Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

giải quyết việc làm ở nông thôn tỉnh ninh bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 135 trang )


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội có tính
toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay, quan
niệm về phát triển được hiểu đầy đủ là: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ,
công bằng xã hội; phải xoá đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm
cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và được sống một đời hạnh phúc” [39, tr.17]. Tư tưởng
của Người luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho người lao động
Ở nước ta hiện nay, nông thôn chiếm 74,37% dân số và 75,6% lực
lượng lao động (32,7 triệu trong 43 triệu lao động cả nước) và gần 90% số
người nghèo của cả nước vẫn đang sống ở nông thôn. Tỷ lệ thời gian nhàn rỗi
ở nông thôn chiếm 19,3%, thất nghiệp ở thành thị 5,1%. Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhận định: "Tỷ trọng trong nông nghiệp
còn quá cao. Lao động thiếu việc làm và không có việc làm còn nhiều. Tỷ lệ
qua đào tạo rất thấp” [16, tr.166].
Thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, cản trở
quá trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, tạo việc làm cho
người lao động là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, địa phương và
từng gia đình. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt, nhằm
phát huy tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, mặt khác, là hướng cơ bản để xoá đói, giảm nghèo có hiệu
quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần quan
trọng giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo động lực mạnh

2


mẽ thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng
nhiều biện pháp, tạo ra nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao
động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn. Các thành
phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ
có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện
làm việc, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn
và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển
các làng nghề… sớm xây dựng và thực hiện chính sách trợ cấp cho
người lao động thất nghiệp [18, tr.140-150].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định:
Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao
động nông thôn, nhất là các vùng nhà nước thu hồi đất để xây dựng
kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, giảm nhanh tỉ trọng lao động
làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo
điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm… [16, tr.195].
Ninh Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, với quy mô
dân số xấp xỉ 1 triệu người, tốc độ phát triển dân số bình quân 1,32%/năm,
nguồn lao động bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm lớn, nhưng mức độ
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Ninh Bình còn thấp so
với nhu cầu. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề cho sự phát triển kinh tế - xã
hội ở Ninh Bình. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ
XIX nhiệm kỳ 2005 - 2010 xác định:
Đẩy mạnh việc đào tạo nghề, nhất là cho nông dân vùng giải
phóng mặt bằng làm khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với quy

3

hoạch xây dựng nhà ở, khu vui chơi giải trí cho người lao động. Duy
trì và phát triển làng nghề truyền thống, xây dựng các trường dạy nghề.
Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, xây dựng cơ chế, chính sách về
đào tạo nguồn lao động, tích cực xuất khẩu lao động để giải quyết việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động [17, tr.75].
Cũng xuất phát từ áp lực về lao động và việc làm ngày càng gia tăng,
đặc biệt là ở nông thôn Ninh Bình, vấn đề này đã được nhiều cơ quan, các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu.
Là một cán bộ công tác tại Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình với nhiệm vụ
vận động hội viên, nông dân phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng
nông thôn mới, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân,
bản thân thấy đây là vấn đề cấp bách và trong chừng mực nhất định đã có quá
trình tích luỹ tài liệu. Xuất phát từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài:
"Giải quyết việc làm ở nông thôn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nhiều quốc gia. Do vậy, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về lao
động, việc làm trong và ngoài nước. Tiêu biểu như:
- Thị trường lao động, thực trạng và giải pháp của PGS. Nguyễn
Quang Hiển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS. Nguyễn Hữu
Dũng, PTS. Trần Hữu Trung, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997
- Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của Thạc
sĩ. Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb Lao động - xã hội, Hà nội, 2002
Các tác giả cho vấn đề việc làm cho người lao động và thất nghiệp là
một trong những vấn đề toàn cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về
chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực

4

trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Nội dung của các công trình đã đề xuất hệ
thống các quan điểm, phương hướng giải quyết việc làm và khuyến nghị, định
hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đề tài “Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải
quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
(2001) do PGS.TS Trần Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài. Các cộng tác viên của
đề tài đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với
giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các tác giả cho rằng: việc nâng cao chất lượng nguồn lao động không chỉ
nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển, mà còn góp phần giải quyết việc làm,
giảm thất nghiệp. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và giải quyết việc làm ở nước ta.
Cũng đã có rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu viết về thực trạng lao
động, vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta như:
+ Nguyễn Sinh Cúc (2003), "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những
vấn đề đặt ra; Tạp chí Con số và Sự kiện, số 8.
+ Nguyễn Hữu Dũng (2004), “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm
trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí
Lao động và Xã hội, số 247.
+ Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”,
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3.
+ Bùi Văn Quán (2001), “Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và
một số giải pháp cho giai đoạn 2001-2005”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số
chuyên đề 3.
Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận văn tiến sĩ, thạc sĩ viết về vấn đề
việc làm ở một số tỉnh: Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Kiên Giang với
những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chưa có đề tài, công trình khoa học nào

5

phân tích, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình dưới
dạng một luận văn khoa học kinh tế. Để thực hiện đề tài khoa học này, tác giả
có lựa chọn và kế thừa một số kết quả nghiên cứu đã công bố, kết hợp khảo
sát thực tiễn ở nông thôn Ninh Bình để phân tích, từ đó đưa ra các giải pháp
phù hợp với tình hình thực tế của địa phương trên cơ sở những đường lối,
quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và của
tỉnh Ninh bình đề ra trong những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Trên cơ sở nhận thức lý luận, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
giải quyết việc làm và đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm ở
nông thôn Ninh Bình, luận văn đề xuất một số giải pháp giải quyết việc làm
lao động ở nông thôn tỉnh Ninh Bình
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Khái quát những vấn đề cơ bản lý luận về việc làm và các nhân tố
ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay làm cơ sở cho
việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình.
- Đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình,
tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng.
- Trình bày căn cứ và nội dung những giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết việc làm cho lao động ở nông thôn Ninh Bình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu giải quyết việc làm cho các hộ nông
dân ở nông thôn tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn nghiên cứu vấn đề lao động, việc làm trên địa bàn nông thôn
tỉnh Ninh Bình thời gian từ năm 2000-2005 và đưa ra giải pháp chủ yếu cho
giai đoạn 2006 - 2010.

6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

* Cơ sở lý luận:
- Luận văn được viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý
thuyết về lao động, việc làm và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học có liên quan đến đề tài.
- Luận văn được viết trên cơ sở kế thừa những nghị quyết, chỉ thị về lao
động việc làm của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia và tổng hợp, dựa trên
những tài liệu thực tiễn của các ngành có liên quan đến phạm vi nghiên cứu
để làm rõ vấn đề mà đề tài đề cập. Ngoài ra, tác giả luận văn trực tiếp điều tra
một số xã đại diện cho các vùng nông thôn tỉnh Ninh Bình.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ ý nghĩa kinh tế - xã hội của vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn Ninh Bình.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
ở nông thôn Ninh Bình và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp sát thực nhằm giải quyết việc làm
cho người lao động ở nông thôn Ninh Bình.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
chức năng, sở, ban, ngành có liên quan đến việc hoạch định chính sách, chiến
lược giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Ninh Bình,

7
cũng như các địa phương khác có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.

8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan trực tiếp đến giải quyết
việc làm
* Dân số:
Dân số là cơ sở để hình thành lực lượng lao động. Dân số biến động có
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy mô, cơ cấu cũng như sự phân bố
theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động.
Theo nghĩa rộng: Dân số là tập hợp những người cư trú thường xuyên
và sống trên một lãnh thổ nhất định (một quốc gia, một vùng lãnh thổ kinh tế,
một đơn vị hành chính).
Theo nghĩa hẹp: Dân số là một tập hợp người hạn định trong phạm vi nào
đó (về lãnh thổ và xã hội có tính chất gắn liền với sự tái sản xuất liên tục của nó).
Nhân khẩu thường trú: Là những người thường xuyên cư trú ở một địa
điểm nhất định, nó phản ánh quy mô dân số của địa phương.
Nhân khẩu tạm trú: Là những người ở thường xuyên tại một nơi khác
nhưng có mặt tại điểm dân cư đăng ký dân số.
Nhân khẩu có mặt: Là người đang ở tại một điểm dân cư không kể là
nhân khẩu thường trú hay tạm trú.
Nhân khẩu thành thị: Những người cư trú thường xuyên ở các điểm đã
quy định là thành thị gọi là nhân khẩu thành thị.
Nhân khẩu nông thôn: Những người cư trú thường xuyên ở ngoài các
địa điểm được quy định là thành thị.

Nhân khẩu nông nghiệp: Là những người làm nghề nông (nông, lâm,
ngư, diêm nghiệp) và những nhân khẩu chủ yếu sống nhờ vào thu nhập của
những người đó.

9
Nhân khẩu phi nông nghiệp: Là những người làm các công việc không
thuộc nghề nông và những nhân khẩu chủ yếu sống nhờ vào thu nhập của
những người này.
Dân số trong độ tuổi lao động: Là những người ở trong độ tuổi lao
động theo quy định của pháp luật nước đó. Ở nước ta hiện nay, theo Bộ Luật
lao động quy định độ tuổi lao động là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (đối
với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi (đối với nữ).
Dân số hoạt động kinh tế: Theo khuyến nghị của APR (tổ chức khu vực
Châu Á Thái Bình Dương về điều tra dân số và nhà ở) năm 1980, thì dân số
hoạt động kinh tế gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp.
Giáo trình Khoa Kinh tế lao động Trường Đại học Kinh tế Quốc dân -
Hà Nội đưa ra khái niệm về dân số hoạt động kinh tế gồm: “Những người
trong tuổi lao động có việc làm và những người chưa có việc làm, đang tìm
việc làm”.
Dân số không hoạt động kinh tế: Gồm những người trong tuổi lao động
đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình, đang đi học hoặc mất khả
năng lao động, thất nghiệp nhưng không có nhu cầu làm việc, những người
nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ Luật lao động.
* Lao động:
- Lực lượng lao động: Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về
lực lượng lao động.
Từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ), (Matxcơva
1997, tiếng nga) lực lượng lao động là khái niệm định lượng của lao động.
Từ điển thuật ngữ Pháp (1997-1985) lực lượng lao động là số lượng và
chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình

về khả năng lao động có thể sử dụng.
Nhà kinh tế học Da Vid Begg cho rằng: Lực lượng lao động có đăng ký

10
bao gồm số người có công ăn việc làm cộng với số người thất nghiệp có đăng
ký.
Theo tổ chức lao động của (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người
không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu lực lƣợng lao động







E
N


U N

E: Người có việc làm
Ư: Người thất nghiệp
N: Người không tham gia hoạt động kinh tế
Theo thuật ngữ về lĩnh vực lao động của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội thì lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người thất nghiệp. Lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động
kinh tế; lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao động [6, tr.11].

Từ những quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam,
Dân số trong tuổi lao động quy định (a)
Cú việc làm (b)
Khụng cú việc làm
Muốn làm việc
Khụng muốn làm việc
viẹc
- Chủ động tỡm việc
- Sẵn sàng làm việc
Không chủ động
tỡm việc
Lực lượng lao động
Không thuộc lực lượng
lao động

11
chúng tôi đưa ra quan niệm về lực lượng lao động như sau: Lực lượng lao
động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm
hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
- Lao động: Khái niệm về lao động có nhiều cách tiếp cận khác nhau
nhưng suy đến cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, là ranh
giới để phân biệt con người với con vật. Bởi vì, khác với con vật, lao động
của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự
nhiên nhằm cải biến những vật thể của tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu đời sống của con người. Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá
trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao
đổi chất giữa họ và tự nhiên” [36, tr.230, 321].
Ph.Ăng ghen viết:
Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao

động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp
những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao
động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến
một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động
đã sáng tạo ra bản thân loài người [38, tr.641].
Như vậy, có thể nói lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của
con người, trong quá trình lao động con người vận dụng sức lực tiềm tàng
trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình. Nói cách khác,
trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, lao động bao giờ cũng là điều kiện để
tồn tại và phát triển của xã hội.
- Nguồn lao động và lực lượng lao động:
Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa

12
quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối lao động, việc làm trong xã hội.
Theo giáo trình Kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân
(2005) đưa ra khái niệm “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham
gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động)
đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân” [5, tr.167].
Việc quy định độ tuổi lao động tuỳ mỗi nước có quy định khác nhau,
thậm chí khác nhau ở các giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, theo quy định của Bộ Luật lao động (2002)
độ tuổi lao động đối với nam từ 15-60 tuổi và nữ là từ 15-55 tuổi. Nguồn lao
động luôn được xem xét trên hai mặt, biểu hiện đó là số lượng và chất lượng.
Số lượng lao động: Là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động gồm: Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm

công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu việc làm và những người
thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định).
Chất lượng lao động: Cơ bản đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề
(trí lực) và sức khoẻ (thể lực) của người lao động.
Lực lượng lao động: Theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế
(ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo thực tế đang có có việc
làm và những người thất nghiệp.
Theo giáo trình Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội (2005), ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: "Lực lượng
lao động là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất
nghiệp” [5, tr.168]. Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng
nghĩa với dân số hoạt động kinh tế (tích cực) và nó phản ánh khả năng thực tế
về cung ứng lao động của xã hội.
- Thị trường lao động
Nước ta từ khi chuyển sang vận hành theo nền kinh tế thị trường, thì

13
thuật ngữ “Thị trường lao động” đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và đưa
ra những khái niệm khác nhau. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh vào một phương
diện nào đó của thị trường này.
Đề tài cấp nước KX 04-04 cho rằng: Thị trường lao động là toàn bộ các
quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (bao gồm
các mối quan hệ lao động cơ bản như: tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội,
tranh chấp lao động ) ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là
người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động.
Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ (2003-2004), Thị trường lao động
Việt Nam thực trạng và giải pháp, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, đưa ra khái niệm:
Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường,
trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự

do và một bên là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi
này được thoả thuận trên cơ sở các mối quan hệ lao động như tiền
công, tiền lương, điều kiện việc làm, bảo hiểm xã hội thông qua
một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng [53, tr.5].
Giáo trình của Khoa kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân Hà Nội cũng đưa ra một số khái niệm về thị trường lao động như sau:
Là một không gian trao đổi tiến tới thoả thuận giữa người sở hữu sức
lao động và người cần có sức lao động để sử dụng.
Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc làm để
có thu nhập và người sử dụng lao động để thuê được công nhân bằng cách trả
công để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn
lao động [5].
Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Hiển (1995), trong tác phẩm Thị trường
lao động thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội: "Thị
trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực

14
thuê mướn lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những
người làm thuê và đang sử dụng sức lao động của mình để được nhận một
khoảng tiền công” [34, tr.9].
Theo ILO: Thị Trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao
động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc
làm của lao động cũng như mức độ tiền lương và tiền công.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều
thống nhất với nhau về nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao động
đó là: Không gian, người cần bán sức lao động, người cần mua sức lao động,
giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về nội dung này, và
cũng từ những quan điểm đó, thị trường lao động được hiểu là: Biểu hiện
quan hệ lao động diễn ra giữa một bên là người lao động và một bên là người

sử dụng lao động, dựa trên nguyên tắc thoả thuận, thông qua các hợp đồng lao
động.
Các yếu tố cấu thành thị trường lao động có thể khái quát thành 4 nhóm
gồm: Cung lao động; cầu lao động; giá cả sức lao động (tiền lương, tiền
công); thể chế; tổ chức và hệ thống công cụ của thị trường lao động.
+ Cung về lao động: Là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những
người trong và ngoài độ tuổi lao động.
Số lượng cung lao động có thể xem xét 2 khía cạnh.
Cung thực tế lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao
động đang làm việc và những người thất nghiệp, cung thực tế về lao động
chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
Cung tiềm năng về lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ
tuổi lao động và những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình
mình hoặc không có nhu cầu làm việc.
+ Cầu về lao động: Là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao
động với các mức tiền lương, tiền công tương ứng.

15
Cầu cũng như cung, cầu về lao động cũng phải được xem xét trên hai
khía cạnh: Cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Cầu thực tế về lao động: “Là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại
một thời điểm nhất định” [53, tr.8].
Cầu thực tế về lao động = Chỗ việc làm cũ được duy trì + Chỗ việc
làm bị bị trống + Chỗ việc làm mới
Chỗ làm việc trống: Là chỗ làm việc đã từng sử dụng lao động, nay
không có lao động làm việc và đang có nhu cầu sử dụng lao động.
Chỗ làm việc mới: Là chỗ làm việc mới xuất hiện và đang có nhu cầu
sử dụng lao động.
Cầu tiềm năng lao động: “Là số lao động tương ứng với tổng số chỗ việc

làm có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm trong
tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, chính trị, xã hội” [53, tr.8].
Cầu tiềm năng = cầu thực tế + số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
+ Quan hệ cung, cầu lao động:
Thể hiện trên 3 trạng thái: Trạng thái cân bằng cung - cầu lao động,
trạng thái rối loạn cân bằng cung cầu lao động và trạng thái cân bằng mới.
Trong thị trường sức lao động quy luật cầu - cung thể hiện khá rõ. Nếu mức
tiền công quá cao (xem sơ đồ 1.2) U
1
P
1
thì có hiện tượng cung lao động lớn
hơn về cầu lao động. Nghĩa là số người muốn đi làm việc sẽ lớn hơn số người
tìm được việc làm ở mức tiền công này.
Đoạn D
1
S
1
là số người bị thất nghiệp trên thị trường lao động. Ngược
lại, khi mức tiền công thấp U
2
P
2
thì khả năng thu hút lao động sẽ lớn hơn và
xuất hiện cầu về lao động lớn hơn cung, đoạn S
2
D
2
là sự thiếu hụt về lao
động. Như vậy, theo quy luật của thị trường lao động thì giá cả tiền công luôn

có xu hướng trở về U
0
P
0
để cung và cầu về lao động được cân bằng.
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ cầu cung về lao động
UP
S
L
D
1
S
1

16

U
1
P
1



U
0
P
0

U
2

P
2



Trong đó: OL: là số chỗ làm việc OUP: Tiền công
S
L
: Cung lao động D
L
: Cầu lao động
Cầu, cung lao động là hai vế của thị trường lao động, sử dụng nguồn
lao động có hiệu quả, hoặc tận dụng nguồn lao động chỉ có thể đạt được khi
cân bằng cung - cầu lao động được duy trì ở một mức độ nhất định. Mỗi vế
cầu cung lao động luôn luôn biến đổi theo những nguyên nhân riêng của
chúng và do tác động tương hỗ giữa chúng.
Trong các biện pháp tác động tới tương quan cầu - cung lao động thì
tiền công có tác động mạnh và trực tiếp nhất.
Sơ đồ 1.2 dưới đây thể hiện các thành phần chủ yếu của tương quan cầu
- cung lao động và các nhân tố tác động tới tương quan cầu - cung lao động.
Sơ đồ 1.3: Tƣơng quan cầu cung lao động và các nhân tố tác động






Đặc điểm nhân khẩu học
của nguồn lao động (dân
số, cơ cấu giới, tuổi, tỡnh

trạng sức khoẻ, biến động
tự nhiên, cơ học dân số và
nguồn lao động)
Đặc điểm chất
lượng nguồn
lao động (văn
hoá, chuyên
môn, KT…)
Cỏc ch ớnh sỏch (dõn
số, y tế, giỏo dục, di
dõn, kế
hoạch hoỏ gia
đỡnh….)
Hệ thống đũn b ẩy kinh tế
kớch thớch lao động
(tiền lương, thuế, giá….)
0
L

17











- Năng suất lao động:
Năng suất lao động là “Sức sản xuất của lao động cụ thể có ích” [37, tr.104].
Nói lên kết quả hoạt động của con người trong một đơn vị thời gian nhất định.
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian; hoặc bằng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm [38, tr.22].
Từ định nghĩa năng xuất lao động của C.Mác, mức năng suất lao động
được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian lao động.
Công thức tính:
T
Q
W 

Trong đó:
W: Là số lượng sẩn phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
hay là năng xuất lao động.
Q: Là khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian nhất định.
T: Là tổng thời gian hao phí để sản xuất ra Q sản phẩm
W thường được biểu diễn dưới dạng chỉ tiêu kép: Hiện vật, thời gian
hay giá trị thời gian.
Tương quan cầu – cung lao động
Sự phát triển kinh tế kéo theo sự phân công sử dụng
nguồn lao động
Theo
ngành
kinh tế
Theo
vựng
lónh thổ
Theo

thành
phần kinh
tế
Theo
dạng
việc
làm
Luật lệ, quy chế lao
động
Bảo trợ xó hội đối với
ng ười lao động
Giáo dục hướng nghiệp, đào
tạo lại chuyên môn, kỷ luật
Điều kiện lao động

18
Các khái niệm dân số, dân số hoạt động kinh tế, nguồn lao động, lực
lượng lao động, năng xuất lao động liên quan trực tiếp tới hoạt động giải
quyết việc làm, trên cơ sở thống nhất những khái niệm này, đó là các chuẩn
mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh giá và thông tin về tình trạng đủ việc
làm, thiếu việc làm, thất nghiệp. Từ đó, chúng ta có thể đưa ra các chính sách,
tìm các giải pháp tác động làm giảm thất nghiệp, thiếu việc làm, hơn nữa hệ
thống khái niệm này là cơ sở để xác định chuẩn xác mức độ có thể về tỷ lệ
người có việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp.
* Khái niệm về việc làm:
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc
làm là công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của bản thân
và gia đình người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ. Sự tồn tại
và phát triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách
giải quyết việc làm. Với tầm quan trọng như vậy, việc làm được nghiên cứu

dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế, xã hội học, lịch sử Khi nghiên
cứu dưới góc độ lịch sử thì việc làm liên quan đến phương thức lao động kiếm
sống của con người và xã hội loài người. Các nhà kinh tế coi sức lao động
thông qua quá trình thực hiện việc làm của người lao động là yếu tố quan
trọng của đầu vào sản xuất và xem xét vấn đề thu nhập của người lao động từ
việc làm.
Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu
bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận,
trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành
phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp
Ngày nay các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn
và khoa học hơn, đó là các hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập, mà

19
không bị pháp luật cấm. Điều 13, chương II Bộ Luật lao động Nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [44, tr.42].
Theo quan niệm trên, việc làm là các hoạt động lao động được hiểu như sau:
Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật cho
công việc đó.
Làm những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả
công bằng hiện vật.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai
điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và các thành viên trong gia đình.
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị
pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.

Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm, quan niệm đó đã góp phần mở
rộng quan niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen
chân vào trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan
điểm của Bộ Luật lao động đã nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
* Khái niệm giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc
làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng
đồng và xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai khai thác triệt để tiềm năng
của một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả.
Chính vì vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối

20
với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ
của mình. Trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi
sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và
chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kỹ
thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu
sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động
phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động
và sự di chuyển của lao động, chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển
của giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng,
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu
quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu
quả của việc làm.
Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động

gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết
việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao
động và vai trò của nhà nước.
Vì vậy “giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh
tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm”
[33, tr.18].
*Thiếu việc làm:
Theo ILO người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số
giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu
cầu thêm việc làm.
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì cho rằng:
Người thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới
mức lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm. TS. Trần Thị Thu đưa ra khái

21
niệm “Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình
là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn” [54,
tr.17].
Từ khái niệm người thiếu việc làm trên có thể hiểu như sau: Người
thiếu việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không
hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để
bổ xung thu nhập.
ILO cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm người thiếu việc
làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) và dạng người thiếu việc làm vô hình
(khó xác định).
Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao
động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm
kiếm thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.
Tình trạng việc làm hữu hình được biểu thị bởi hàm số sử dụng thời

gian lao động như sau:
K =
Số giờ làm việc thực tế
x 100%
Số giờ quy định
(Tính theo ngày, tháng, năm)
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời
gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao
động thấp không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi,
tổ chức lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu
nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
Nguyên nhân thiếu việc làm:
Do nền kinh tế chậm phát triển, diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người thấp và giảm dần do đô thị hoá.

22
Do lực lượng lao động tăng quá nhanh, trong khi đó số chỗ làm việc
mới tạo ra quá ít, do trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của người lao
động còn thấp kém.
Do tính chất thời vụ, thời tiết khí hậu, do chính sách đầu tư chưa hợp
lý, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được v.v.
* Thất nghiệp:
Theo khái niệm của tổ chức lao động Quốc Tế (ILO), thất nghiệp (Theo
nghĩa chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động
muốn có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động, không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm [7, tr.177].
Cũng có quan điểm cho rằng: Thất nghiệp là hiện tượng gồm những
phần mất thu nhập, do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn

trong độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc và đã đăng ký ở
cơ quan mô giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy, những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao động
hay dân số hoạt động kinh tế. Một người thất nghiệp phải có 3 tiêu chuẩn:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện đang chưa có việc làm
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng
chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để
xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có
muốn đi làm hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề
nghiệp song không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự
trữ” như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ.
* Phân loại thất nghiệp.
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:

23
Thất nghiệp tự nhiên: Là loại thất nghiệp khi có một tỷ lệ nhất định số
lao động ở trong tình trạng không có việc làm
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của ngành lao động giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc
giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối
giữa cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị
tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh
doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết các nhà sản xuất giảm sản
lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất
nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích tăng cầu thường mang
lại kết quả tích cực.

- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh
con) thất nghiệp loại này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công
nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế
suy thoái, cung lớn hơn cầu về lao động.
Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không tự
nguyện) còn tồn tại thất nghiệp trá hình:
Thất nghiệp trá hình: Là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được
sử dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm
việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp.
Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ).
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào
đó trong tổng số lực lượng lao động.

24
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng thất nghiệp xảy ra
thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi ).
Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở một
ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên, người ta có thể chia thất nghiệp
theo dân tộc, chủng tộc, tôn giáo
1.1.2. Vai trò của giải quyết việc làm cho ngƣời lao động đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì, con người là mục tiêu, động lực
của sự phát triển kinh tế và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế - xã hội.

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Bất kỳ một quá trình sản xuất nào
cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố cơ bản đó là sức lao động, tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Đó là những yếu tố vật chất cho quá trình lao
động diễn ra. Thực vậy, tư liệu sản xuất tự nó không thể tạo ra các sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu cần thiết của con người và xã hội, nếu như không có sự
kết hợp của sức lao động.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu vai trò của sản xuất xã hội và
các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất đã cho rằng: Sản xuất ra của
cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội loài người và là hoạt động cơ bản
nhất trong tất cả các hoạt động của con người.
Ngày nay, con người với trình độ khoa học - công nghệ cao là một
thành tố quan trọng của lực lượng sản xuất cũng như trong công cuộc xây
dựng đổi mới đất nước. Các chính sách của Đảng và Nhà nước ta là chăm sóc,
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa là
mục tiêu chung của cách mạng. Đảng ta coi việc phát huy nhân tố con người
như là một nguồn lực quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Đây chính là nguồn tài nguyên vô giá, nguồn nội lực dồi

25
dào cần được chăm sóc để phát triển. Đầu tư vào con người và phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững.
- Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là
yếu tố khách quan của người lao động. Con người tồn tại phải được tiêu dùng
một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định như: Thức ăn, đồ mặc, nhà ở, học tập,
phương tiện đi lại Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản
xuất với quy mô ngày càng mở rộng. Như vậy, để tồn tại và phát triển con
người bằng sức lao động của mình, là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực
lượng sản xuất cơ bản nhất tạo ra giá trị hàng hoá dịch vụ.
Sự phát triển kinh tế - xã hội, suy cho cùng, là nhằm mục tiêu phục vụ
con người làm cho cuộc sống mỗi người ngày càng tốt đẹp hơn, xã hội ngày

càng văn minh hơn.
Từ lý luận và thực tiễn đã chứng minh có ba điều kiện cơ bản nhất để
phát triển con người là: phải đảm bảo an toàn lương thực, an toàn việc làm và
an toàn môi trường.
- Giải quyết việc làm là cơ sở để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội góp
phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, giải quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của cơ
quan trực tiếp quan hệ đến lao động, việc làm mà còn là trách nhiệm của tất
cả các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và cả bản thân
người lao động. Điều 13, Bộ Luật lao động Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã nêu rõ: “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả
năng lao động đều có việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh
nghiệp và của toàn xã hội” [43, tr.42].
- Nước ta đến nay vẫn còn 62 triệu người sống ở nông thôn, trong đó độ
tuổi lao động là 43,26 triệu người chiếm 75,18% lực lượng lao động, nguồn
thu nhập chính là nông nghiệp. Đặc điểm của lao động nông thôn là tăng

×