Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 5 trang )

LUẬT sư VIỆT NAM



VIETNAM LAWYeR

NGHIÊN cứu - TRAO Đổi

journal______

SỐ 8.THÁNG 8-2022

QUÀN LÝ NHÀ NUÓC
VÊ DI SÀN VĂN HÓA
VÀ NHŨNG VẤN ĐÊ ĐẶT RA

PGS.TS ĐINH CƠNG TUẤN
PHĨ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI

TS NGƠ NGỌC DIỄM
KHOA LUẬT, TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI

Tóm tắt: Di sản văn hóa từ lâu đã là một niêm tự hào của mỗi quốc gia, dân tộc trên tồn thê'giới, trong đó có cả Việt
Nam. Bởi nó khơng đơn thuần là nét đẹp văn hóa mà cịn được xem như ủ tơ'quan trọng ảnh hưởng đến quá trình xây
dựng và phát triêh bên vững của một đất nước. Những năm qua, công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa ln được
quan tâm, tạo điểm nhấn và hiệu ứng tích cực trong đời sống xã hội, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị những di sản văn
hóa quý báu của dân tộc, đáp ứng nhu câu hưởng thụ các giá trị văn di sản văn hóa, tín ngưỡng, tinh thần của nhân dân.
Dù vậy, cần phải tiếp tục nãng cao, tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn các giá trị di sản văn hóa
là nhiệm vụ trọng tâm trong việc gìn giữ, bảo vệ các giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Từ khóa: Văn hóa, di sản văn hóa, quản lý nhà nước, quản lý văn hóa.
Abstract: Cultural heritage has long been a pride of every country and people around the world, including Vietnam.


Because it is not only a cultural beauty but also considered an important factor affecting the process of building and
sustainable development of a country. In recent years, the state management of cultural heritage has always been interested,
creating highlights and positive effects in social life, contributing to the preservation and promotion of the value of precious
cultural heritages, of the nation, meeting the people's need to enjoy cultural, religious and spiritual values. However, it is
necessary to continue to improve and strengthen the role of state management in the field of preserving cultural heritage
values, which is a key task in preserving and protecting the nation's cultural heritage values.
Keywords: Culture, Cultural heritage, State management, Cultural management, Vietnamese law.


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI

LUẬT SƯVIỆT NAM

I

V 1 E T N AM LAWYER JOURNAL ■

SỐ 8.THÁNG 8-2022

Di sản văn hóa và quản lý
nhà nước về di sản văn hóa
Di sản văn hóa (DSVH) là sản
phẩm vật chất và tinh thần có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học được
lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Luật DSVH hiện hành tại Việt Nam
cũng chĩa DSVH thành: DSVH vật
thể là sản phẩm vật chất có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam

thẳng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia (khoản 2 Điêu 4) và DSVH
phi vật thể là sản phẩm tinh thần
gắn vói cộng đồng hoặc cá nhân,
vật thê’ và khơng gian văn hóa liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, thê’ hiện bản sắc của cộng đồng,
khơng ngừng được tái tạo và được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức
khác (khoản 1 Điều 4). Theo thống
kê hiện nay, Việt Nam đã có tổng
cộng 8 DSVH thiên nhiên thế giới
(Khu di tích trung tâm Hồng thành
Thăng Long-Hà Nội, Đô thị cô’ Hội
An, Quần thê’ danh thắng Tràng An,
Quân thê di tích Cố đơ Huế, Thành
nhà Hồ, Thánh địa Mỹ Son, Vườn
quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Vịnh
Hạ Long)® và 11 DSVH phi vật thê’
(Nhã nhạc - Âm nhạc Cung đình
Việt Nam, khơng gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ
Bắc Ninh, hát Ca trù, Hội Gióng ở
đền Phù Đổng và đền Sóc, hát Xoan,
tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương,
Đờn ca Tài tử Nam Bộ, dân ca vĩ
dặm Nghệ Tĩnh, nghi lễ và trò kéo
co, thực hành Tín ngưỡng thờ mâu

Tam phù của người Việt)*123* được
UNESCO công nhận.
Mặt khác, trước sự thay đổi,
chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa
trong q trình hội nhập quốc tế,
đặc biệt là những giá trị văn hóa
truyền thống, địi hỏi Nhà nước
phải tăng cường sự quản lý trong
lĩnh vực DSVH thông qua việc chi
đạo, tơ’ chức, điều hành mang tính
hệ thống theo quy định pháp luật

chức khen thưởng các tô chức, cá
nhân có thành tích cao trong việc
bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa; xét tặng danh hiệu vinh
dự nhà nước và thực hiện các chính
sách ưu đãi về tinh thần và vật chất
đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm
giữ và có cơng phơ’ biến nghệ thuật
truyền thống, bí quyết nghề nghiệp
có giá trị đặc biệt.
Thứ hai, ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về DSVH. Năm
Các chính sách của
2001, Quốc hội Việt Nam thơng qua
Luật DSVH, đánh dấu mốc quan
Nhà nước trong việc
trọng trong quá trình xây dựng và
quản lý di sản văn hóa

hồn thiện pháp luật về DSVH, hai
Khoản 1 Điều 9 Luật DSVH sửa
loại hình: DSVH vật thê và DSVH
đổi, bổ sung năm 2009 quy định
phi vật thê’ đều trở thành đối tượng
mục đích của chính sách bảo vệ
điều chinh của luật pháp. Đây là
và phát huy giá trị văn hóa là bảo
một bước chuyên biến lớn lao trong
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
nhận thức của Đảng, Nhà nước và
nhằm nâng cao đời sống tinh thần của
toàn xã hội về DSVH. Năm 2009,
nhân dân, góp phần phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước; khuyến khích Luật sửa đổi, bơ’ sung một số điều
tô’ chức, cá nhân trong nước và nước của Luật DSVH được thơng qua.
ngồi đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ Các văn bản hướng dẫn thi hành
và phát huy giá trị di sản văn hóa. Đê’ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
thực hiện được mục tiêu trên, Nhà của Luật DSVH cũng kịp thời được
nước đã triển khai thực hiện đồng nghiên cứu, xây dựng, nhằm đưa
ra những quy định chi tiết, cụ thê’
bộ các chính sách sau:
việc thi hành Luật trong thực tiên,
Thứ nhất, thực hiện chiến lược,
chính sách, kế hoạch bảo tồn và tạo điêu kiện thuận lợi cho việc tô’
phát huy, phát triển DSVH. Đảng chức các hoạt động bảo vệ và phát
và Nhà nước đã luôn chú trọng huy giá trị DSVH trong q trình
trong cơng tác xây dựng và thực hội nhập.
Thứ ba, tiến hành tô’ chức, triển
hiện các chương trình mục tiêu

khai
thực hiện quản lý nhà nước
quốc gia về bảo tồn, tôn tạo và phát
đối
với
lĩnh vực DSVH. Đê’ thực
huy các giá trị văn hóa trên khắp
hiện
tốt
các mục tiêu, nhiệm vụ
các địa bàn cả nước. Đồng thời,
Nhà nước cũng tăng cường việc đề ra, Nhà nước đã tiến hành một
huy động các nguồn lực đê’ bảo vệ loạt các nhiệm vụ đồng bộ như: i)
và phát huy các giá trị DSVH, thê’ Tiến hành khảo sát, lập hồ sơ khoa
hiện qua một số nội dung trùng học xếp hạng di tích khi đủ điều
tu di tích, hỗ trợ phát huy giá trị kiện. Việc khoanh vùng cắm mốc,
DSVH và sưu tầm các hiện vật bảo kiểm kê, phân loại xếp hạng, trùng
tàng®. Ngồi ra, Nhà nước cũng đã tu, tơn tạo di tích được thực hiện
ban hành kế hoạch Quy hoạch phát thường xuyên, liên tục; ii) Triển
triển ngành nghề nông thôn làm khai nghiên cứu áp dụng thành
cơ sở pháp lý đê’ quản lý, bảo tồn tựu khoa học công nghệ, sưu tầm,
và phát triển bền vững làng nghề, bảo tồn và phát huy DSVH trong
tạo cơ sở đê’ tiến hành xây dựng các nước thông qua các hoạt động như:
kế hoạch bảo vệ và phát huy giá trị thăm dò, khai quật khảo cổ; bảo
DSVH trong nước. Đồng thời, tổ quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy

nhằm tạo điều kiện bảo vệ, phát
triển của DSVH. Quản lý nhà nước
về DSVH không chỉ là các hoạt
động hướng đến bảo tồn sự tồn tại

về vật chất của DSVH mà cịn là
gìn giữ, giáo dục các giá trị truyền
thống, tinh thần, cội nguồn của dân
tộc đê’ cung cấp các tri thức, hiểu
biết, kinh nghiệm sống, bài học lịch
sử cho các thế hệ mai sau và cho cả
nhân loại.

(1) https://vi. wikip dia.org/wiki/Danh_s%C3%A1 ch_di_s%E 1 %BA%A3n_th%E 1 %BA%BF gi%E 1 %BB%9Bi_t%E 1 %BA%A 1 i_Vi%E 1 %BB
(2) />(3) TS Nguyền Thị Thu Trang (Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Quàn lý nhà nước về di sản văn hóa và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể trong thời kỳ hội nhập, ngày 06/5/2020, />

LUẬT sư VIỆT NAM

NGHIÊN cứu - TRAO Đổi

V 1 E TN AM L A w V E k JOURNAL______________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________

SO 8.THÁNG 8-2022

giá trị di tích; thẩm định, quản lý
sưu tập, bảo quản hiện vật, chỉnh
lý, đổi mói nội dung, hình thức
trưng bày và hoạt động giáo dục
của bảo tàng; sưu tầm, lưu giữ và
phô biến giá trị DSVH phi vật thể;
thành lập ngân hàng dữ liệu về
DSVH phi vật thể; iii) Đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn
trong lĩnh vực bảo vệ, phát huy và

quản lý đối với DSVH; iv) Khuyến
khích và tạo điều kiện cho các tổ
chức, cá nhân trong nước và nước
ngồi đóng góp về tinh thần và vật
chất hoặc trực tiếp tham gia các
hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị DSVH; v) Mở rộng các hình thức
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo
vệ và phát huy giá trị DSVH; xây
dựng và thực hiện các dự án hợp
tác quốc tế theo quy định của pháp
luật; vi) Công tác sưu tầm, kiểm kê,
bảo quản hiện vật, xác định niên
đại, phối hợp thẩm định hiện vật
và công nhận bảo vật quốc gia rất
được chú trọng quan tâm.
Thứ tư, tổ chức các hoạt động
thanh tra, kiêm tra và xử phạt trong
việc bảo vệ và phát huy các giá trị
DSVH, bảo đảm hiệu quả quản lý
về DSVH trong nước. Nhà nước
luôn tổ chức kiểm tra thường xuyên
và kiểm tra đột xuất việc quản lý và
sừ dụng DSVH. Tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra về quản lý
nhà nước đối với DSVH gắn vói
trách nhiệm cá nhân và tơ chức khi
đê xảy ra sai phạm. Các cấp, các
ngành cũng tăng cường hơn vai trò
giám sát, phản biện xã hội của các

tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư
và cư dân đối vói việc quản lý nhà
nước đối với các DSVH.

Quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành đối với
quản lý di sản văn hóa
Các hình thức quản lý di ãản
văn hóa
Điều 5 Luật DSVH số 28/2001/
QH10 ngày 29/6/2001 và Luật sửa
đổi, bô sung một số điều của Luật
DSVH số 32/2009/QH12 ngấy
18/6/2009 (Luật DSVH) quy định:
"Nhà nước thống nhất quản lý

©

DSVH thuộc sở hữu Nhà nước;
công nhận và bảo vệ các hình thức
sở hữu tập thể, sở hữu chung của
cộng đồng, sở hữu tư nhân và các
hình thức sở hữu khác vê DSVH
theo quy định của pháp luật".
Quyền sở hữu, quyền tác giả đối vói
DSVH được xác định theo quy định
của Luật DSVH, Bộ luật Dân sự và
các quy định khác của pháp luật có
liên quan. Cụ thê: i) Mọi DSVH ờ
trong lòng đất thuộc đất liền, hải

đảo, ở vùng nội thủy, lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu
Nhà nước (Điều 6 Luật DSVH); ii)
DSVH phát hiện được mà không
xác định được chủ sờ hữu, thu
được trong q trình thăm dị, khai
quật khảo cổ đều thuộc sở hữu Nhà
nước (Điều 7 Luật DSVH); iii) Mọi
DSVH trên lãnh thổ Việt Nam, có
xuất xứ ở trong nước hoặc từ nước
ngồi, thuộc các hình thức sở hữu,
đều được bảo vệ và phát huy giá
trị và DSVH của Việt Nam ở nước
ngoài được bảo hộ theo tập quán
quốc tế và theo quy định của các
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia (Điều 8 Luật DSVH).
Các hành vi bị xử lý vi phạm trong
q trình quản lý di sản văn hóa
Điều 13 Luật DSVH quy định
các hành vi bị nghiêm cấm vi phạm
về DSVH, bao g'ôm: "i) Chiếm
đoạt, làm sai lệch di sàn văn hóa;
ii) Hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy
hoại di sản văn hóa; iii) Đào bói trái
phép địa điểm khảo cổ; xây dựng
trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc

di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh; iv) Mua bán, trao đổi
và vận chuyển trái phép di vật, cơ
vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích
lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh; đưa trái phép di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia ra nước ngoài; v)
Lợi dụng việc bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa đê thực hiện
những hành vi trái pháp luật".
Trong đó, hành vi làm sai lệch hoặc
hủy hoại DSVH được hướng dẫn
bởi Điều 4 Nghị định số 98/2010/
NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính

phủ quy định chi tiết biện pháp thi
hành Luật DSVH.
Các hình thức xử lý xâm phạm di
sản văn hóa
Nhà nước quản lý, bảo vệ DSVH
bằng trách nhiệm pháp lý như:
i) Bảo vệ DSVH bằng trách nhiệm
hành chính. Trách nhiệm hành chính
được áp dụng khi hành vi vi phạm
pháp luật DSVH chưa tới mức truy
cứu trách nhiệm hình sự. Khi áp
dụng trách nhiệm hành chính, cần
căn cứ vào nguyên tắc chung của
Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 và những quy định cụ

thể của Nghị định số 158/2013/
NĐ-CP ngày 12/i 1/2013 quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch
và quảng cáo. Các quy định này là
cơ sở pháp lý để xử lý hành chính
những hành vi vi phạm chủ yếu
trong lĩnh vực bảo vệ DSVH như
hành vi xây dựng, trùng tu, tôn
tạo trái phép tại các di tích lịch sử
- văn hóa, danh lam thắng cảnh;
có hành vi làm ảnh hường tới giá
trị của di tích; khai quật cổ vật trái
phép; phát hiện cổ vật mà khơng
khai bảo, cố tình chiếm đoạt; xuất
khẩu cơ vật trái phép; trộm cắp làm
hư hại di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia... Tuy nhiên, các quy định này
cũng làm phát sinh những vấn đề
cần được xem xét, giải quyết cả về
lý luận và thực tiên như việc cần
phải giải thích thuật ngữ "di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh" nhưng chưa phân biệt di tích
đã được xếp hạng hay chưa được
xếp hạng. Vói những di tích chưa
được xếp hạng, các giá trị về văn
hóa, khoa học, nhân văn... chưa
được thẩm định về mặt pháp lý và
từ đó có thê’ phát sinh nhũng tranh

luận về những giá trị này<4). Vì vậy,
các "di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh" được đề cập trong
các văn bản này là những di tích đã
được xếp hạng. Những hành vi vi
phạm tương ứng được thực hiện
trong các khu vực di tích chưa được
xếp hạng bị xử lý theo các quy định
khác của pháp luật.
ii) Bảo vệ DSVH bằng trách nhiệm
kỷ luật. Trách nhiệm kỷ luật là biện

(4) Xem Đinh Hồng Hải, Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam, Tập 1, Các bộ trang tri điển hình, Nxb Tri Thức, 2012.


NGHIÊN CỨU - TRAO Đổi

LUẠTSƯVIẸTNAM
VIE T*N AM LAWYER JOURNAL

só 8.THÁNG 8-2022

pháp pháp lý do cơ quan có thẩm
quyền áp dụng đối với cán bộ, công
chức vi phạm kỷ luật, vi phạm các
quy tắc và nghĩa vụ trong hoạt
động công vụ hoặc vi phạm pháp
luật mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự. Người nào lợi
dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm

các quy định của pháp luật về di
sản văn hóa thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm có thể bị áp dụng
các biện pháp thuộc trách nhiệm
kỷ luật như: khiển trách, cảnh cáo,
hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức,
buộc thôi việc (Điều 7 đến Điều
14 Nghị định so 110/2020/NĐ-CP
ngày 18/9/2020 của Chính phủ về
xử lý kỷ luật cán bộ, cơng chức,
viên chức, có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 20/9/2020).
iii) Bảo vệ DSVH bằng trách nhiệm
dẫn sự. Trách nhiệm dân sự xuất
hiện khi tổ chức, cá nhân chiếm
giữ, sừ dụng bất hợp pháp di sản
hoặc gây thiệt hại, làm ảnh hưởng
tói giá trị của di sản văn hóa. Chủ
sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
di sản văn hóa có quyền yêu cầu
người có hành vi vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm, trả lại di sản.
Trong trường hợp người có hành
vi vi phạm khơng tự nguyện chất
dứt hành vi vi phạm và tự nguyện
trả lại di sản thì chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu
cầu tịa án hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền buộc người đó chấm
dứt hành vi vi phạm, trả lại di sản.

Trong trường hợp người có hành vi
vi phạm gây thiệt hại tói di sản, chủ
SỞ hữu di sản có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại theo quy định của
Bộ luật Dân Sự năm 2015.
ii) Bảo vệ DSVH bằng chế tài hình
sự. Chế tài hình sự được áp dụng
đối với cá nhân, pháp nhân có hành
vi vi phạm pháp luật di sản văn
hóa gây hậu quả nghiêm trọng. Bộ
luật Hình sự hiện hành nhìn nhận
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và
các vật phẩm thuộc di tích lịch sử
như là tài sản và có giá trị vật chất.
Bộ luật Hình sự khơng có những
quy định riêng nhằm mục đích bảo
vệ những giá trị phi vật chất như
giá trị văn hóa, khoa học, lịch sử...

của di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
và các vật phẩm thuộc di tích lịch
sử. Vì vậy, khi xuất hiện những
hành vi xâm hại nghiêm trọng tới
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và
các vật phẩm thuộc di tích lịch sử
buộc phải căn cứ vào loại hành vi
vi phạm đê’ xác định tội danh cụ thể
được quy định trong Bộ luật Hình
sự. Theo đó, trách nhiệm này được
quy định rải rác trong các chương

khác nhau của Bộ luật Hình sự năm
2015, đối với hành vi vi phạm các
quy định về bảo vệ và sử dụng di
tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh gây hậu quả nghiêm
trọng sẽ bị xử lý hình sự (Điều 345);
hành vi buôn lậu di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia và các vật phẩm thuộc
di tích lịch sử (Điều 153); hành vi
vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới áp dụng cho
hành vi vận chuyển trái phép di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và các
vật phẩm thuộc di tích lịch sử qua
biên giới (Điều 154)...

Một số vấn đề đật ra
trong quản lý nhà nước
vế di sản văn hóa ở
Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, hệ thơhg pháp luật vê
DSVH chưa hoàn thiện. Hiện nay,
pháp luật về DSVH vẫn còn tồn



tại những điểm hạn chế cần khắc
phục như: chưa có các quy định về
việc rút tên DSVH phi vật thê ra
khỏi Danh mục quốc gia về DSVH

phi vật thê’ khi các trường hợp đối
tượng khơng cịn đáp ứng đầy đủ
các tiêu chí cơ bản của một DSVH
phi vật thê’ trong quá trình phát
triển; rút tên DSVH phi vật thê khi
khơng cịn đủ các điều kiện là điều
cần thiết và phù hợp vói sự phát
triển của các loại hình bảo tồn, phát
triển DSVH và khi một giá trị văn
hóa đã khơng cịn phù hợp với sự
phát triển của cộng đồng, không
được cộng đồng lưu truyền và
không thể tồn tại trong đời sống
văn hóa của cộng đồng thì cần phải
được rút ra khỏi Danh mục quốc
gia về DSVH phi vật thể'5). Ngoài
ra, các quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực DSVH
cịn chưa quy định cụ thể, chế tài
đặt ra chưa cao. Điều này gây
nhiều khó khăn cho công tác thanh
tra, kiểm tra đê’ phát hiện vi phạm.
Thứ hai, công tác bảo tồn DSVH
chưa khoa học. vấn đề quản lý nhà
nước về DSVH tuy được Đảng,
Nhà nước đặc biệt quan tâm, nhưng
cách thức tiến hàrth thì chưa khoa
học và hiệu quả. Công tác trùng tu
và bảo vệ các DSVH bị hạn chế bởi
kinh phí cũng như vướng các thủ

tục hành chính. Điều này dẫn đến

(5) Đào Duy Anh, Việt Nam Văn hóa sử cương, NXB Hồng Đức, 2012, tr.23.


LUẬT, sư VIỆT NAM



NGHIÊN cứu - TRAO Đối

V 1 H T*N AM LAW Y E ft JOURNAL

SỐ 8.THÁNG 8-2022

sự xuống cấp của các DSVH. Việc
quản lý, bảo vệ di tích, bảo quản cổ
vật, di vật, hiện vật tại một số địa
phương cịn chưa hiệu quả. Một số
di tích hạn chế về diện tích, nằm
xen kẽ trong các địa bàn dân cư nên
việc tơ chức các hoạt động văn hóa
tại di tích gặp khó khăn. Vì vậy, cần
phải tiếp tục nghiên cứu, đưa ra các
phương án giải quyết tối ưu và phù
hợp nhất, bảo đảm hiệu quả trong
công tác bảo tồn và quản lý nhà
nước về DSVH hiện nay.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm vê DSVH còn

chưa thực hiện ầây đủ và nghiêm
túc. Nguyên nhân một phần là do
lực lượng thanh tra, hậu kiểm còn
mỏng, chế tài xử lý vi phạm còn
thiếu hoặc chưa đủ sức răn đe. Việc
thanh tra, kiêm tra và xử lý các sai
phạm trong lĩnh vực này chủ yếu
đến từ phản ánh, kiến nghị của báo
chí và người dân. Tính chủ động
của các cơ quan quản lý văn hóa
là chưa cao. Điều này dẫn đến tình
trạng sai phạm, xâm phạm đến các
DSVH vẫn cịn diễn ra.

Giải pháp hồn thiện nhằm
nâng cao cơng tác quản lý
nhà nước vể di sản văn hóa
Thứ nhất, tiếp tục hồn thiện
hệ thống pháp luật, chính sách về
DSVH. Các cơ quan chun mơn về
lĩnh vực văn hóa cần chủ động làm

tốt công tác tham mưu ban hành
các văn bản chỉ đạo tăng cường
công tác quản lý nhà nước đối với
các DSVH, tham mưu xây dựng cơ
chế, chính sách thúc đẩy hoạt động
bảo tồn di sản; chính sách hỗ trợ,
tơn vinh những tổ chức, cá nhân,
nghệ nhân có nhiều đóng góp cho

hoạt động bảo tồn, tơn tạo di tích và
thực hành, truyền dạy DSVH phi
vật thể... Bộ Văn hóa, Thê thao và
Du lịch, Hội đồng DSVH Quốc gia
rà sốt lại, đánh giá, tổng kết q
trình thực thi Luật DSVH.
Thứ hai, tăng cường công tác
đào tạo, thúc đẩy nâng cao nhận
thức của cán bộ và người dân. Mỗi
người dân và cán bộ cần có tiếp
tục trau dồi kiến thức và phải có
nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội
dung, ý nghĩa và sự cần thiết việc
quản lý nhà nước đối với DSVH.
Đồng thời, nâng cao nhận thức các
cấp ủy đảng, chính quyền và tồn
xã hội về vị trí, vai trò, chức năng
của DSVH trong đổi mới và phát
triển bền vững bảo đảm việc bảo vệ
DSVH phải được chú trọng tương
xứng, hài hòa với phát triển kinh tế,
xã hội.
Thứ ba, tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra. Việc tổ chức
kiểm tra cần được thực hiện
thường xuyên đầy đủ và kiểm tra
đột xuất việc quản lý và sử dụng
DSVH. Tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra về quản lý nhà nước


đối vói DSVH gắn với trách nhiệm
cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai
phạm. Các cấp, các ngành cần phát
huy vai trò giám sát, phản biện xã
hội của các tổ chức xã hội, cộng
đồng dân cư đối với việc quản lý
nhà nước đối với các DSVH. Đồng
thời, khen thưởng, động viên kịp
thời các tổ chức, cá nhân có đóng
góp hiệu quả trong công tác quản
lý nhà nước đối với các DSVH để
khích lệ, giúp đạt nhiều hiệu quả
cao trong quản lý nhà nước về
DSVH.
Có thê thấy DSVH được xem
như một tài sản quý giá của cộng
đồng, là yếu tố cốt lõi của bản sắc
dân tộc, đồng thời là một bộ phận
của DSVH nhân loại. Do vậy, trong
quá trình hội nhập phát triển hiện
nay thì càng địi hỏi sự tăng cường
quản lý nhà nước đối với DSVH.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, rà
sốt và hồn thiện những tồn tại,
vướng mắc trong quy định pháp
luật, ban hành những chủ trương,
chính sách, kế hoạch quản lý nhà
nước về DSVH cũng như kịp thời
phát hiện và xử lý những hành vi
sai phạm về DSVH luôn là mục tiêu

quan trọng hàng đầu cần thực hiện
tốt đê giúp cho hoạt động quản
lý nhà nước về DSVH đạt được
những hiệu quả cao trong thời gian
tới, góp phần lưu giữ những giá trị
văn hóa tốt đẹp của đất nước, con
người Việt Nam.
Đ.C.T-N.N.D



×