Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Báo cáo "Một số vấn đề cần giải quyết khi Việt Nam gia nhập công ước Lahaye năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.51 KB, 3 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003 5



ThS. Nguyễn Hồng Bắc *
gày 29/5/1993 đại diện 67 quốc gia, trong
đó có Việt Nam tham gia khoá họp lần
thứ 17 Hội nghị Lahaye về t pháp quốc tế đ
nhất trí thông qua Công ớc Lahaye năm 1993
về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi
con nuôi giữa các nớc (Công ớc Lahaye
1993). Đây là công ớc đầu tiên mang tính phổ
cập và quan trọng nhất từ trớc đến nay trong
lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Công ớc đợc
cộng đồng quốc tế và các quốc gia đánh giá
cao. Cho đến nay đ có 50 nớc trở thành
thành viên của Công ớc (trong đó có nhiều
quốc gia châu á và Đông nam á nh Pêru,
Trung Quốc, Philíppin )
ở Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, chính sách cho ngời nớc
ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi,
việc Nhà nớc ta gia nhập Công ớc là hết sức
cần thiết. Bởi vì, trong những năm gần đây,
nhu cầu ngời nớc ngoài xin nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi ngày càng tăng lên. Hàng
năm, có hàng ngàn trẻ em Việt Nam thuộc
diện bị bỏ rơi, bị mồ côi, tàn tật đợc cơ quan


có thẩm quyền cho làm con nuôi ngời nớc
ngoài. Trong số ngời nớc ngoài nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi nhiều nhất là công dân
Pháp (chiếm 36%), sau đó là Bỉ, Hoa Kì, Đan
Mạch, Thuỵ Sĩ Trớc tình hình đó, cơ chế
hợp tác quốc tế song phơng đ đợc thực
hiện. Đợc phép của Thủ tớng Chính phủ, Bộ
t pháp đ phối hợp với các cơ quan hữu quan
nh Bộ ngoại giao, Bộ công an, Bộ lao động -
thơng binh và x hội, Uỷ ban chăm sóc và
bảo vệ trẻ em Việt Nam, Văn phòng Chủ tịch
nớc, Văn phòng Chính phủ đ soạn thảo Hiệp
định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam
và Cộng hoà Pháp. Sau hai vòng đàm phán,
ngày 01/02/2000 tại Hà Nội, Việt Nam và
Cộng hoà Pháp đ kí hiệp định. Hiệp định này
có hiệu lực từ ngày 01/11/2000. Nh vậy, cho
đến nay, nớc ta mới chỉ kí kết hiệp định về
nuôi con nuôi với Pháp. Theo Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nớc ngoài, về
nguyên tắc, Việt Nam chỉ giải quyết cho trẻ
em Việt Nam làm con nuôi ở các nớc đ kí
kết hoặc tham gia điều ớc quốc tế về hợp tác
nuôi con nuôi với Việt Nam. Còn đối với các
nớc cha kí kết hoặc cha tham gia điều ớc
quốc tế với Việt Nam thì chỉ giải quyết cho trẻ
em làm con nuôi trong một số trờng hợp.

Để tạo điều kiện cho ngời nớc ngoài
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi sau khi
Nghị định số 68/CP có hiệu lực (ngày
2/1/2003), ngoài việc mở rộng kí kết hiệp định
hợp tác nuôi con nuôi với các nớc, Nhà nớc
ta cần sớm gia nhập Công ớc Lahaye năm
1993 vì:
- So với các nớc trong khu vực thì Việt
Nam là nớc có nhiều trẻ em làm con nuôi
ngời nớc ngoài, bởi vậy, việc tham gia Công
ớc sẽ tạo cơ sở pháp lí trong việc bảo vệ
N

* Giảng viên chính Khoa luật quốc tế
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
6
Tạp chí luật học số tháng 3/2003

quyền lợi của trẻ em, đặc biệt là vấn đề bảo vệ
trẻ em Việt Nam sau khi đ đợc giải quyết
cho làm con nuôi ngời nớc ngoài.
- Việc gia nhập Công ớc tạo điều kiện cho
chúng ta có cơ chế hợp tác quốc tế rộng lớn với
các nớc trong lĩnh vực nuôi con nuôi, khắc
phục đợc hạn chế của hiệp định nuôi con nuôi
chỉ điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi phát sinh
giữa công dân hai nớc kí kết nhng thực tế

quan hệ nuôi con nuôi thờng phát sinh giữa
công dân nớc ta với công dân các nớc cha
kí Hiệp định. Đồng thời, việc gia nhập Công
ớc Lahaye 1993 tiết kiệm đợc chi phí đáng
kể cho việc đàm phán, kí kết Hiệp định hợp tác
nuôi con nuôi với từng nớc.
- Thông qua việc tham gia và triển khai
thực hiện các quy định của Công ớc, Việt
Nam sẽ thành lập cơ quan trung ơng về nhận
con nuôi quốc tế. Cơ quan này sẽ có đủ thẩm
quyền và khả năng làm đầu mối phối kết hợp
hoạt động của các cơ quan hữu quan trong
nớc trong việc giải quyết cho trẻ em làm con
nuôi, uốn nắn và xử lí kịp thời những vớng
mắc, tiêu cực phát sinh.
- Thông qua việc tham gia và triển khai
thực hiện Công ớc, Việt Nam sẽ xây dựng cơ
chế giải quyết việc cho và nhận nuôi con nuôi
chặt chẽ, minh bạch vì lợi ích tốt nhất của đứa
trẻ. Ngời nớc ngoài sẽ không trực tiếp đến
Việt Nam để tìm kiếm trẻ em mà hồ sơ nhận
con nuôi sẽ đợc cơ quan trung ơng của nớc
nhận trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đợc
uỷ quyền chuyển đến cơ quan trung ơng của
Việt Nam, sau đó cơ quan trung ơng của Việt
Nam làm đầu mối giải quyết, xử lí hồ sơ trong
nội bộ. Ngời nớc ngoài chỉ có mặt tại Việt
Nam khi nào thủ tục đ hoàn tất. Quy trình này
sẽ hạn chế những kẽ hở mà một số cá nhân có
thể lợi dụng để trục lợi.

- Việc tham gia Công ớc Lahaye 1993
của Việt Nam làm cho cộng đồng quốc tế sẽ
hiểu rõ hơn thiện chí của Nhà nớc Việt Nam
trong việc bảo đảm các quyền con ngời nói
chung và quyền trẻ em nói riêng, qua đó sẽ
tăng cờng hỗ trợ về kĩ thuật, trang thiết bị, cơ
sở vật chất cho công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ
em, góp phần giảm bớt tình trạng trẻ em có
hoàn cảnh bất hạnh.
- Việc tham gia Công ớc Lahaye 1993
không triệt tiêu khả năng kí kết các hiệp định
song phơng (Điều 39 Công ớc) mà trái lại
chính là cơ sở pháp lí quan trọng trong việc
đàm phán, kí kết các điều ớc quốc tế song
phơng về nhận con nuôi, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng Công ớc trong
quan hệ giữa Việt Nam với các nớc thành
viên Công ớc.
- Việc tham gia Công ớc có ý nghĩa quốc
tế lớn, đánh dấu bớc phát triển của Việt Nam
vào quá trình thống nhất hoá các quy phạm t
pháp quốc tế. Việc tham gia Công ớc là dịp
tốt để Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng quốc
tế trong lĩnh vực t pháp quốc tế - lĩnh vực còn
mới mẻ nhng ngày càng trở nên quan trọng
đối với nớc ta trong thời kì mở cửa hiện nay.
Nh vậy, việc Việt Nam gia nhập Công
ớc Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực nhận con nuôi giữa các nớc là
đòi hỏi tất yếu để giải quyết tốt vấn đề nhận

con nuôi quốc tế ở Việt Nam đồng thời bảo vệ
quyền lợi trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
nớc ngoài.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu những nội
dung cơ bản của Công ớc có thể nhận thấy
một số quy định của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực nhận con nuôi cha phù hợp
với Công ớc. Bên cạnh đó, Điều 40 Công ớc
quy định không chấp nhận việc đa ra bảo lu
đối với Công ớc. Vì vậy, đây là vấn đề chúng
ta phải đặc biệt quan tâm giải quyết khi gia
nhập Công ớc.
Để gia nhập Công ớc, Việt Nam cần phải
giải quyết các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, theo quy định của Công ớc,


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003 7

mỗi nớc kí kết chỉ định một cơ quan trung
ơng để thực hiện nghĩa vụ Công ớc quy
định. Trong khi đó ở Việt Nam hiện nay cha
có cơ quan trung ơng có chức năng là đầu
mối quản lí việc nhận con nuôi quốc tế và thực
hiện nghĩa vụ theo quy định của Công ớc. Tại
phiên họp Chính phủ thờng kì tháng 3/2002,
Thủ tớng Phan Văn Khải đ có ý kiến kết
luận đồng ý thành lập cơ quan con nuôi quốc
tế của Việt Nam thuộc Bộ t pháp và giao

nhiệm vụ cho Bộ t pháp chủ trì, phối hợp với
Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ và các bộ,
ngành hữu quan khẩn trơng xây dựng đề án
thành lập cơ quan con nuôi quốc tế, trình Thủ
tớng Chính phủ xem xét, quyết định. Hiện
nay, Bộ t pháp đang xây dựng đề án và hoàn
thiện trong thời gian tới.
Thứ hai, Công ớc Lahaye 1993 quy định:
Ngời mẹ chỉ có thể đồng ý cho trẻ làm con
nuôi sau khi đứa trẻ ra đời. Quy định này cũng
đợc ghi nhận trong pháp luật của hầu hết các
nớc. Nhng ở Việt Nam, vấn đề này cha
đợc quy định, điều này gây khó khăn, lúng
túng cho các nhà chức trách Việt Nam trong
quá trình thực hiện thủ tục nuôi con nuôi giữa
các nớc. Để gia nhập Công ớc, Việt Nam
cần quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ ba, về thời gian thử thách. Công ớc
Lahaye 1993 quy định: Trong thời gian thử
thách, nếu cơ quan trung ơng của nớc nhận
cho rằng nếu để cho cha mẹ nuôi tơng lai tiếp
tục chăm sóc trẻ không còn đáp ứng một cách
tốt nhất lợi ích của trẻ thì cơ quan này sẽ đa
trẻ ra khỏi gia đình cha mẹ nuôi tơng lai và
giao trẻ cho một gia đình khác chăm sóc (có sự
tham khảo ý kiến của cơ quan trung ơng nớc
gốc) hoặc thu xếp cho trẻ vào cơ sở nuôi dỡng
khác, trong trờng hợp cần thiết thì cơ quan
này có thể cho trẻ hồi hơng. Trong khi đó,
pháp luật Việt Nam không quy định về thời

gian thử thách và vì vậy cũng không có cơ
quan nào trực tiếp phụ trách giải quyết đối với
những trờng hợp các em đợc gửi trả lại. Đây
là vấn đề Việt Nam cần quan tâm giải quyết
khi tham gia Công ớc.
Thứ t, về mối quan hệ giữa trẻ đ đợc
cho làm con nuôi và cha mẹ đẻ. Công ớc quy
định: Việc công nhận nhận con nuôi bao gồm
việc công nhận sự cắt đứt mối liên hệ tồn tại
trớc đó giữa trẻ đ đợc cho làm con nuôi và
cha mẹ đẻ nếu việc nhận con nuôi này có hậu
quả nh vậy tại nớc nơi thực hiện việc nhận
con nuôi đó. Theo quy định này, giữa cha mẹ
đẻ và trẻ không còn bất cứ một mối quan hệ
pháp lí nào. Nhng theo pháp luật Việt Nam,
việc nhận con nuôi không làm cắt đứt mối
quan hệ nhân thân và tài sản giữa cha mẹ đẻ và
trẻ đ đợc cho làm con nuôi. Đứa trẻ đ đợc
cho làm con nuôi vẫn có quyền thừa kế tài sản
của cha mẹ đẻ và ngợc lại, cha mẹ đẻ vẫn có
quyền thừa kế tài sản của ngời con đ cho
làm con nuôi. Đồng thời Luật quốc tịch Việt
Nam quy định, trẻ em Việt Nam làm con nuôi
ngời nớc ngoài vẫn giữ quốc tịch Việt Nam,
trẻ em nớc ngoài đợc công dân Việt Nam
nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt nam
kể từ khi việc nuôi con nuôi đợc cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam công nhận. Nh
vậy, theo pháp luật Việt Nam, việc nhận con
nuôi làm phát sinh sự tồn tại song song hai mối

quan hệ: Mối quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ
đẻ và mối quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ nuôi.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quy định
của pháp luật Việt Nam và quy định của Công
ớc. Khi gia nhập Công ớc, Việt Nam cũng
phải đặc biệt lu ý về vấn đề này.
Trong những năm qua, cùng với sự phát
triển của đời sống kinh tế x hội cũng nh sự
mở rộng các mối quan hệ hợp tác trên nhiều
lĩnh vực giữa Việt Nam với các quốc gia trên
thế giới, các quan hệ nuôi con nuôi giữa
công dân Việt Nam và ngời nớc ngoài,
(Xem tiếp trang 25)

×