội của từng quốc gia. Ví dụ như Mỹ quy định “suất miễn giảm thu nhập” cho

người nộp thuế trong trường hợp này phải chứng minh được rằng mình phải cung cấp
quá nửa sự hỗ trợ cho cá nhân ăn theo thì sẽ được miễn thu 3250 USD/năm. Mức này
được xác định theo tỷ lệ lạm phát từng năm có dự điều chỉnh.
c. Công tác tổ chức thực hiện chính sách thuế TNCN:
Sau khi đã được phê chuẩn và ban hành, chính sách thuế TNCN được tổ chức
thực hiện. Đây là khâu đóng vai trò quan trọng nhất quyết định của việc sử dụng
công cụ thuế. Nhờ việc tổ chức thực hiện chính sách thuế và quá trình tính, thu thuế
mới diễn ra trong thực tế, đồng thời các quy định về quá trình này mới đến được với
mọi người dân thông qua tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế. Nội dung tổ chức
thực hiện chính sách thu nhập cá nhân bao gồm:
• Tuyên truyên, phổ biến chính sách thuế:
Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay không thì
sự thành công việc thực hiện các chính sách thuế còn phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu
biết sâu sắc và ý thức chấp hành nghiêm túc của cán bộ thuế cũng như người nộp
thuế. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi người dân trong xã hội,cơ quan
thuế cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách thuế. Công tác
này cần phải được thực hiện trước hết từ cán bộ thuệ, sau đó tới mọi người dân.
• Tiến hành tổ chức quản lý thu thuế:
Muốn thực hiện tốt công tác quản lý thuế TNCN , cần phải xây dựng một đội
ngũ cán bộ thuế chuyên trách được đào tạo chuyên sâu trong công tác quản lý thu
5
thuế TNCN. Đội ngũ này cần phải được tổ chức 1 cách thống nhất, đồng bộ và có
khoa học. Nếu làm được điều này, chúng ta sẽ vừa tiết kiệm được chí phí cho công
tác quản lý thu thuế đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện tốt công tác này. Những nội
dung của công tác quản lý thu thuế TNCN bao gồm:
- Quản lý đối tượng nộp thuế:
+ Thanh tra thuế TNCN:
Thanh tra thuế được thực hiện bởi cơ quan thanh tra chuyên ngành thuế. Đối
tượng thanh tra thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước và bao gồm cả các đơn vị thuộc ngành thuế.

Mục tiêu của thanh tra thuế là phát hiện và xử lý các trường hợp sai trái nhằm
giảm bớt những tổn thất cho Nhà nước và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Đồng thời cũng qua quá trình thanh tra, cơ quan thuế có thể phát hiện những thiếu
sót, bất cập trong văn bản pháp luật thuế và quá trình tổ chức thực hiện, từ đó tìm ra
những giải quyết nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN.
+ Tổ chức bộ máy quản lý thuế TNCN:
Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thuế để quản lý thuế TNCN cũng như các
sắc thuế khác. Nhìn tổng thể trong phạm vi nền kinh tế quốc dân , cơ quan thuế ở các
nước trên thế giới đều được tổ chức thành một hệ thống bao gồm nhiều cấp. Tại
nhiều nước, hệ thống đó không hoàn toàn phù hợp với hệ thống chính quyền Nhà
nước và bao gồm : cơ quan thuế trung ương, cơ quan cấp tỉnh , thành phố và cơ quan
thuế cấp quận , huyện như Việt Nam, Trung Quốc
- Các nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý thuế TNCN:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN. Mỗi nhân tố đều
có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới công tác này tùy theo tính chất và trạng
thái của nhân tố đó. Nhiệm vụ của các cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước là
phải tìm cách hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực cũng như phát huy những ảnh
hưởng tích cực nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN. Các nhân tố chủ yếu
đó là:
+ Quan điểm của tầng lớp lãnh đạo nhà nước: Có ảnh hưởng trước hết tới các
chính sách thuế TNCN, sau đó là tới quá trình thực hiện và các công việc khác thuộc
phạm vi quản lí sắc thuế này.
Pháp luật thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị. Luật thuế nói chung và thuế
thu nhập nói riêng cũng không ngoại lệ.Một ví dụ cho điều này là sự đánh đổi giữa
công bằng và hiệu quả kinh tế. Nhìn chung, trong quá trình thực hiện công bằng, xã
hội phải chịu sự giảm sút của những hoạt động đang đạt hiệu quả kinh tế. Trong khi
cố gắng chuyển một phần thu thu thập của cá nhân X có thu nhập cao sang cho cá
nhân Y có thu nhập thấp hơn, hiệu quả kinh tế sẽ giảm sút do những lý do sau:
6
Cá nhân X đang tiến hành những hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế còn cá

nhân Y thì không. Khi cá nhân X phải nộp thuế thu nhập với thuế suất lũy tiến, anh ta
sẽ lựa chọn giữa đi làm và nghỉ ngơi để tối đa hóa lợi ích của mình. Thuế suất lũy
tiến đối với thuế thu nhập đã làm cho lợi ích do một giờ đi làm mang lại ngày càng
nhỏ hơn đi còn lợi ích của một giờ ngỉ ngơi vẫn không đổi. Vô hình chung, anh ta sẽ
được giảm giờ làm, tăng nghỉ ngơi để tối đa hóa lợi ích của mình.
Bên cạnh đó, với thu nhập nhận được tăng thêm từ cá nhân X, cá nhân Y sẽ
không thực hiện được những hoạt động mang lại hiệu quả cao như vậy.
Một nhà nước chú trọng công bằng hơn hiệu quả kinh tế sẽ có chính sách điều
tiết mạnh vào người có thu nhập cao, mức thuế suất sẽ tăng rất nhanh theo lượng thu
nhập tăng thêm. Điều này thông thường sẽ làm giảm nỗ lực làm việc của cá nhân có
thu nhập cao. Nhìn chung , hiệu quả kinh tế sẽ giảm.
+ Cơ sở vật chất của ngành thuế:
Nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác quản lý thuế THCN. Những
quy định trong chính sách về diện thu thuế (rộng hay hẹp) , phương thức kê khai, nộp
thuế, quyết toán thuế…phụ thuộc rất nhiều vào khả năng đáp ứng của ngành thuế.
Khả năng này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ sở vật chất của ngành thuế. Cũng như vậy,
một hệ thống thu thuế được kết nối bằng mạng nội bộ sẽ là một nhân tố rất hữu ích
cho cơ quan thuế trong việc quản lý thu thuế hiệu quả, chính xác, kịp thời và tiết
kiệm chi phí. Việc xây dựng mạng thông tin nội bộ để quản lý cơ sở dữ liệu sẽ đòi
hỏi những chi phí bước đầu tương đối lớn, nhưng xét về dài hạn thì điều này sẽ tiết
kiệm chi phí hơn rất nhiều so với việc quản lý dữ liệu theo kiểu thủ công.
+ Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo cán bộ thuế:
Trình độ đội ngũ cán bộ thuế vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế,
đặc biết là thuế TNCN. Nhân tố này tác động vào tất cả các nội dung của công tác
quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính sách, tổ chức thực hiện chính sách tới thanh
tra thuế, tổ chức bộ máy quản lý thuế.
+ Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư.
Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư ảnh hưởng lớn tới khâu quản lý
thu thuế và thanh tra thuế. Quản lý thuế THCN khó khăn và phức tạp chủ yếu ở khâu
quản lý thu nhập của các đối tượng. Nếu như các khoản thu nhập được thanh toán

qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức tài khoản séc cá nhân thì sẽ rất thuận tiện cho
cơ quan thuế trong việc giám sát. Bên cạnh đó, nếu phương thức thanh toán trong dân
cư chủ yếu thông qua ngân hàng thì nhà nước có thể áp dụng phương pháp thu thuế
TNCN thông qua ngân hàng. Điều này vừa giúp giảm bớt công việc và chi phí cho cơ
quan thuế, vừa kiểm soát chặt chẽ hơn thu nhập của đối tượng nộp thuế. Chính vì
vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng đi kèm với việc phát triển hình thức thanh
7
toán qua tài khoản sẽ là một điều kiện tất yếu để có thể thực hiện tốt công tác quản lý
thuế TNCN.
+ Tính nghiêm minh của luật pháp.
Cơ quan luật pháp làm việc có hiệu quả, thực hiện nghiêm minh sẽ đảm bảo việc
vi phạm luật giảm đi. Các đối tượng nộp thuế cũng như cơ quan thu thuế cũng sẽ
thực hiện nghiêm túc hơn các quy định trong luật thuế bởi họ biết rằng khi vi phạm
họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt nếu bị phát hiện. Như vậy, công tác quản lý
thuế TNCN sẽ đạt hiệu quả hơn.
+ Tình hình kinh tế và mức sống của người dân.
Hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào mức độ
phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế trên một khu
vực, số đối tượng nộp thuế TNCN sẽ giảm bớt chi phí trên 1 đồng thuế thu được, và
ngược lại. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục
vụ cho quản lý nói chung và công tác quản lý thuế TNCN nói riêng. Khi cơ sở hạ
tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả.
+ Ý thức chấp hành luật thuế của đối tượng nộp thuế:
Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng tỉ lệ thuận với
ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp hành luật thuế tốt, họ
sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế. Hanh vi trốn thuế sẽ ít xảy ra. Chính vì vậy, công
tác quản lý thu thuế và thanh tra thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn.
Tóm lại ý thức chấp hành luật thuế của đối tượng nộp thuế cũng ảnh hưởng một phần
tới công tác quản lý thuế TNCN.
III. Thực trạng thuế TNCN ở Việt Nam đến hết năm 2010:

1. Đánh giá chung:
Luật thuế TNCN ra đời đánh dấu một nỗ lực rất lớn của Nhà nước ta, đã luật
hóa được pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ấp ủ hơn 17
năm qua. Luật thuế TNCN được chuẩn bị, xây dựng rất kỹ lưỡng, lấy ý kiến của nhân
dân từ hơn 3 năm qua. Tuy nhiên, đây cũng là sắc luật gây nhiều tranh cãi nhất từ
trước đến nay. Luật thuế TNCN là một sắc thuế quan trọng nhằm tiến tới công bằng
xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối với đất nước và tạo
điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách nhà nước, củng cố an
ninh - quốc phòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, Luật thuế TNCN cũng còn có những rào cản và sự phức tạp, chưa
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Các nhà soạn luật cần tính toán
và điều chỉnh lại cho phù hợp, nhằm tăng tính khả thi của luật, thu hút sự đồng tình
ủng hộ của mọi thành phần trongxã hội để họ tự nguyện kê khai và nộp thuế, đảm
bảo sự công bằng xã hội, an sinh xã hội.
8
Và nếu bạn là một người làm công ăn lương và cũng là người phụ nữ đảm nhận
công việc gia đình, tôi hiểu và chia sẻ những khó khăn chung của bạn khi mà mỗi lần
đi chợ thấy giá cả nhiều mặt hàng tăng cao. Gia đình nào cũng bị ảnh hưởng, giá điện
tăng, tiền chi hàng tháng phải trả cao hơn, giá xăng tăng, đi lại cũng bị đắt đỏ hơn.
Mặc dù, chính sách thuế thu nhập cá nhân vẫn còn nhiều điểm bất hợp lí nhưng dù
thế nào đi nữa nếu đứng trên bình diện khách quan mà nói thì chúng ta cần phải xét
dưới nhiều góc độ ngân sách Nhà nước cần phải chi nhiều cho phúc lợi xã hội, hỗ trợ
người nghèo, mỗi người cần chung tay góp sức. Những đối tượng gặp khó khăn đã
được chúng ta miễn thuế rồi. Các đối tượng còn lại là những người có thu nhập cao
nên chúng ta cần kêu gọi họ đóng thuế để chung tay cùng với Chính phủ tăng thu
ngân sách. Thuế là nghĩa vụ của mọi công dân, mỗi người đóng góp một ít sẽ góp
phần nào đó để chung tay xây dựng đất nước. Cần phải đặt ngân sách Nhà nước với
người dân, tất cả các khoản chi tiêu hiện nay đều đặt gánh nặng lên ngân sách Nhà
nước. Càng lạm phát thì càng cần phải xử lý các vấn đề đối với bà con vùng sâu,
vùng xa, những vùng gặp khó khăn Những khoản chi lấy từ đâu, lấy từ ngân sách

mà Thuế là một trong số nguồn đó. Nói chung là người dân ai cũng muốn được miễn
giảm gia cảnh, bớt phải đóng thuế tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung thì ngân
sách Nhà nước cũng rất cần được chia sẻ.
Bên cạnh đó để Luật Thuế thu nhập cá nhân nhanh chóng đi vào cuộc sống một
cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật về thuế TNCN phải đặt lên hàng đầu.để luật thuế đi vào cuộc sống một cách
nhanh chóng, tạo sự đồng thuận của nhân dân và phát huy hiệu quả cao. Đây là công
việc mà ngành thuế không thể tự thân vận động, cần phải có sự tham gia của cả hệ
thống chính trị, để tạo tiếng nói chung, đặc biệt là vai trò tiên phong của các cơ quan
thông tin đại chúng là rất quan trọng; các cấp chính quyền và các tổ chức đoàn thể
phải hưởng ứng tích cực trong việc vận động nhân dân và thành viên của tổ chức
mình. Với ngành thuế, ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn cho các cơ quan chi trả
thu nhập, người kinh doanh, Cục Thuế đã in 4.500 tập tài liệu hướng dẫn về luật thuế
này để cung cấp cho các cơ quan, đơn vị trên toàn tỉnh và sẽ cung cấp các tờ rơi
tuyên truyền vận động thực hiện luật thuế này.
Ngành thuế cũng đã, đang và sẽ tiếp tục phối hợp tốt với Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy để đưa nội dung của luật đến tận cấp ủy cơ sở đảng. Các chuyên mục “Tìm hiểu
về thuế TNCN” phải nâng cao hơn hình thức và chất lượng tuyên truyền; cập nhật
các văn bản, tài liệu có liên quan đến lĩnh vực thuế TNCN đăng tải kịp thời trên
website của UBND tỉnh; chỉ đạo các chi cục thuế phối hợp các đài truyền thanh phát
lại truyền hình các huyện, thành phố tuyên truyền sâu rộng về luật thuế này. Đồng
thời, phát huy vai trò trách nhiệm của Hội đồng Tư vấn thuế xã, phường, thị trấn
9
trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân. Tiếp tục phối hợp với các sở, ban
ngành các đơn vị liên quan tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về thuế TNCN trong cán bộ
công nhân viên chức người lao động và học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh.
Cần xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta tiên tiến, phù hợp với
chuẩnquốc tế. Xây dựng cơ sở pháp lý về thanh toán, kiểm soát nguồn thu đồng bộ,
hiện đại hóa hệthống ngân hàng, ràng buộc mọi người, mọi tổ chức thanh toán,
chuyển tiền qua hệ thống ngânhàng nhằm kiểm soát được thu nhập của cá nhân, tổ

chức, từ đó mới có cơ sở để đánh thuếTNCN, đảm bảo tính công bằng trong việc thu
nộp thuế. Nâng mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá nhân lên 7 triệu
đồng/tháng chongười nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người phụ thuộc 2,8 triệu
đồng/tháng nhằm đảm bảo cho người dân có cơ hội tích lũy, có thêm thu nhập để chi
phí học tập thêm, tham gia các nhu cầu giải trí, du lịch và đặc biệt là trang trải các
khoản chi phí lớn hàng chục triệu đồng cũng nhưcơ hội tích luỹ để mua nhà.
Cần xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội tiên tiến, xây dựng cơ sở pháp lý phù
hợp, xâydựng đề án hạn chế dùng tiền mặt của người dân Tuyên truyền người dân
hạn chế sử dụngtiền mặt trong sinh hoạt Khi nền kinh tế ổn định, mức sống của
người dân cao, trình độ dân trí, ý thức trách nhiệm,nghĩa vụ của người dân về thuế
được nâng cao, khi đó sẽ áp dụng các mức thu thuế lũy tiến cao.
2. Kết quả đạt được:
• Kết quả về kinh tế:
Hiện nay hơn 180 nước đã áp dụng thuế TNCN. Theo xu hướng phát triển của
thế giới thì thuế thu nhập chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng số thu ngân sách.
Đặc biẹt là các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp…có tỉ trọng thuế thu nhập
chiếm khoảng 30-40% tổng thu ngân sách, số còn lại từ thuế giá trị gia tăng. Một số
nươc trong khối ASEAN như Thái lan, Malaysia, Philippin thuế TNCN chiếm
khoảng 13-14% tổng thu ngân sách Nhà nước. Họ không trông chờ vào thuế nhập
khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp như ở nước ta. Nhờ đó họ dễ áp dụng những
chính sách ưu đãi khác nhau cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ ăn nên làm
ra. Khi ấy họ sẽ tăng lương cho người lao động, người sau sẽ đóng thuế nhiều hơn.
Các chính phủ ấy có phương tiện tác động làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển.
Trong khi đó ở VN số thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chỉ chiếm
khoảng 4% tổng thu ngân sách. Mặc dù tỉ lệ thuế thu nhập cá nhân trên ngân sách
nhà nước qua các năm có tăng, nhưng nhìn chung, tốc độ tăng còn chậm và vẫn chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước ( từ năm 2005 đến 2010, tỉ
lệ thuế TNCN trên tổng thu ngân sách chỉ tăng 2.5% ). Ta có thể thấy được điều đó
khi nhìn vào bảng số liệu sau:
Bảng 1: Thu thuế TNCN ở VN từ 2005-2010

10
Đơn vị:Tỷ VNĐ
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng thu ngân sách 228287 279472 315915 416783 442340 528100
Thuế TNCN 4234 5179 7422 12940 14392 23361
% thuế TNCN tên
tổng thu ngân sách
1.85 1.85 2.35 3.1 3.25 4.42
• Kết quả về xã hội:
Sắc thuế đã góp phần phân phối lại thu nhập từ những người có thu nhập quá
cao trong xã hội, chuyển vào ngân sách nhà nước rồi thông qua đó sử dụng vào các
chương trình kinh tế nhằm mục tiêu phát triển chung, đồng thời cũng nhằm thực hiện
các chương trình hỗ trợ người nghèo. Tiền thuế của dân nộp vào ngân sách nhà nước,
sẽ được Nhà nước dùng vào những việc như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh
xã hội, giáo dục, y tế, an ninh trật tự, quốc phòng và đó là những lợi ích mà người
dân được hưởng nói chung. Đây là một mức đóng góp không nhỏ, rõ ràng nhờ sắc
thuế này mà sự phân phối của cải trong xã hội sẽ được thực hiện một cách hiệu quả
và chính xác hơn, đem lại tổng lợi ích lớn nhất cho xã hội. Nếu như không có sắc
thuế này thì chắc chắn 1 khoản tiển lớn sẽ không được dùng hoàn toàn cho mục tiêu
phát triển chung của xã hội, mà thay vào đó có thể là các hoạt động tiêu dùng cho
một nhóm cá nhân trong xã hội Bên cạnh đó ta có thể thấy rằng việc ra đời sắc thuế
này cũng giúp cho người dân phần nào hiểu hơn và làm quen dần với thuế TNCN.
Điều đó có thể minh chứng cho số đơn vị chi trả thu nhập tăng lên không ngừng,
đồng thời số đối tượng nộp thuế cũng tăng lên đáng kể. Bằng chứng là hiện nay, trên
7 triệu người thuộc diện phải nộp thuế TNCN. Với việc sắc thuế này càng ngày càng
mang tính xã hội hơn, ta có thể khắng định một điều dù ít hay nhiều thì sắc thuế này
cũng góp phần vào việc phân phối lại của cải và công bằng trong xã hội, giúp giảm
bớt phần nào sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Kết quả đạt được trong 20 năm thực hiện thuế TNCN đối với người có thu nhập
cao thực sự đã đạt được những kết quả khả quan.

• Những bất cập, thiếu sót trong Luật thuế TNCN của Việt Nam:
Tuy có được rất nhiều những bước tiến bộ trong thời gian qua nhưng thuế
TNCN ở VN ta vẫn còn bộc lộ những thiếu sót đáng băn khoăn và lo ngại.
1. Về biểu thuế và cách tính thuế:
Với nội dung quy định trong Pháp lệnh và Thông tư như trên ta có thể thấy một
số điểm như sau:
- Thứ nhất, việc động viên thuế thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua 3 sắc
thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với cá nhân kinh doanh, thuế thu nhập
11
đối với người co thu nhập cao từ tiền lương, tiền công; thuế chuyển quỳên sử dụng
đất đối với người có thu nhập từ chuyển quỳên sử dụng đất. Việc áp dụng này đem
đến bất cập là chưa bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế. Vì cùng là thu nhập của cá nhân
nhưng thu nhập từ kinh doanh không được trừ khởi điểm mà nộp theo mức 28%
trong khi thu nhập từ tiền lương trên mức khởi điểm 5 triệu đồng mỗi tháng mới phải
nộp tuế và chịu thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%.
- Thứ hai, việc phân chia thu nhập chịu thuế thành 2 loại thu nhập thường xuyên
và thu nhập không thường xuyên không chỉ dẫn đến sự mất công bằng mà còn tạo
điều kiện cho các đối tượng dựa vào đó mà trốn thuế hay biến tấu hình thức thu nhập.
Xét trên quan điểm đánh thuế thu nhập thì chúng ta nên xem xét mọi đồng tiền chịu
thuế đều là như nhau, những ưu đãi đối với từng hoạt động tạo thu nhập nên được
thực hiện tách rời với hoạt động tính thuế thu nhập.
- Thứ ba, đối với thuế thu nhập thường xuyên chỉ có một biểu suất thuế chung
cho tất cả các đối tượng. Không phân biệt hoàn cảnh gia đình và bản thân cá nhân đó.
Khi xây dựng biểu thuế người ta phải quan tâm đến tính công bằng của biểu thuế, nó
ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN thì còn phải quan tâm đến sau khi thu thuế
thì người đó và gia đình sống ra sao.
- Thứ tư, việc phân chia ra làm biểu thuế áp dụng đối với người nước ngoài và
với người Việt Nam còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều bài báo đã viết về vấn đề này,
đa số là muốn duy trì một biểu thuế. Tuy nhiên, do thu nhập ở nước ta còn thấp hơn
so với thu nhập ở nước ngoài nên không thể lấy thu nhập của người Việt Nam hay

thu nhập của người nước ngoài làm chuẩn mực để xây dựng một biểu thuế. Do đó
việc xây dựng một biểu thuế thống nhất tại thời điểm hiện tại là chưa có tính khả thi.
- Thứ năm, là về mức thuế suất của nước ta hiện nay. Khoảng cách giữa các bậc
thuế suất đều bằng 10% do đó mức điều tiết đối với những người có thu nhập càng
cao thì càng lớn. Việc này chỉ làm cho người nộp thuế tìm đủ cách để trốn thuế. Đồng
thời nếu chúng ta để mức thu nhập khởi điểm tính thuế và mức thu nhập chịu thuế
cao nhất cao như hiện nay thì thuế suất thực sẽ khác xa rất nhiều so với thuế suất cao
nên phạm vi đánh thuế sẽ bị thu hẹp lại. Như vậy chính sách thuế thu nhập ở nước ta
vẫn chưa mang tính chất chung của xã hội mà mới chỉ là gói gọn trong một nhóm
người đặc biệt không đảm bảo được tính công bằng xã hội.
- Thứ sáu, việc đánh thuế thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập trên
15triệu đồng sau khi đã nộp thuế là quá gò ép đối với những người có thu nhập cao.
Nó gây cho họ tâm lý là Nhà nước không muốn cho họ giàu và tìm cách giới hạn một
mức thu nhập mà họ có thể nhận được. Đây cũng là một vấn đề mà các nhà làm luật
cần xem xét tỉ mỉ luật thuế thu nhập cá nhân trong thời gian tới.
12
- Thứ bảy, với một mức đánh thuế khởi điểm cố định không hề được thay đổi
qua nhiều năm dù cho nền kinh tế có nhiều biến động, lạm phát tăng cao làm cho giá
cả leo thang. Ngoài ra, trong tình trạng giá cả leo thang và lạm phát như hiện nay,
thì dường như mức áp dụng thuể thu nhập cá nhân vẫn còn nhiểu chỗ chưa hợp lý.
Mức thu nhập khởi điểm chịu thuế cố định khiến cho nó không còn phù hợp với tình
hình biến động nhanh chóng của thị trường, cũng như mức giảm trừ cho người phụ
thuộc cứng nhắc và thiếu thực tế trở nên quá ít so với mức tiêu dùng thực sự. Chính
vì thế, mặc dù thuế thu nhập cá nhân không tăng nhưng lại khiến cho đời sống người
dân ngày càng khó khăn trong tình hình “ mọi thứ đều tăng giá” như hiện nay. Cộng
thêm việc chưa nắm được tầm quan trọng của sắc thuế và thiểu ý thức quốc gia cộng
đồng khiến cho nhiều người vẫn còn suy nghĩ muốn trốn thuế.
- Cuối cùng là vấn đề về diện bao quát của cơ sơ thuế. Các khoản thu nhập từ
kinh doanh cá thể hay của doanh nghiệp tư nhân, các khoản thu nhập từ lãi cho vay,
lãi đầu tư và một loạt các khoản thu nhập khác hiện nay chưa được đưa vào thu nhập

chịu thuế. Ngoài ra các khoản thu nhập từ lãi vay, đầu tư chứng khoán, trái phiếu…
chưa được đưa vào thu nhập chịu thuế. Đây là một vấn đề còn chưa được hợp lý
trong luật.
2. Về bộ máy tổ chức quản lý thu thuế:
Mặc dù số thuế thu nhập cá nhân đã được tăng đáng kể trong thời gian qua
nhưng nó chưa thực sự phản ánh được khả năng đóng góp của toàn bộ xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến điều này là:
Nếu xét về vai trò của thuế thu nhập cá nhân. Ngoài chức năng là huy động
nguồn thu cho NSNN thì nó chưa thể hiện rõ nét các chức năng khác. Mặc dù tăng
trưởng kinh tế trong mấy năm qua luôn ở mức cao, nhưng do xuất phát điểm của nền
kinh tế nước ta còn thấp, GDP/người của nước ta còn thấp hơn nhiều so với các nước
trong khu vực và trên thế giới vì vậy mức độ đóng góp vào NSNN vẫn còn rất thấp.
Chúng ta mới chỉ tăng về giá trị tuyệt đối, còn khi đem so sánh tương đối thì sự gia
tăng vẫn là không đáng kể. Vai trò làm công cụ trong chính sách tài khoá của chính
phủ, làm tăng tỷ lệ tiết kiệm quốc gia và tạo công bằng xã hội của thuế thu nhập cá
nhân chưa đạt được hiệu quả cao.
Nếu xét về việc thực hiện thuế thu nhập cá nhân. Do người có thu nhập cao chưa
thực hiện nghiêm chỉnh, nên mặt quản lý thu nhập của các đối tượng nộp thuế thu
nhập cá nhân vấp phải nhiều khó khăn. Rất nhiều khoản thu nhập của dân cư mà Nhà
nước chưa xác định được và cũng chưa đề ra được biện pháp quản lý thích hợp.
Xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên mà công tác
quản lý thu thuế hiện nay đang nảy sinh nhiều bất cập như sau:
13
→ Thu nhập của rất nhiều ngành nghề như giảng dạy, ca hát, luật sư, môi giới
chưa được cơ quan thuế quản lý. Hiện nay Nhà nước và các cơ quan thuế chưa thực
hiện giám sát các hoạt động một cách chặt chẽ do đó các đối tượng đều hầu hết
không kê khai các khoản thu nhập này khi tính thuế. Cơ quan thuế thường uỷ nhiệm
cho các Sở Thương mại, Văn hoá thông tin, Lao động…và ban ngành có trách nhiệm
quản lý các đối tượng này làm nhiệm vụ khấu trừ thuế. Nhưng do không chuyên sâu
trong lĩnh vực quản lý thuế đồng thời các hình thức chi trả cho hoạt động uỷ nhiệm

này cũng không có sức hấp dẫn để các cơ quan làm nhiệm vụ uỷ nhiệm thu nhiệt tình
trong công tác quản lý thu nhập của người lao động do ngành mình quản lý. Về phía
các cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cũng chưa nhận thức đầy đủ nghĩa vụ kê khai và
nộp thuế thu nhập. Các khoản thu nhập đóng góp phần chủ yếu vào thu nhập không
phải là từ tiền lương mà lại là từ tiền thưởng và bổng lộc khác không mang tính đều
đặn càng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc giám sát kiểm tra. Từ đó có thể
thấy rằng con số thuế thu nhập cá nhân theo tính toán vẫn chưa phản ánh đúng khả
năng đóng góp của thuế thu nhập cá nhân đối với NSNN.
→ Các đối tượng là người nước ngoài và người lao động Việt Nam làm trong
các doanh nghiệp nước ngoài hay các văn phòng đại diện cũng chưa được quản lý
một cách đầy đủ. Nguyên nhân của vấn đề này là hiện nay các văn bản pháp luật để
quản lý về cư trú và những khai báo về thu nhập cũng như người lao động ở các văn
phòng đại diện, các chi nhánh nước ngoài còn hết sức sơ sài và thiếu chặt chẽ. Vì
vậy, cơ quan thuế rất khó khăn trong việc quản lý số đối tượng này, và tất yếu là một
số lượng đáng kể các cá nhân đã trốn không phải nộp thuế. Đối với các cá nhân làm
việc trong cơ quan sản xuất kinh doanh có đăng ký kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân
cho lao động của cơ sở mình thì cơ quan thuế cũng chưa kiểm tra được mà chủ yếu
vẫn dựa vào tờ khai báo của các đơn vị uỷ nhiệm thu. Đối với các đơn vị chi trả thu
nhập mà không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay VAT thì việc uỷ nhiệm thu
gần như không được thực hiện, các đối tuợng thì không tự giác trực tiếp đến cơ quan
thuế để kê khai nộp thuế.
→ Quá nhiều giấy tờ, thủ tục: Bộ máy thu thuế TNCN được tổ chức còn thiểu
chặt chẽ mà lại quá rườm ra, thủ tục giấy tờ quá nhiều, lại có quá nhiều công đoạn
khiến cho bộ máy thu thuế trở nên nặng nề mà lại hoạt động kém hiệu quả, gây thất
thoát và hao phí NSNN. Chỉ riêng giảm trừ gia cảnh, những quy định cũng đã làm "ù
tai, hoa mắt" bởi có quá nhiều loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ mà người nộp thuế cần phải
thực hiện và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Ví dụ trường hợp người nộp
thuế có con theo học và là người phụ thuộc thì đã cần: Giấy khai sinh, giấy xác nhận
của trường hoặc bản chứng thực thẻ sinh viên, biên lai thu học phí hoặc chứng từ nộp
khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt phí có niên độ phù hợp với năm tính thuế. Ví

14
dụ, người nộp thuế có con tàn tật thì ngoài giấy khai sinh, người nộp thuế còn phải
"đưa con lên trung tâm giám định y khoa tận tỉnh, thành phố" để khám, xác nhận về
mức độ tàn tật không có khả năng lao động. Nếu theo hướng dẫn, một người nộp thuế
có 2 con đang học, cháu tàn tật không nơi nương tựa, bố mẹ già, vợ thu nhập thấp thì
cần 30 loại giấy tờ
Song có lẽ sẽ là "rủi ro" nếu như người nộp thuế được hoàn thuế. Đến đây, lại
một núi công việc, giấy tờ gồm: Đơn xin hoàn thuế, bản photocopy giấy chứng minh
nhân dân, tờ khai quyết toán thuế, các chứng từ khấu trừ thuế, biên lai thu thuế,
chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm việc, quyết định thôi việc, bản
thanh lý hợp đồng lao động Luật gia Hữu Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế
phải tham gia tất cả quy trình trên thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế".
→ Chưa có một bộ phận thuế chuyên trách trong lĩnh vực thu thuế thu nhập cá
nhân. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thì họ kê khai đồng thời với các loại
thuế khác. Việc thu thuế thông qua cơ quan uỷ nhiệm thu thì chưa được thực hiện
nghiêm túc do bản thân cơ quan uỷ nhiệm thu chưa nhận thức được hết trách nhiệm
của mình, đồng thời cơ quan thuế cũng chưa có những biện pháp khuyến khích hữu
hiệu để cơ quan uỷ nhiệm thu nhiệt tình trong công tác này.
→ Quá trình thanh toán ở Việt Nam vẫn chủ yếu là thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt. Chính vì đặc điểm này mà việc kiểm soát thu nhập càng trở nên khó khăn
đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho việc trốn thuế dễ dàng hơn.
→ Ý thức của người dân về nghĩa vụ nộp thuế kém. Điều này xuất phát từ hai
phía, phía cơ quan Nhà nước và phía cá nhân nộp thuế. Cơ quan Nhà nước chưa có
những biện pháp tuyên truyền giáo dục đối với người dân về ý thức trách nhiệm nộp
thuế. Cả những cơ quan chi trả nhièu khi cũng cố tình làm lờ đi và không thực hiện
nghĩa vụ khấu trừ thuế tại nguồn. Còn về phía người có nghĩa vụ nộp thuế, do luật
pháp chưa có những chế tài nghiêm khắc, đồng thời do trình độ dân trí còn thấp nên
họ không hề có ý thức trong việc kê khai và nộp thuế.
Do tất cả những yếu tố này nên số thu từ thuế thu nhập cá nhân được báo cáo
hàng năm vẫn chưa phản ánh đúng thực chất về khả năng nộp thuế thu nhập của nước

ta. Con số đó có thể lớn hơn nhiều nếu như công tác kê khai và thu nộp thuế được
thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ.
• Một số biện pháp khắc phục:
1. Khắc phục về phân chia các loại thu nhập phải chịu thuế:
Tất cả thu nhập từ các hoạt động đầu tư vốn, gửi lãi tiết kiệm, các hoạt động
kinh doanh cá thể và một số hoạt động khác đều phải được bổ sung vào phạm vi điều
tiết của thuế thu nhập cá nhân. Việc bổ sung này góp phần đảm bảo tính công bằng
15
cũng như tăng thu cho NSNN. Chúng ta nên chia thu nhập theo tính chất nguồn hình
thành thu nhập.
- Tiền lương, tiền công lao động, tiền thưởng, tiền trợ cấp.
- Thu nhập từ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
- Thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
- Thu nhập từ các hoạt động cho thuê nhà đất.
- Thu nhập từ các hoạt động phi thương mại, hành nghề tự do.
- Thu nhập từ chuyển dịch bất động sản, cổ phần, cổ phiếu.
- Thu nhập khác từ lãi tiết kiệm, lãi cổ phần, cổ phiếu, trúng số…
Bên cạnh đó, chúng ta nên tính gộp thành toàn bộ tổng thu nhập thay vì phân
biệt và tách riêng ra thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
Điều này sẽ làm đơn giản việc tính thuế hơn, người nộp thuế sẽ chỉ phải kê khai các
khoản thu nhập mình nhận được trong năm rồi tính thuế theo một biểu thuế chung
duy nhất, đối với cơ quan thuế cũng sẽ bớt một công đoạn phân loại và kiểm tra việc
kê khai thuế thu nhập là thu nhập thường xuyên hay không thường xuyên.
2. Khắc phục về biểu thuế và cách tính thuế:
Trước tiên, chúng ta nên xem xét việc xây dựng biểu thuế thu nhập cá nhân với
một mức thuế suất, mức thu nhập chịu thuế thu nhập khởi điểm là không. Điều đó có
nghĩa là bất cứ ai có thu nhập đều phải có nghĩa vụ nộp thuế theo một tỷ lệ cố định
trên tổng thu nhập. Nó dựa vào quan điểm xây dựng một biểu thuế công bằng theo
chiều ngang chứ không phải công bằng theo chiều dọc như biểu thuế luỹ tiến. Nó
không chỉ tạo tính đơn giản trong chính sách thuế thu nhập cá nhân, không phải theo

biểu thuế luỹ tiến phức tạp mà còn giúp chúng ta sử dụng hiệu quả phương pháp khấu
trừ thuế tại nguồn. Sự đơn giản trong xây dựng luật thuế cũng là xu hướng chung của
thế giới.
Thứ hai, nếu chúng ta vẫn áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến như hiện tại thì nên hạ
thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống đồng thời hạ thấp mức thuế suất khởi điểm
xuống. Cơ sở cho ý kiến này là việc hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống sẽ tăng
khả năng bao quát thu nhập của toàn bộ dân cư đồng thời với mức khởi điểm mới sẽ
có ảnh hưởng không đáng kể đén thu nhập sau thuế của người lao động. Tuy nhiên,
các khoản giảm trừ gia cảnh cần đi sát với thực tế và cần được thay đổi theo tình hình
lạm phát của xã hội, giúp cho cuộc sống của người dân không mấy ảnh hưởng sau khi
nộp thuế TNCN trong tình trạng hiện nay. Việc này sẽ giúp giảm bớt nhưng trái
ngang như thu nhập “ được tính là cao” nhưng lại không đủ để nuôi gia đình.
Thứ ba, chúng ta nên xác định khoảng cách thuế suất biên giữa các bậc thuế cho
hợp lý, chúng ta nên mở rộng khoảng cách thuế ở các bậc đầu và thu hẹp ở các bậc
cao. Giải thích cho quan điểm này là những người có mức thu nhâp thật cao thi một
16
sự gia tăng nhỏ của thuế suất biên cungx tạo ra một sự gia tăng lớn về tiền thuế phải
nộp. Nếu luỹ tiến quá cao ngưòi lao dộng sẽ so sánh giữa số thuế họ phải đóng ở bạc
trước với số thuế họ phải đóng ở bậc sau, khoảng cách này càng xa thì sẽ khiến họ
thấy lao động để tạo thu nhập them của họ đem lại hiệu quả không cao, vì vậy động
lực lao động sẽ giảm sút. Đó là điều mà các nhà xây dựng thuế TNCN không muốn.
Cụ thể các bậc thuế suất biên là bao nhiêu thì cần có sự nghiên cứu một cách khoa
học.
Thứ tư, việc phân biêt biểu thuế suất giữa người Việt Nam và người nước ngoài
tại thời điểm hiện tại chúng ta vẫn nên duy trì. Tuy nhiên, chúng ta sẽ cố gắng thu
hẹp dần khoảng cách giữa mức khởi điểm chịu thuế và thống nhất một biẻu thuế suất
chung, nhưng điều đó còn phụ thuộc vào mức độ phát triẻn của nước ta, phụ thuộc
vào thu nhạp trung bình của ngưòi lao động.
3. Khắc phục về bộ máy tổ chức quản lý thu thuế và thực hiện luật thuế TNCN:


Công tác kê khai, thu nộp thuế: Là một phần vô cùng quan trọng quyết định đến
hiệu quả thực hiện của pháp lệnh thuế thu nhập hiện nay nhưng lại tồn tại rất nhiều
các bất cập do chưa có biện pháp tổ chức kê khai thực sự khoa học và có hiệu quả.
Ngoài phương pháp khấu trừ tại nguồn là cần thiét và quan trọng thì khi tính thuế
chúng ta nên đưa về cho các đội thuế ở địa phương cùng đảm nhiệm. Việc kiểm tra
tại địa phương sẽ dễ dàng được thực hiện thông qua viẹc căn cứ vào mức sống và
mức chi tiêu của các hộ gia đình. Đồng thời, với cách quản lý này cơ quan thuế sẽ
xác định chính xác hơn về khả năng thu nhập của các cá nhân thông qua mức sống
của gia đình họ. Tính khả thi và hiệu quả của phương pháp này có thể kiểm tra thông
qua việc thực hiện thí điểm ở một số khu vực dân cư. Nếu như tỏ ra hiệu quả chúng
ta nên áp dụng sớm và rộng rãi.
Quản lý chặt chẽ thu nhập cá nhân của người dân, làm tốt khâu chỉ đạo công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động và tiền
lương, tiền công thực tế.
Chúng ta cần phải hoàn thiện lại hệ thống thu thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao. Chúng ta cần phải xây dựng phòng chuyên trách trong nhiệm vụ quản lý kê
khai các doanh nghiệp và các cá nhân thuộc diện nộp thuế thu nhập. Với đội ngũ cán bộ
được đào tạo chuyên sâu và chỉ có nhiệm vụ quản lý trong lĩnh vực này sẽ giúp cho việc
quản lý được chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả hơn.
Chúng ta phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Mỗi cá nhân
phải được phân công những công việc cụ thể, chi tiết và sau đó mọi vấn đề liên quan
họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế. Muốn làm được điều này chúng ta
cần phải cải cách hành chính bộ máy thuế của nước ta nói riêng và toàn bộ bộ máy
hành chính của nước ta hiện nay nói chung.
17
Chúng ta cần phải thực hiện công tác đăng ký thuế và cấp mã số thuế cho các
đối tượng để thuận tiện cho công tác quản lý thu. Sự biến động thu nhập là một điều
tương đối phổ biến trong nền kinh tế thị trường, vì vậy nên áp dụng đăng ký cấp mã
số thuế căn cứ vào ngành nghề. Trong đó các cán bộ cơ quan nhà nước đều phải có
nghĩa vụ kê khai thu nhập hàng năm, các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm giúp

cơ quan thuế trong việc khấu trừ phần thuế thu nhập của cán bộ cơ quan mình.
Quản lý thuế thu nhập cá nhân muốn có hiệu quả thì cần phải thực hiện đồng
thời với sự giám sát của cấp cơ sở, các tổ chức quản lý xã hội ở địa phương. Quản lý
theo cách này đặc biệt hữu ích trong việc quản lý các cá nhân hành nghề tự do, không
có nơi làm ổn định. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ thuế với các cơ quan chức năng
khác, với các sở, ban ngành cũng không thể được xem nhẹ. Các cơ quan, sở, ban
ngành cần xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc phối kết hợp với cơ quan thuế
để thực hiện việc quản lý các đối tượng nộp thuế thu nhập.
Chúng ta cần thường xuyên phổ biến, tuyên truyền, vận động và giáo dục về
thuế thu nhập cá nhân để mọi đối tượng nộp thuế am hiểu về pháp luật và tự giác
thực hiện luật thuế.
Chúng ta cần ban hành những chế tài và quy định về việc xử phạt đối với các
trường hợp vi phạm luật thuế. Hiện nay nước ta chưa có Luật tố tụng thuế vụ khiến
cho nhiều tổ chức cá nhân coi thường và không thực hiện các quy định trong luật
thuế.
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như các biện pháp của Ngân hàng và
Kho bạc Nhà nước nhằm giảm chi tiêu tiền mặt cũng là nhân tố hết sức quan trọng
đối với hiệu quả của việc quản lý thu thuế thu nhập của cơ quan thuế. Giảm thanh
toán bằng tiền mặt, sử dụng rộng rãi thanh toán qua tài khoản không chỉ phục vụ cho
hoạt động quản lý thu nhập của dân cư trong việc kê khai và nộp thuế thu nhập và
còn tiết kiệm rất nhiều chi phí cho xã hội.
Việc vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ như tin học, công nghệ mạng
vào công tác quản lý thu thuế sẽ tạo sự chính xác, nhanh gọn, đơn giản trong việc thu
nộp thuế từ đó tạo điều kiện tốt để luật thuế TNCN được thực hiện có hiệu quả.
Chính phủ cần có những chính sách để phát triển mạnh mẽ kinh tế và đời sống
của người dân, để thuế thu nhập cá nhân sớm trở thành một nguồn thu quan trọng của
Nhà nước.
IV. Vấn đề quản lý thuế TNCN ở Việt Nam năm 2011:
1. Thành tựu đạt được:
Nhìn chung, qua 2 năm triển khai thực hiện Luật Thuế TNCN, Cục thuế Hà Nội

đã chú trọng công tác tuyên truyền, hướng dẫn đối tượng nộp thuế với nhiều hình
thức phong phú đa dạng, nội dung cụ thể, thiết thực, dễ hiểu giúp người dân hiểu về ý
18
nghĩa của việc thực hiện nghĩa vụ thuế, phương pháp kê khai, tính thuế, nộp thuế,
quyết toán thuế. Đồng thời, Cục Thuế đã chỉ đạo các Chi cục phân công cán bộ có
năng lực nghiệp vụ giỏi tiến hành làm thủ tục hành chính thuế và hướng dẫn kê khai
nộp thuế, thành lập các đường dây nóng, các kênh thông tin cần thiết, thích hợp,
nhanh chóng và hiệu quả nhất để có thể tư vấn, hỗ trợ và giải đáp những vướng mắc
cho các đối tượng nộp thuế. Ngoài ra, Cục thuế Hà Nội còn là đơn vị dẫn đầu cả nước
về cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế với việc triển khai thành
công các dự án như “Kê khai thuế qua mạng Internet”, “Hiện đại hóa thu ngân sách
nhà nước và thu thuế qua ngân hàng” và “Hệ thống ki-ốt thông tin thuế”. Những cải
cách đó đã đem lại lợi ích cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, như: thủ tục nộp hồ
sơ khai thuế đơn giản, nhanh gọn, hiệu quả cao và an toàn, không giới hạn về không
gian, thời gian trong ngày, tiết kiệm thời gian, chi phí cho người nộp thuế; đơn giản
hoá và cải cách triệt để thủ tục hành chính trong quy trình thu nộp thuế, giảm thời
gian nộp thuế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế; giúp người nộp thuế
thuận tiện hơn trong việc tiếp cận các thông tin liên quan đến thuế; cơ quan thuế xử
lý tờ khai nhanh, chính xác, giảm thiểu lao động, thuận lợi cho việc lưu trữ hồ sơ và
tra cứu dữ liệu, đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu phục vụ số lượng người nộp thuế
ngày càng tăng nhanh trong khi nguồn nhân lực chưa được bổ sung tương ứng…
Nhờ đó, trên địa bàn Hà Nội, cơ chế tự khai tự nộp thuế theo yêu cầu của Luật
Quản lý thuế được quán triệt và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc ở hầu hết các
cơ quan chi trả thu nhập và các cá nhân nộp thuế. Việc tổ chức kê khai và khấu trừ
thuế TNCN tại nguồn trước khi chi trả thu nhập cho người lao động đã đảm bảo được
mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời thuế TNCN cho nhà nước. Mặc dù có chính
sách miễn thuế TNCN 6 tháng đầu năm 2009 và trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái
do khủng hoảng, nhưng số thuế TNCN năm 2009 vẫn cao hơn so với những năm
trước đó. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế đã làm cho cả người có
thu nhập và cơ quan chi trả thu nhập đều phải tự tìm hiểu, nắm rõ nội dung của Luật

và các văn bản liên quan để thực thi, qua đó nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức
chấp hành luật pháp thêm một bước.
2. Những bất cập và vấn đề đặt ra trong quản lý thuế TNCN:
a. Về công tác cấp mã số thuế cá nhân:
Để triển khai Luật Thuế TNCN, bước đầu tiên là việc cấp mã số thuế cá nhân.
Mã số này sẽ gắn với mỗi cá nhân suốt đời và là cơ sở để quản lý đối tượng nộp thuế
TNCN. Do số lượng đối tượng nộp thuế TNCN quá lớn, nên để đảm bảo tiến độ cấp
mã số thuế cá nhân phục vụ kịp thời công tác thu thuế, thời gian đầu Cục thuế chỉ yêu
cầu các đơn vị chi trả thu nhập thực hiện đăng ký cấp mã số thuế cho những cá nhân
có mức thu nhập đạt ngưỡng phải nộp thuế. Sau giai đoạn một, yêu cầu các đơn vị chi
trả thu nhập kê khai bổ sung đối với những trường hợp chưa kê khai, đồng thời triển
khai cấp mã số thuế cho các đối tượng thuộc diện chịu thuế, song chưa có mã số thuế.
Theo Cục thuế Hà Nội, tính đến 30/06/2010, số mã số thuế cá nhân cấp cho đối tượng
có thu nhập từ tiền lương, tiền công tăng gấp hơn 200 lần so với năm 2008 và đạt tỷ
lệ 31,64% dân số từ 15 tuổi trở lên. Đây là nỗ lực rất lớn của Cục Thuế Hà Nội và là
tiền đề rất quan trọng cho công tác quản lý kê khai nộp thuế TNCN và quyết toán
thuế đạt hiệu quả, đáp ứng mục tiêu của cơ chế tự khai tự nộp thuế.
Bảng 2: Tình hình cấp mã số thuế cá nhân trên địa bàn Hà Nội
Đơn vị tính: Mã số
Năm Cá nhân có TN Cá nhân có TN
19
từ tiền lương tiền công từ kinh doanh
Số cấp
mới
Số lũy kế đến cuối năm Số cấp mới Số lũy kế đến
cuối năm
2008 5.543 43.959 22.605 113.741
2009 1.087.918 1.131.877 6.602 120.343
6T/2010 295.664 1.427.541 24.102 144.445
(Nguồn: Cục thuế Hà Nội)

Tuy nhiên, để quản lý chặt chẽ người nộp thuế, yêu cầu đặt ra là phải cấp mã số
thuế cá nhân cho mọi công dân. Việc người nộp thuế chưa có mã số thuế sẽ gây thiệt
hại cho chính người nộp thuế vì phải nộp thuế TNCN với tỷ lệ trích cao hơn. Đặc
biệt, việc các cá nhân phụ thuộc không có mã số thuế dẫn đến khe hở và khó kiểm
soát chính xác vấn đề giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc, từ đó, gây thất thu thuế
TNCN. Việc kê khai giảm trừ gia cảnh chủ yếu là dựa vào ý thức của đối tượng nộp
thuế. Điều này đã tạo ra khe hở trong việc kê khai số người phụ thuộc. Ví dụ, cùng 1
ông bố hay bà mẹ, nhưng sẽ được tính trùng thành 2 bởi cả 2 người con ở 2 địa
phương khác nhau đều cùng kê khai và chính quyền địa phương sở tại đều xác nhận.
Thực tế cho thấy, hiện nay nhiều địa phương khi nhận được một số đơn đề nghị xác
nhận đối tượng cư trú có trách nhiệm nuôi dưỡng người phụ thuộc ở địa phương khác
(ông, bà, cháu… ở quê), họ không thể nào xác định được mối quan hệ của người phụ
thuộc đang sống ở tỉnh khác và người dân đang cư trú trên địa bàn, càng không thể
nào biết được có đúng là người dân đang cư trú trên địa bàn có trách nhiệm nuôi
dưỡng người đang sống ở tỉnh khác hay không, dẫn tới tình trạng nơi thì chứng nhận
hết một cách quá dễ dàng, nơi thì từ chối chứng nhận gây khó khăn cho người dân.
Và cũng theo phản ánh của người dân thì một trong những khó khăn mà họ gặp phải
là xin hồ sơ để xác định đối tượng phụ thuộc không có thu nhập.
b. Về công tác kê khai nộp thuế, quyết toán thuế TNCN:
Thông qua việc cấp mã số thuế cá nhân, cơ sở dữ liệu người nộp thuế được xây
dựng là tiền đề quan trọng của việc quản lý kê khai nộp thuế và quyết toán thuế
TNCN. Đối với thu nhập từ tiền công tiền lương, thực hiện kê khai và nộp thuế thông
qua cơ quan chi trả thu nhập, theo đó, mức thuế TNCN được khấu trừ tại nguồn theo
biểu thuế suất lũy tiến từng phần đối với các khoản chi trả cho cá nhân thuộc sự quản
lý của cơ quan chi trả thu nhập cho những cá nhân ký hợp đồng lao động từ 03 tháng
trở lên và khấu trừ 10% thu nhập đối với các khoản chi trả cho cá nhân không có hợp
đồng lao động hoặc hợp đồng lao động dưới 03 tháng nếu số tiền mỗi lần chi trả từ
500.000 đồng trở lên. Cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm thu và chuyển số thuế
thu được vào Kho bạc Nhà nước. Hiện nay Cục thuế Hà Nội đã ứng dụng phần mềm
hỗ trợ kê khai theo mã vạch 2 chiều, kê khai qua mạng Internet, chương trình này đã

được triển khai đến tất cả các Chi cục Thuế cho phép tiết kiệm thời gian, chi phí và
nhân lực cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế.
Biểu đồ 1: Kết quả thu Thuế thu nhập cao và thuế TNCN của Cục thuế Hà Nội
20
(Nguồn: Cục thuế Hà Nội – Đơn vị tính Tỷ đồng)
Năm 2009, năm đầu tiên thực hiện Luật thuế TNCN, lại rơi vào bối cảnh nền
kinh tế suy thoái, thu nhập giảm sút, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, vì thế
mà trong quá trình triển khai Luật thuế TNCN, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, UBND các tỉnh, thành… về việc miễn thuế TNCN; theo đó, tất cả mọi cá
nhân đều được miễn thuế TNCN tính trên phần thu nhập của 6 tháng đầu năm 2009,
không phân biệt thời điểm chi trả thu nhập. Tuy vậy, số thuế TNCN từ tiền lương tiền
công thu được của 6 tháng cuối năm 2009 vẫn đạt mức 2.704 tỷ đồng, cao gấp 2,06
lần cùng kỳ năm 2008. Điều này cho thấy, việc mở rộng diện đánh thuế và thực hiện
tốt công tác quản lý kê khai nộp thuế đã tác động tích cực đến số thuế TNCN thu
được trong kỳ.
Để tổ chức triển khai thực hiện việc quyết toán thuế TNCN năm 2009 theo
thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009, Tổng cục Thuế đã có công văn số
451/TCT-TNCN ngày 08/02/2010 hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, trong qúa trình triển
khai thực hiện, đã phát sinh nhiều vướng mắc, tiến độ thực hiện quyết toán thuế
TNCN chậm. Vì vậy, ngày 21/5/2010, Tổng cục Thuế đã ban hành công văn 1700
/TCT-TNCN hướng dẫn bổ sung quyết toán thuế TNCN năm 2009, đồng thời gia hạn
thời gian quyết toán thuế đến 31/07/2010. Theo quy định, việc quyết toán thuế TNCN
tại cơ quan chi trả thu nhập được áp dụng đối với cá nhân trong năm chỉ có thu nhập
duy nhất tại một nơi. Trong trường hợp này, cá nhân phải lập giấy ủy quyền quyết
toán thuế TNCN theo mẫu quy định, trên cơ sở đó, cơ quan chi trả thu nhập tổng hợp
quyết toán thuế và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý đơn vị trả thu nhập. Đối
với cá nhân trong năm có thu nhập từ 2 nơi trở lên, cá nhân đăng ký nộp thuế tại cơ
quan thuế và các trường hợp khác thì phải thực hiện quyết toán thuế tại cơ quan thuế,
nơi cá nhân đăng ký giảm trừ gia cảnh hoặc tại cơ quan thuế cá nhân đăng ký quản lý.

Đến nay, số lượng các cơ quan chi trả thu nhập đã thực hiện quyết toán thuế TNCN
năm 2009 là 222.824 đơn vị; số lượng cá nhân tự quyết toán thuế TNCN năm 2009
tại cơ quan thuế là 48.195 người. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số đông người nộp
thuế, kể cả những người có từ 2 nguồn thu nhập trở lên, đều ngại tự mình quyết toán
thuế hoặc không rõ thủ tục tiến hành, nên ủy quyền cho đơn vị chi trả thu nhập thực
hiện hộ. Từ đó, có thể làm thất thu NSNN hoặc gây thiệt hại cho quyền lợi chính
đáng của chính người nộp thuế.
c. Về công tác thanh tra, kiểm tra thuế:
Từ sau khi Luật quản lý thuế có hiệu lực thi hành, công tác thanh tra kiểm tra
thuế của Cục thuế Hà Nội có nhiều đổi mới. Thanh tra kiểm tra dựa trên cơ sở thu
thập, phân tích thông tin dữ liệu liên quan đến người nộp thuế để đánh giá mức độ
tuân thủ, phân loại rủi ro và lập danh sách người nộp thuế phải kiểm tra hồ sơ khai
thuế. Mặc dù Cục thuế Hà Nội đã tăng cường công tác thanh tra kiểm tra chống thất
thu thuế, kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở của cơ quan thuế và nhiều trường hợp
kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế. Tuy nhiên, do năm 2009 là năm đầu tiên thực
hiện Luật thuế TNCN, có nhiều nội dung mới trong phương pháp quản lý thuế, do
tính phức tạp của thuế TNCN, số lượng người nộp thuế quá lớn, nên việc tổ chức
thực hiện thanh tra kiểm tra về thuế TNCN chưa được thực hiện đầy đủ, thường
xuyên…
Ngoài ra, thực tế tiến hành thu thuế TNCN trên địa bàn Hà Nội và cả nước thời
gian qua còn cho thấy những bất cập khác, như:
21
- Chưa kiểm soát được mọi nguồn thu nhập của từng cá nhân. Nguồn hình thành
TNCN quá đa dạng và phức tạp. Đối với những khoản thu nhập từ tiền lương, tiền
công thì cơ quan thuế có thể kiểm soát qua đơn vị trực tiếp chi trả thu nhập; nhưng
đối với các khoản thu nhập của các hộ kinh doanh cá thể, các cá nhân hành nghề độc
lập, đặc biệt là đối với đối tượng ca sỹ, nghệ sỹ,… thì cơ quan thuế khó có thể kiểm
soát được một cách chính xác.
- Mức giảm trừ cá nhân và giảm trừ cho người phụ thuộc theo Luật hiện hành là
chưa hợp lý, chưa tính đến sự mất giá của đồng tiền. Theo thời giá hiện nay, việc quy

định mức giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng/người/tháng đối với cá nhân người nộp
thuế và 1,6 triệu đồng/người/tháng đối với người phụ thuộc là chưa đảm bảo cho đời
sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở đô thị. Một điểm chưa hợp lý nữa là mức
giảm trừ gia cảnh hiện nay không tính đến khu vực, có nghĩa là ở nông thôn, thành
thị, đồng bằng hay miền núi đều áp dụng như nhau, nhưng thực tế cho thấy mức chi
tiêu cho sinh hoạt hàng ngày của một cá nhân ở thành thị là lớn hơn rất nhiều so với ở
nông thôn và miền núi.
Tình trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả từ những bất cập trong quy
định của luật thuế, cũng như từ những yếu tố khác, như:
- Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế ưa chuộng tiền mặt, phần lớn các
khoản thu nhập cá nhân đều được chi trả bằng tiền mặt, do đó, khó có thể tạo ra cơ
chế kiểm soát thu nhập cá nhân một cách chính xác và hiệu quả.
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành thuế với các cấp chính quyền địa
phương, với các tổ chức, cơ quan liên quan trong việc hợp tác triển khai Luật thuế
TNCN, dẫn đến những khó khăn trong việc xác định và quản lý gia cảnh người nộp
thuế, quản lý hoạt động của các cá nhân kinh doanh tự do, hành nghề độc lập,…
- Hiện tượng tiêu cực và bất công trong việc nộp thuế TNCN vẫn chưa được xử
lý triệt để, làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả thực tế và công bằng của Luật thuế, gây
một số bức xúc trong quần chúng nhân dân.
- Trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành Luật của một bộ phận lớn dân cư còn
hạn chế, tâm lý trốn thuế còn lan truyền, trong khi lực lượng cán bộ thuế còn mỏng,
không thể thực hiện thanh tra kiểm tra thuế TNCN trên diện rộng để phát hiện các
hành vi vi phạm và xử lý.
Bất cập thuế thu nhập cá nhân năm 2007: Ba điểm cần điều chỉnh (10/03/2011)
Cùng với tốc độ lạm phát cao trong 4 năm qua (tổng cộng tới trên dưới 50%),
cũng như với việc VN chính thức là nước có thu nhập trung bình trên thế giới, mức
ngưỡng khởi điểm tính thuế TNCN 4 triệu đồng đã nhanh chóng lạc hậu.
Trong cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương
Chí Trung cho biết, Bộ Tài chính đã làm việc với Bộ Tư pháp để trình Chính phủ về
vấn đề xem xét việc sửa đổi Luật thuế TNCN trong chương trình sửa đổi luật năm

2011 và 2012.
Cần sớm thể chế hóa mức khởi điểm tính thuế tạo linh hoạt trong áp dụng của
đơn vị, đối tượng chịu thuế và cơ quan thuế
Dưới góc độ của người nghiên cứu, theo tôi Luật thuế TNCN có ba điểm cần
điều chỉnh.
Mức và cách tính khởi điểm nộp thuế
Cùng với tốc độ lạm phát cao trong 4 năm qua (tổng cộng tới trên dưới 50%),
cũng như với việc VN chính thức là nước có thu nhập trung bình trên thế giới, mức
22
ngưỡng khởi điểm tính thuế TNCN 4 triệu đồng đã nhanh chóng lạc hậu. Nếu trước
đây, chỉ với khoảng 10 tr.đ/tháng, 1 gia đình 4 nhân khẩu có thể sống khá dễ chịu ở
Hà Nội, thì nay, mức tối thiểu đã phải nâng lên gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi, nếu tính
cả tiền thuê nhà
Hơn nữa, việc Luật thuế TNCN “chốt” rõ mức khởi điểm tính thuế cụ thể bằng
đơn vị VND vừa thấp, lại vừa cứng gây khó cho mỗi lần điều chỉnh trước các biến
động tiền lương trên thực tế.
Vì vậy, cần sớm thể chế hóa mức khởi điểm tính thuế theo hướng vừa tăng
mức tính khởi điểm, vừa tạo linh hoạt trong áp dụng của đơn vị, đối tượng chịu thuế
và cơ quan thuế. Cụ thể, nên tăng ít nhất 2 lần mức khởi điểm chịu thuế và tính bằng
số lần lương tối thiểu, chẳng hạn, bằng từ 8-10 lần mưc lương tối thiểu của khu vực
sản xuất. Nên mạnh dạn áp dụng mức tính khởi điểm chịu thuế TNCN là 10 lần mức
lương tối thiểu trong khu vực sản xuất kinh doanh.
Mức và cách tính chiết trừ gia cảnh
Thực tế cho thấy, mức chiết trừ gia cảnh 1,6 triệu đ/người cũng sớm trở nên
lạc hậu. Hơn nữa, việc xác nhận hành chính (ở cấp chính quyền địa phương hoặc cơ
quan) về vị thế và thực tế đã tính hay chưa tính chiết trừ gia cảnh người phụ thuộc
gây nhiều phiền toái và khó chính xác cho cả người nộp thuế, lẫn cơ quan thu thuế
Vì vậy, trong chỉnh sửa Luật thuế TNCN cần nâng mức chiết trừ gia cảnh tương ứng
với mức nâng khởi điểm tính thuế TNCN, đồng thời cần bổ sung quy định cấp “mã
số chiết trừ gia cảnh” cho các đối tượng phụ thuộc để cập nhật thông tin và tiện cho

việc xác nhận và giám sát trong hành thu thuế TNCN. Các mã số dành cho người nộp
thuế cá nhân và người trong diện chiết trừ gia cảnh này đều được cập nhật và nối
mạng vi tính toàn quốc, tạo thuận lợi cho việc xác nhận và thực hiện của các bên có
liên quan trong công tác thuế, từ đó giảm thiểu tình trạng tính trùng, “ăn gian” gây
thất thu thuế , hoặc gây mất thời gian và phiền toái cho người nộp thuế.
Ngoài ra, cần chú ý chỉnh sửa tạo sự phân biệt mức khởi điểm, các bậc thang
tính thuế và mức chiết trừ gia cảnh theo khu vực địa lý và ngành nghề với tinh thần
khuyến khích và đẩy nhanh hơn quá trình tái cấu trúc kinh tế theo hướng phát triển
theo chiều sâu
Công tác kê khai nộp và quyết toán thuế
Việc tự động khấu trừ tại nguồn 10% tất cả các khoản chi trả thu nhập trên
500.000 đ/lượt đã tạo nhiều bức xúc và thiệt thòi cho người lao động do sự áp dụng
không giống nhau giữa các đơn vị và nhất là do thủ tục hoàn thuế cho các khoản
khấu trừ bắt buộc trên là không rõ ràng và không thuận lợi cho người chịu thuế. Có
đơn vị tính và thu 10% trên tổng tiền trả/lần, lại có đơn vị tính riêng trên từng hóa
đơn trả tiền. Rõ ràng là, nếu trả 500.000 đ thì người nộp thuế có lợi hơn là được nhận
540.000đ/lần thanh toán vì không bị khấu trừ tại gốc 10% bắt buộc như trên
Ngoài ra, cũng cần có thêm các quy định bao quát hết các nguồn và khoản
“thu nhập mềm” để chống thất thu NSNN đối với các khoản thu của quan chức, nghệ
sĩ và doanh nhân, kể cả những hoạt động đầu cơ và buôn lậu khác
Về tổng thể, cần có quy định cụ thể hóa các cách tính và thông báo rộng rãi
cho xã hội biết, sao cho các thủ tục thu và hoàn thuế TNCN ngày càng trở nên chính
xác, dễ làm và dễ kiểm tra nhất, kích thích tính tự giác và tôn trong quyền lợi của
người lao động, do đó nâng cao hiệu quả toàn diện của công tác thuế
23
3. Những định hướng tháo gỡ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế
TNCN:
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, trong tương lai,
nguồn thu nhập chịu thuế sẽ ngày càng phức tạp, số người nộp thuế TNCN sẽ không
ngừng gia tăng. Thực tế đó đặt ra đòi hỏi phải hoàn thiện công tác quản lý thu thuế

TNCN nhằm đảm bảo cho hệ thống quản lý thu thuế TNCN trở thành một hệ thống
quản lý thuế hiện đại và khoa học, khắc phục được những vướng mắc, tồn tại được
phát hiện trong thực tiễn triển khai thi hành luật.
Thứ nhất, đẩy mạnh và thực hiện triệt để hơn nữa cơ chế khấu trừ thuế TNCN
tại nguồn trước khi chi trả thu nhập cho cá nhân. Phải có hướng dẫn cụ thể đối với
đơn vị thực hiện khấu trừ thuế. Để xác định mức khấu trừ tại nguồn có thể áp dụng
nguyên tắc tạm nộp trong năm thì tính theo thuế suất toàn phần, cuối năm quyết toán
theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần. Tỷ lệ khấu trừ tại nguồn đề nghị nâng cao hơn
để đảm bảo số thuế tạm nộp lớn hơn số thuế phải nộp thì đối tượng nộp thuế mới tích
cực kê khai quyết toán thuế cuối năm. Đối với thu nhập từ tiền lương tiền công mang
tính chất ổn định thì tính theo thuế suất lũy tiến từng phần của biểu thuế. Cần xác
định rõ ràng trách nhiệm phải khấu trừ tiền thuế cho đơn vị chi trả thu nhập, có tỷ lệ
thù lao thích hợp hơn, có sự biểu dương, khen thưởng…đối với những đơn vị thực
hiện tốt trách nhiệm của mình và xử lý kịp thời, nghiêm minh các đơn vị không thực
hiện đúng trách nhiệm.
Thứ hai, cần đẩy mạnh hơn nữa việc đăng ký và cấp mã số thuế cá nhân, tiến tới
mỗi công dân đều có một mã số để theo dõi quản lý, không phân biệt có thu nhập
chịu thuế hay không có thu nhập chịu thuế.
Thứ ba, để cơ chế tự khai, tự nộp thuế TNCN phát huy hiệu quả, cần tăng
cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê
khai và tính thuế. Đồng thời cần có lộ trình triển khai thực hiện phù hợp, từng bước
từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng nhóm để quản lý; nên có cơ
chế khuyến khích các đối tượng nộp thuế tự nguyện áp dụng phương pháp tự khai tự
nộp thuế, chẳng hạn như cho phép được hưởng các khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các
chế độ ưu đãi khác.
Thứ tư, cùng với việc hoàn thiện cơ chế tự khai tự nộp thuế, thì công tác thanh
tra kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ quan
thuế phải tập trung lực lượng lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra kiểm tra việc
chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng
như cơ quan công an, cơ quan ngoại vụ, cơ quan quản lý lao động,…để nắm bắt kịp

thời thông tin về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh thu nhập, có biện pháp phân
loại đối tượng nộp thuế thành các nhóm khác nhau để thanh tra, kiểm tra một cách có
hiệu quả.
Thứ năm, kiện toàn tổ chức bộ máy thuế, chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của ngành thuế song song với việc tăng cường cơ sở vật
chất cho ngành thuế theo hướng hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
Thứ sáu, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến Luật thuế TNCN
nhằm nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ của người nộp thuế. Để công tác
tuyên truyền đạt hiệu quả cao cần phải: đa dạng hóa hình thức và phương pháp tuyên
truyền về thuế TNCN; định kỳ tổ chức điều tra trắc nghiệm đối với người nộp thuế để
đánh giá mức độ hiểu biết về pháp luật thuế TNCN, nắm bắt được ý kiến nguyện
vọng của dân, qua đó, thiết kế nội dung tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối
tượng nộp thuế; xây dựng cơ chế tiếp thu ý kiến, thông tin phản hồi từ người nộp
24
thuế một cách phù hợp; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ
thuế TNCN và kỹ thuật tuyên truyền cho các tuyên truyền viên để họ có thể làm tròn
nhiệm vụ của một tuyên truyền viên tốt.
Thứ bảy, phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, hướng tới việc quản lý thu nhập của cá nhân qua hệ thống ngân
hàng, có như vậy mới có thể kiểm soát được thu nhập cá nhân, đạt được mục tiêu thu
đúng, thu đủ thuế TNCN cho ngân sách nhà nước.
Thứ tám, để nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế TNCN cần phải tăng cường
phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng của các ngành, các lĩnh vực có
liên quan, trong đó, phải đề cao vai trò và thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc
giám sát thu nhập, thanh tra kiểm tra thuế, xử lý vi phạm và cưỡng chế thuế. Với đặc
trưng của thuế TNCN, trước hết, phải nói đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế với
BHXH, với ngân hàng và Kho bạc Nhà nước.
Thứ chín, Nhà nước cần tổ chức thực hiện lấy ý kiến của toàn dân để đánh giá
mức độ phù hợp của chính sách thuế TNCN trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó có
những bổ sung sửa đổi Luật một cách kịp thời nhằm hoàn thiện một số nội dung của

Luật thuế TNCN. Nên chăng, Luật nên quy định lại mức thuế suất cao nhất của biểu
thuế lũy tiến từng phần là 25% bằng với mức điều tiết của Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, bởi mức thu nhập chịu thuế này thường là của các cá nhân kinh doanh. Như
vậy, sẽ đảm bảo bình đẳng hơn giữa hai sắc thuế trực thu này. Mặt khác, Luật nên
quy định điều khoản cho phép điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo mức độ trượt
giá và tăng trưởng kinh tế theo từng giai đoạn và giao quyền cho Chính phủ điều
chỉnh mức giảm trừ này khi cần thiết.
Giải pháp điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân: (22/06/2011)
Ngày 21/6, Bộ Tài chính đã trình Thường trực Ban bí thư Trung ương Đảng
một số giải pháp cấp bách để hỗ trợ người nộp thuế trong khi chờ đợi sửa Luật Thuế
thu nhập cá nhân. Thường trực Ban bí thư đã đồng ý các phương án thuế thu nhập cá
nhân do Bộ Tài chính báo cáo.
Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ các phương án này trong cuộc họp thường kỳ
tháng 6 và sẽ trình Quốc hội vào kỳ họp diễn ra trong tháng 7. Cụ thể, Bộ nêu hai
phương án:
* Phương án thứ nhất là miễn thuế thu nhập cá nhân đối với người làm công ăn
lương không có người phụ thuộc có thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở xuống, có
một người phụ thuộc có thu nhập không quá 6,6 triệu đồng/tháng, có hai người phụ
thuộc thu nhập không quá 8,2 triệu đồng/tháng. Khoảng 250 nghìn người sẽ được thụ
hưởng từ phương án này và số giảm thu ngân sách khoảng 3.000 tỷ đồng.
* Phương án thứ hai, bỏ bậc 5% trong các bậc thuế thu nhập cá nhân hiện hành.
Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất miễn thuế thu nhập cá nhân đối với đầu
tư chứng khoán từ 1/8 năm nay đến hết năm 2012. Thu nhập nhận được từ cổ tức
cũng sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân nhằm tạo sự công bằng với người gửi tiết
kiệm.
Về giải pháp miễn 5% thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ cổ tức của nhà đầu
tư chứng khoán, dự kiến số thu ngân sách giảm khoảng 250-300 tỉ đồng.
Về thuế thu nhập cá nhân đối với hộ cho thuê nhà, Bộ Tài chính đề xuất, đối với
hộ cho thuê nhà có doanh thu dưới 20 triệu đồng/tháng sẽ được miễn thuế thu nhập
cá nhân với điều kiện cam kết không tăng giá thuê nhà cho công nhân trong năm

2011.
25

×