Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Thực trạng kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Cty cổ phần thuốc thú y TWi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.26 KB, 85 trang )

Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.1 Cạnh tranh và tính tất yếu phải nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh và khả năng.
1.1.1.1 Cạnh tranh
Cạnh tranh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh là
động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai
hoàn thiện hơn, ai thoả mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn người đó sẽ
thắng, tồn tại, và phát triển
Cạnh tranh là một đặc tính cơ bản của thị trường, sẽ không có kinh tế thị
trường không có cạnh tranh. Khái niệm cạnh tranh đã được trình bày bởi rất
nhiều tác giả. Theo kinh tế học thì cạnh tranh ( competion) là sự tranh giành
thị trường ( khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm. Như vậy đã là kinh tế thị
trường thì đương nhiên có cạnh tranh và cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành
khách hàng ( thị phần) thì chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường.
Xét từ góc độ tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh trong cơ chế thị trường có thể
được hiểu là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm
giành giật các lợi ích kinh tế về mình. Các chủ thể ở đây chính là bên bán và
bên mua. Bên mua muốn mua được hàng hoá có chất lượng cao, giá cả lại
hợp lý. Ngược lại, bên bán bao giờ cũng hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận bằng việc bán được nhiều hàng với giá bán cao nhất có thể. Vì vậy các
bên bán cạnh tranh nhau để tối đa hoá lợi ích của mình .
Xét ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được đề cập
như sau: “ Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu nghạch”.
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
1


Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Vì cạnh tranh là một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và để
đạt được mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp tham gia thị trường phải thông
qua cạnh tranh với nhau nên từ lâu vấn đề cạnh tranh đã là một trong những
nội dung quan trọng của các môn khoa học về kinh tế và là đối tượng điều
chỉnh của pháp luật. Thế kỷ XIII Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại
Anh trong tác phẩm “ của cải của các dân tộc” (1776) đã thuyết minh vai trò
quan trọng của cạnh tranh tự do trong bối cảnh nền kinh tế thị trường TBCN
đang ở giai đoạn hình thành, bị rất nhiều ràng buộc bởi những thiết chế phi tự
do của nhà nước phong kiến. Theo Adam Smith, trật tự thị trường theo
nguyên lý “ bàn tay vô hình” sẽ điều hoà các hoạt động kinh tế có hiệu quả.
“Độc quyền là kẻ thù lớn đối với quản lý tốt, mà quản lý tốt không thể có
được trừ khi có sự cạnh tranh tự do và rộng khắp, nó buộc những nhà sản xuất
phải biết đấu tranh để bảo vệ lợi ích của chính họ”. Kết luận ấy tất yếu đưa
ông đến chỗ là một trong những người cổ vũ nhiệt thành nhất cho cơ chế kinh
tế tự do và phản đối lại tình trạng độc quyền cũng như sự can thiệp quá mức
của chính phủ.
Xét theo phạm vi nghành kinh tế, cạnh tranh trên thị trường giữa các doanh
nghiệp được phân chia thành hai loại: Cạnh tranh giữa các nghành kinh tế và
cạnh tranh trong nội bộ ngành. Để giành lợi thế trên thị trường thì các doanh
nghiệp phải nắm vững các loại cạnh tranh này để xác định đúng đối thủ cạnh
tranh, từ đó lựa chọn chính xác vũ khí cạnh tranh phù hợp với điều kiện và
đặc điểm của mình. Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc đấu tranh giữa các nhà
doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong những ngành kinh tế
khác nhay nhằm thu lợi nhuận trên vốn đầu tư vào ngành có lợi nhuận nhất
cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành khiến các nhà đầu tư tìm kiếm
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao nhất dẫn đến dòng chảy vốn đầu tư di
chuyển từ ngành có khả năng sinh lợi thấp sang ngành có khả năng sinh lời
cao hơn. Sau một thời gian nhất định, sự chuyển dịch tự nhiên theo sức hút
của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý

Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
2
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là doanh nghiêp đầu tư ở
các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất và tiêu thụ một loại loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh
trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với
hàng hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó.
Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp sẽ thôn tính lẫn nhau nhằm
chiếm thị phần. Những doanh nghiệp sẽ thôn tính lẫn nhau nhằm chiếm thị
phần. Những doanh nghiệp thành công sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của
mình trên thị trường, những doanh nghiệp thất bại sẽ phải thu hẹp qui mô sản
xuất, thậm chí là phá sản doanh nghiệp.
Tóm lại cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua của các chủ thể
kinh tế trong một thị trường hàng hoá, sản phẩm cụ thể bằng sử dụng các biện
pháp giảm chi phí, tăng chất lượng, quảng cáo … để đạt được các mục tiêu
kinh tế cuả mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng
cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất nhằm nâng cao vị thế
của mình trên thị trường, thu được lợi ích nhiều nhất cho các chủ thể kinh tế.
Cạnh tranh được coi là động lực của quá trình phát triển.
1.1.1.2 Khả năng cạnh tranh
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển được trên thị trường là nhờ nó có khả
năng cạnh tranh cao. Hiện nay có khá nhiều quan niệm khác nhau về khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh được hiểu theo một
số quan điểm sau của các nhà nghiên cứu kinh tế:
Theo Fatchams: “ Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của
doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình
(AVC) thấp hơn giá của nó trên thị trường”. Như vậy nếu một doanh nghiệp
có khả năng sản xuất ra sản phẩm tương đồng có chất lượng tương tự sản

phẩm của doanh nghiệp khác nhưng có chi phí thấp hơn thì được coi là có sức
cạnh tranh cao hơn.
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
3
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Theo Randall cho rằng: “ khả năng cạnh tranh là khả năng giành giật thị
trường và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định”.
Theo Dauning cho rằng: “ Khả năng cạnh tranh là khả năng cung cấp sản
phẩm của chính doanh nghiệp trên thị trường khác nhau mà không phân biệt
nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó”.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh
tranh, đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho
việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đề ra.
Trên thị trường một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn các đối thủ
khác thì nó sẽ vượt lên. Duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp là quá trình
lâu dài, liên tục. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo
khả năng duy trì lâu dài sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nói đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp thì phải nói đến ưu thế cạnh tranh của nó, đó là
đặc tính các thông số mà doanh nghiệp có được sự vượt trội so với đối thủ
cạnh tranh. Ưu thế về về cạnh tranh của doanh nghiệp có thể tập hợp làm hai
nhóm cơ bản là: Ưu thế về chi phí và ưu thế về sự khác biệt hoá sản phẩm.
Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng ( bên trong tự
thân) cho phép doanh nghiệp tồn tại, duy trì và gia tăng lợi nhuận, thị phần
trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
thông qua hình thức cạnh tranh lành mạnh.
Cũng lưu ý rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là khả năng nội tại của doanh nghiệp trong việc giành ưu thế và chi
phí, giá cả, chất lượng, số lượng, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ của doanh

nghiệp theo yêu cầu thị trường là cái vốn có của doanh nghiệplàm cho doanh
nghiệp có sức mạnh như nhau trong mọi trường hợp. Còn sức cạnh tranh của
doanh nghiệp là thuật ngữ chỉ sự biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp ở một thời điểm nào đó, ở một thị trường nào đó…Khi các vế so sánh
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
4
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
thay đổi thì sức cạnh tranh của doanh nghiệp thay đổi, nhưng năng lực cạnh
tranh tự tại trong doanh nghiệp không thay đổi. Nói cách khác, sức cạnh tranh
là phạm trù tương đối, còn năng lực cạnh tranh là phạm trù tuyệt đối. Trong
thực tiễn cũng như trong phân tích, người ta có thể đo năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp qua biểu biểu hiện của nó là sức cạnh tranh.
1.1.2 Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường và hội nhập WTO
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh là động lực làm cho nền kinh tế trở nên lành mạnh và ngày càng
phát triển. Nó điều chỉnh nguồn lực của đất nước từ những ngành kém hiệu
quả sang những ngành hiệu quả hơn, là điều kiện quan trọng để phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất
xã hội.
Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của
mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh xoá bỏ độc
quyền, sự bất bình đẳng trong kinh doanh.
1.1.2.2 Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh tạo ra một sức mạnh vươn lên mạnh mẽ của các nhà sản xuất.
Muốn tồn tại họ phải tìm kiếm những biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu
qủa sản xuất kinh doanh tạo ra các loại sản phẩm có chi phí thấp nhưng chất
lượng ngày càng cao, kích thích sức mua, thoả mãn tốt nhu cầu đa dạng của
khách hàng, chiếm lĩnh và mở rộng thị phần, thu được lợi nhuận cao.
Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tác động đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của

doanh nghiệp.
Cạnh tranh quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường thông qua khả
năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp so với đối thủ. Kết quả của sự
cạnh tranh là yếu tố quyết định uy tín của doanh nghiệp trên thương trường
Cạnh tranh là cái nôi nuôi dưỡng và đào tạo các nhà kinh doanh giỏi
3 1.1.2. Đối với người tiêu dùng
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
5
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Cạnh tranh đem đến cho người tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ đa dạng,
chất lượng cao, giá cả hợp lý hơn thoả mãn ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn
nhu cầu đa dạng của khách hàng. Qua đó nó làm cho mức hưởng thụ của
người tiêu dùng ngày càng cao.
1.1.3 Tính tất yếu phải nâng cao khả năng cạnh tranh ở các doanh nghiệp
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, các doanh nghiệp nhà nước đều thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước, họ hầu như không được
làm chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không có quyền quyết định
những vấn đề cơ bản : sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? bao nhiêu và như thế
nào? Trên thị trường hàng hoá, dịch vụ đã được Uỷ ban kế hoạch nhà nước
quy định rõ về chủng loại và chất lượng, giá cả và địa điểm phân phối. Các
doanh nghiệp không phải lo đầu ra cho sản phẩm hàng hoá cũng như không
cần xem xét các đối thủ cạnh tranh của mình là ai. Chính vì vậy ta có thể kết
luận rằng trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung cạnh tranh không được
đề cập đến.
Bước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Các doanh nghiệp được tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình miễn là không trái pháp luật. Các doanh
nghiệp đều phải hoạt động theo những quy luật vốn có của KTTT đó là: quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…Trong đó cạnh tranh là

quy luật bề nổi của nền KTTT. Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của nền KTTT.
Có KTTT tất yếu có cạnh tranh. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ khác nhau về
tư liệu sản xuất.
Trong nền KTTT một doanh nghiệp hoạt động trong nó tất yếu sẽ bị xoáy vào
vòng xoáy của thị trường. Do đó muốn đứng vững và không bị lệch khỏi quỹ
đạo đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp không những phải cạnh tranh với các
đối thủ khác mà còn phải mở rộng thêm ảnh hưởng chiếm lĩnh thị trường,
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
6
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
tăng thị phần. Thực chất của việc tăng khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày
càng nhiều hơn các ưu thế về tất cả các mặt như giá cả, chất lượng, giá trị sử
dụng, uy tín, dịch vụ hậu mãi… Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay giữa một
bên là tác động của tiến bộ khoa học công nghệ nên nhu cầu đòi hỏi thoả mãn
người tiêu dùng ngày càng tăng lên. Sự gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO (7/11/2006) thì cánh cửa hội nhập quốc tế đã hoàn toàn mở tung, các
doanh nghiệp Việt Nam như con thuyền ra biển lớn chịu sự cạnh tranh khốc
liệt của các doanh nghiệp nước ngoài có kinh nghiệm, có tiềm lực về vốn,
công nghệ…Trước xu thế chứa đựng nhiều thời cơ cũng như đầy thách thức
đó buộc các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí và giảm
giá thành, giá bán sản phẩm, hoàn thiện hơn nữa giá trị và giá trị sử dụng của
sản phẩm, điều tra nghiên cứu thị trường để từ đó nhận biết cơ hội, nắm bắt
thời cơ để giành chiến thắng. Trước tình hình đó, việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp là một việc hết sức cần thiết và tất yếu.
1.1.4 Phân loại cạnh tranh
1.1.4.1 Căn cứ vào mức độ tính chất cạnh tranh trên thị trường
 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà trong đó có rất nhiều người
mua và nhiều người bán và không ai quyết định được số lượng hàng hoá và

giá cả trên thị trường. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán ra tất cả
sản lượng của mình ở mức giá thị trường đang thịnh hành nếu doanh nghiệp
định giá cao hơn thì sẽ không bán được bất cứ thứ gì vì người mua sẽ mua của
đối thủ khác. Vì thế doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị
trường tức là không có khả năng kiểm soát thị trường đối với sản phẩm của
mình bán. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với cung của thị trường vì
thế doanh nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến tổng sản lượng hoặc giá
trên thị trường.Trong cạnh tranh hoàn hảo không có cạnh tranh về giá. Vì vậy
nếu hoạt động trên thị trường này chính sách chung của các doanh nghiệp là
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
7
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
giảm chi phí sản xuất để tăng chi phí cận biên hoặc tăng cường dịch vụ sau
bán hàng…
 Thị trường độc quyền
Là thị thị trường chỉ có duy nhất một người ( một doanh nghiệp) tham gia và
có khả năng chi phối được giá cả hàng hoá mua bán trên thị trường. Chiến
lược marketing của doanh nghiệp là định giá cao và sản lượng sản xuất ít.
Điều đó không có nghĩa là bán bao nhiêu cũng được mà tuỳ vào đặc điểm tiêu
dùng sản phẩm và cơ chế quản lý của nhà nước mà nhà độc quyền định giá
cao hay thấp cuối cùng có thể thu được lợi nhuận tối đa. Trong thị trường
cạnh tranh độc quyền các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng cách bán ra
những sản phẩm phân biệt, các sản phẩm này có thể thay thế ở mức độ cao
nhưng không ở mức độ hoàn hảo. Vì lý do này hay lý do khác người tiêu
dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp khác với mặt hàng của các doanh
nghiệp khác. Do đó một số người tiêu dùng trả giá cao hơn cho sản phẩm
mình thích, trong ngắn hạn khó gia nhập thị trường nhưng trong dài hạn thì có
thể. Nhà sản xuất có thể quyết định giá nhưng không thể tăng giá bất kỳ, về
dài hạn thì không thể trở thành thị trường độc quyền được. Cạnh tranh độc
quyền sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo phân biệt sản

phẩm…
 Thị trường cạnh tranh- độc quyền hỗn tạp
Là thị trường ở vị trí trung gian giữa thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị
trường độc quyền. Có nhiều người tham gia cạnh tranh nhưng mỗi người đều
có sức mạnh độc quyền để kiểm soát một mức độ nào đó. Tính phụ thuộc giữa
các doanh nghiệp là lớn, hành vi của doanh nghiệp này ảnh hưởng đến hành
vi của doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp giảm giá sẽ dẫn tới tình
trạng phá giá do đó các doanh nghiệp dễ cấu kết với nhau. Vì cạnh tranh bằng
giá không có lợi nên người ta chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm, đa dạng hoá sản phẩm.
1.1.4.2 Căn cứ vào phạm vi nền kinh tế
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
8
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
 Cạnh trạnh trong nội bộ ngành
Đó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại
hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp
tìm mọi cách thôn tính lẫn nhau giành khách hàng mua hàng của doanh
nghiệp mình. Biện pháp cạnh tranh chủ yếu là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng
suất lao động, giảm chi phí lao động, tăng cường các dịch vụ trước, trong và
sau bán hàng…Kết quả là kỹ thuật sản xuất phát triển, điều kiện sản xuất
trung bình trong một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hóa được xác
định lại.
 Cạnh tranh giữa các ngành
Là sự cạnh tranh giữa các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận và
có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đầu tư nếu bỏ ra vào ngành khác. Sự
cạnh tranh này dẫn đến doanh nghiệp đang kinh doanh từ ngành có tỷ suất lợi
nhuận thấp hơn nhảy sang kinh doanh ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn, hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành
1.1.4.3 Căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường

 Cạnh tranh giữa người bán với nhau
Đây là dạng cạnh tranh mà các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để thủ tiêu,
tranh giành khách hàng và thị trường. Khi ấy giá cả sẽ giảm, dịch vụ phục vụ
khách hàng sẽ nhiều hơn, tốt hơn và người mua được lợi.
 Cạnh tranh giữa người bán với người mua
Là cạnh tranh diễn ra theo quy luật “ mua rẻ- bán đắt”. Người bán luôn muốn
bán với giá cao nhất có thể, còn người mua thì luôn muốn mua với giá thấp
nhất có thể. Kết thúc việc mua bán là sản phẩm được tiêu thụ ở mức giá cả hai
bên đều chấp nhận được.
 Cạnh tranh giữa người mua với nhau
Là cạnh tranh dựa trên cơ sở tranh mua, nó xảy ra khi có cung nhỏ hơn cầu,
hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sàng chấp nhận giá
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
9
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
cao để mua được hàng hoá mà họ cần. Và kết thúc việc mua bán là người mua
bị thiệt và người bán được lợi.
1.2 Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó chính là các
công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp.Doanh nghiệp sử dụng các công cụ
này để tác động lên khách hàng, thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách
hàng một cách tốt nhất và vượt qua đối thủ cạnh tranh giành vị thế cao trên thị
trường.
1.2.1 Sản phẩm
1.2.1.1 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Sản phẩm của doanh nghiệp nên được hiểu là một hệ thống thống nhất các
yếu tố có liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm thoả mãn đồng bộ nhu cầu của
khách hàng bao gồm sản phẩm vật chất (hiện vật), bao bì, nhãn hiệu hàng
hoá, dịch vụ, cách thức bán hàng…Như vậy sản phẩm là cái thể hiện kết quả
của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố

căn bản, đầu tiên cấu thành nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là
công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm là khả năng thoả mãn nhu cầu khách hàng. Một sản
phẩm tốt, theo khách hàng là sản phẩm có “ chất lượng vừa đủ”, một sản
phẩm có chất lượng cao tức là nó có thẻ thoả mãn nhu cầu khách hàng càng
lớn dẫn đến kích thích khách hàng mua hàng do đó làm tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Để tăng khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp luôn
áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất sản phẩm, với công nghệ tiên tiến
tham gia như một yếu tố làm cho sản phẩm ngày càng hoàn thiện và thoả mãn
tốt hơn nhu cầu khách hàng. Sản phẩm có chất lượng kém tức là không đáp
ứng được nhu cầu tiêu dùng thì sẽ không bán được, do đó sản xuất kinh doanh
đình trệ doanh nghiêpk không thể tồn tại được. Đặc biệt trong điều kiện hiện
nay khi mà thu nhập của người dân ngày càng tăng tức là nhu cầu và khả năng
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
10
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
thanh toán của khách hàng cũng tăng lên thì sự cạnh tran bằng giá cả dần
nhường chỗ cho cạnh tranh bằng chất lượng.
Để nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng chất lượng sản
phẩm ta phải làm rõ các yếu tố cấu thành sản phẩm hàng hoá. Chất lượng sản
phẩm dưới con mắt khách hàng nó là sự thoả mãn nhu cầu của họ đến mức độ
nào. Về bản chất nó đã được hình thành từ khi thiết kế sản phẩm, nó là một
chỉnh thể hoàn chỉnh chứa đựng yếu tố, đặc tính, thông tin khác nhau về một
sản phẩm hàng hoá. Do đó nghiên cứu cấu thành sản phẩm trên quan điểm
thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng người ta chia ra làm ba cấp độ sau:
Cấp độ cơ bản nhất là các yếu tố cấu thành nên sản phẩm bao gồm các thuộc
tính đặc điểm. Đây là những giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho khách
hàng. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường doanh nghiệp phải tạo dựng
được các sản phẩm có các thuộc tính này, phải thoả mãn được nhu cầu cốt
yếu của khách hàng và càng thoả mãn tốt thì sản phẩm của công ty càng có

sức cạnh tranh cao.
Thứ hai, là sản phẩm hiện thực là những yếu tố phản ánh sự có mặt thực tế
của sản phẩm hàng hoá, biểu hiện thành hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng
có thể sử dụng được. Nó là chỉ tiêu về chất lượng cụ thể bao gồm cả đặc tính
về nhãn hiệu, bao bì, mẫu mã, tính hữu dụng…Với khách hàng, họ mua sản
phẩm để thoả mãn nhu cầu của mình, tuy nhiên việc lựa chọn mua sản phẩm
nào lại dựa vào các yếu tố hiện thực của hàng hoá. Và cũng nhờ những yếu tố
này mà nhà kinh doanh khẳng định được sự hiện diện của mình trên thị
trường. Ngày nay khi mà các doanh nghiệp trong nghành đều có khả năng sản
xuất ra các sản phẩm tương tự thì các đặc tính này trở nên đặc biệt quan trọng.
Nó chính là điểm nhấn khác biệt để khách hàng biết đến nó, thích nó, và dùng
nó. Cụ thể là khách hàng thường bắt đầu từ việc có nhu cầu về sản phẩm hàng
hoá qua quá trình tìm hiểu họ tiếp cận với hình dáng,mẫu mã, nhãn hiệu sản
phẩm rồi tìm hiểu thấy sản phẩm có tính hữu dụng cao tức là càng thuận tiện,
đa năng trong sử dụng bao nhiêu thì khách hàng càng yêu thích bấy nhiêu.
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
11
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Doanh nghiệp làm được như vậy tức là đã cùng một lúc thoả mãn được rất
nhiều cấp bậc nhu cầu trong thang bậc nhu cầu của khách hàng và khả năng
của doanh nghiệp rõ ràng là khác biệt và nổi trội hơn các đối thủ của mình.
Cấp độ ba là sản phẩm bổ sung: ngày nay cạnh tranh bằng sản phẩm bổ sung
có thể nói là cách thức đúng đắn nhất đối với các doanh nghiệp đặc biệt là
doanh nghiệp thương mại. Các doanh nghiệp xem đây là một yếu tố quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, các sản phẩm bổ sung thực sự
trở thành vũ khí cạnh tranh rất mạnh. Việc tổ chức kinh doanh của doanh
nghiệp không chỉ là cung cấp các sản phẩm cụ thể hiện thực cho khách hàng
mà còn phải tạo ra sự yên tâm sử dụng cho khách hàng với việc cung cấp
thêm cho khách hàng các sản phẩm bổ sung. Đó là dịch vụ pha cắt, ghép đồng
bộ, lắp đặt, bảo hành, vận chuyển, phương thức thanh toán, các hình thức tín

dụng…Chính nhờ các dịch vụ này đã tạo ra sự đánh giá mức độ hoàn hảo về
sản phẩm trong nhận thức của khách hàng. Khi mua những lợi ích cơ bản của
một hàng hoá sản phẩm bất kỳ khách hàng nào cũng thích mua nó ở mức độ
hoàn chỉnh nhất mà những yếu tố này phụ thuộc vào những sản phẩm bổ sung
mà doanh nghiệp cung cấp cho họ.
Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, điều đó được thể hiện ở chỗ: Chất lượng
sản phẩm tăng lên nhờ đó vừa giữ vững, duy trì được khách hàng truyền
thống vừa tạo nên tiếng vang thu hút khách hàng mới dẫn đến tăng khả năng
tiêu thụ sản phẩm từ đó chiếm lĩnh nhiều thị phần hơn; nâng cao chất lượng
sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất.
1.2.1.2 Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm
Gía cả là một trong bốn tham số cơ bản của Marketing hỗn hợp. Đứng ở
những góc độ khác nhau có những quan niệm về giá khác nhau:
Đối với người bán, giá cả phản ánh khoản thu nhập mà họ mong muốn có
được do nhường quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình cho
người mua. Gía càng cao thì người bán càng có lợi
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
12
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Đối với người mua, giá phản ánh chi phí bằng tiền mà họ phải chi trả cho
người bán để có được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm, dịch vụ mà họ cần.
giá càng thấp người mua càng có lợi.
Ở góc độ doanh nghiêp, giá cả là yếu tố đáng tin cậy, nó phản ánh tình hình
biến động của thị trường thông qua giá cả doanh nghiệp có thể nắm bắt được
sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình trên thị
trường. Đối với doanh nghiệp đằng sau giá là sự biểu hiện lợi ích kinh tế được
xác định bằng tiền của doanh nghiệp. Gía cả có tác động rất lớn đến cạnh
tranh, chúng được sử dụng khi doanh nghiệp mới tham gia thị trường hoặc khi
doanh nghiệp muốn xâm nhập vào thị trường mới hoặc muốn tiêu diệt đối thủ

cạnh tranh của mình.
Đứng trên giác độ lợi ích để xem xét hành vi mua hàng của khách hàng thì
khách hàng luôn muốn mua được với giá thấp nhất có thể, luôn muốn mình có
lợi. có nghĩa là họ muốn được thoả mãn tốt hơn trong khi chi phí bỏ ra càng
thấp càng tốt. Với các hàng hoá cùng thoả mãn một nhu cầu của khách hàng
thì việc lựa chọn hàng hoá được căn cứ vào chi phí mà họ phải bỏ ra để sở
hữu nó, có nghĩa là hàng hoá nào có giá trị thấp thì sẽ được khách hàng lựa
chọn.
Gía cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thể hiện thông qua chính sách
định giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với các loại thị trường của mình
trên cơ sở kết hợp một số chính sách điều kiện khác. Một số chính sách giá
doanh nghiệp có thể sử dụng là:
 Chính sách về sự linh hoạt của giá
Chính sách linh hoạt của giá phản ánh cách thức sử dụng mức giá như thế
nào đối với các đối tượng khách hàng. Doanh nghiệp phải lựa chọn giữa chính
sách một giá hay chính sách giá linh hoạt
- Chính sách một giá là cách mà doanh nghiệp một mức giá đối với tất cả
các khách hàng mua hàng trong cùng các điều kiện cơ bản và cùng một
khối lượng. Chính sách này yêu cầu hàng được bán ra theo giá niêm yết,
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
13
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
không có mặc cả giá, cho phép có thể đảm bảo được thu nhập dự tính, duy
trì uy tín trong khách hàng, rút ngắn thời gian bán, định giá và quản lý khá
dễ dàng. Tuy nhiên có thể dẫn đến tình trạng cứng nhắc về giá, kém linh
hoạt và cạnh tranh khi đặt giá cao hơn đối thủ cạnh tranh mà không kịp
thời điều chỉnh.
- Chính sách giá linh hoạt: Là doanh nghiệp đưa ra cho khách hàng khác
nhau các mức giá khác nhau trong cùng các điều kiện cơ bản và cùng khối
lượng. Chính sách này cho phép bán hàng ở các mức giá khác nhau xoay

quanh giá niêm yết. Khách hàng được mặc cả giá.
 Chính sách về mức giá theo chu kỳ sống của sản phẩm
- Chính sách giá “ giá hớt váng”: Đưa ra mức giá cao nhất- cố gắng bán ở
mức giá cao nhất của thị trường nhằm tăng tối đa việc hớt phần ngon của
thị trương. Mức giá này thường áp dụng để chinh phục nhóm khách hàng
không nhạy cảm giá khi có sản phẩm hoàn toàn mới, độc đáo.
- Chính sách giá “ xâm nhập”: Đưa ra một mức giá thấp để có thể bán được
hàng hoá với khối lượng lớn trên thị trường.
- Chính sách giá “ giới thiệu”: Đưa ra mức giá thấp bằng cách cắt giảm giá
tạm thời để lôi kéo sự chú ý và dùng thử của khách hàng.
- Chính sách giá “ theo thị trường”: Đưa ra mức giá trên cơ sở phân tích giá
của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Chính sách giá này không chỉ căn
cứ vào mục tiêu của doanh nghiệp và phân tích khách hàng mục tiêu, mà
quyết định giá “cao” hay “ thấp” còn tuỳ thuộc vào đặc điểm cạnh tranh
trên thị trường. Mặt bằng giá thị trường sẽ dẫn đến quyết định cạnh tranh
đối đầu hay cạnh tranh bằng các yếu tố khác của marketing hỗn hợp trên
các phân đoạn khác nhau của thị trường
 Chính sách giá theo chi phí vận chuyển
Định giá dựa trên việc tính toán chi phí vận chuyển vào giá công bố một cách
linh hoạt và đúng đắn có thể tạo ra cơ hội tốt hơn cho bán hàng và cạnh tranh
của doanh nghiệp trên một số khu vực thị trường.
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
14
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
 Chính sách hạ giá và chiếu cố giá
Cơ sở để nghiên cứu chính sách hạ giá và chiếu cố giá là giá công bố của
doanh nghiệp. Nhưng khi xem xét về vấn đề này trong chuỗi lưu thông thì cơ
sở của nó là giá công bố cơ bản. Gía công bố cơ bản thường được đặt ra bởi
nhà sản xuất. Đó là mức giá mà người mua cuối cùng hay người sử dụng bình
thường được yêu cầu trả khi mua sản phẩm. Hạ giá là sự giảm giá công bố-

giá mà người bán thông báo cho người mua. Chiếu cố giá cũng tương tự như
hạ giá nhưng khoản giảm giá này thường kèm theo điều kiện đưa ra bởi người
bán do giúp người bán một việc gì đó.
Hàng hoá muốn tiêu thụ được tốt thì bên cạnh yếu tố chất lượng mà doanh
nghiệp đã tạo ra cho sản phẩm doanh nghiệp cần phải cân đối với chi phí mà
khách hàng bỏ ra để có quyền sở hữu nó. Đây là yếu tố căn bản trong cạnh
tranh giá cả giữa các doanh nghiệp mà nguồn gốc của nó chính là sự cân đối
giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu được trong hành vi mua hàng của khách hàng.
Những doanh nghiệp có ưu thế trong sản xuất kinh doanh đều tận dụng để
giảm giá hàng bán đến mức có thể chấp nhận được để thu hút khách hàng
chiếm thị phần của đối thủ. Cạnh tranh về giá sẽ là ưu thế rất lớn của những
doanh nghiệp có vốn lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác. Các đối thủ yếu
về tài chính sẽ không thể theo được, họ có thể phải bỏ hoạt động kinh doanh
hoặc phải tìm cách thức cạnh tranh khác.
Song hiện nay cạnh tranh về giá không còn được các doanh nghiệp ưu tiên lựa
chọn trong chiến lược kinh doanh của mình. Xuất phát từ nhận định của họ
rằng mục tiêu kinh doanh của họ vì lợi nhuận, việc xây dựng một giá bán cho
sản phẩm cơ bản là xuất phát từ chi phí sản xuất do vậy nếu họ cứ hạ giá mãi
thì nó sẽ vượt qua điểm hoà vốn. Điều này sẽ làm phương hại đến lợi ích của
họ và khi đó giá cả của hàng hoá sẽ không phản ánh thực chất giá trị hàng hoá
mà người tiêu dùng lựa chọn.
1.2.2 Nguồn lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh
1.2.2.1 Nguồn lực tài chính
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
15
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Tài chính là yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua
khối lượng ( nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh,
khả năng phân phối có hiệu quả, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn
trong kinh doanh. Nguồn lực tài chính là một trong những yếu tố quan trọng

quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh đều là hoạt động đầu tư mang tính chất sinh lời. Khả năng tài
chính của doanh nghiệp quyết định tới việc thực hiện hay không thực hiện bất
cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc
đổi mới công nghệ, máy móc, trang thiết bị đảm bảo nâng cao chất lượng,
giảm chi phí hạ giá thành.
Sức mạnh về tài chính được thể hiện ở:
- Luồng tiền mặt
- Khả năng vay ngắn hạn và dài hạn
- Năng lực huy động vốn tự có mới trong một tương lai có thể dự đoán
trước.
- Khả năng quản lý tài chính bao gồm cả khả năng đàm phán huy động vốn,
vay, quản lý dự trữ và quản lý các khoản thanh toán phải thu
Một doanh nghiệp có nguồn tài chính mạnh sẽ có được một lợi thế trong cạnh
tranh với các đối thủ khác và thực hiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
gây sức ép với đối thủ cạnh tranh. Nhưng trong kinh doanh không phải doanh
nghiệp nào cũng có nguồn tài chính mạnh để tiến hành đầu tư, việc huy động
được nguồn lực tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh là hết sức khó
khăn song việc sử dụng và khai thác hiệu quả nguồn lực này quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Nguồn lực con người
Trong kinh doanh(đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ) con người
là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công.Kenichi Ohmae đã đặt
con người ở vị trí số một, trên cả vốn và tài sản khi đánh giá sức mạnh của
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
16
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
một doanh nghiệp. Chính con người với năng lực thực sự của họ mới lựa chọn
đúng cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ

thuật, công nghệ,…một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. Họ
chính là người quyết định doanh nghiệp sẽ sản xuất và kinh doanh cái gì? sản
xuất kinh doanh cho ai? sản xuất kinh doanh với khối lượng bao nhiêu và như
thế nào? mỗi quyết định của họ có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát
triển của công ty đặc biệt là trong điều kiện thị trường có sự cạnh tranh gay
gắt. Con người là yếu tố chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiềm lực về con người được thể hiện qua số lượng và chất lượng lao động của
doanh nghiệp như: hàm lượng trí tuệ, trình độ tay nghề, sức khoẻ, văn hoá lao
động, kinh nghiệm,.. Nếu doanh nghiệp có được đội ngũ cán bộ công nhân
viên có trình độ chuyên môn cao, có tính kỷ luật cao hơn so với các đối thủ
khác thì đây sẽ là một lợi thế to lớn cho doanh nghiệp trong cuộc chạy đua
trên thương trường, được thể hiện ở năng suất lao động cao, cắt giảm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2.3 Tiềm lực về nhãn hiệu, thương hiệu
Nhãn hiệu và thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Nhãn hiệu có
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Trong
kinh doanh và tiêu dùng nhãn hiệu được sử dụng do nhu cầu nhận biết, xác
định và phân biệt sản phẩm của các nhà sản xuất kinh doanh.
Thương hiệu là nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Doanh nghiệp xây dựng được một thương hiệu nổi tiếng được người tiêu
dùng biết đến và chấp nhận là cả một thành công lớn đối với doanh nghiệp.
Đây là một lợi thế lớn đối với các đối thủ cạnh tranh vì khách hàng sẽ thấy ở
đây một niềm tin, một uy tín lớn và sẽ đi theo. Một khi khách hàng đã quen
dùng một loại thương hiệu nào đó rồi thì rất khó làm họ thay đổi.
1.2.3 Trình độ công nghệ sản xuất kinh doanh
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
17
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Trình độ tiên tiến của trang thiết bị công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến năng

suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hoá được đưa ra đáp ứng khách
hàng. Liên quan đến mức độ ( chất lượng) thoả mãn nhu cầu, khả năng cạnh
tranh, lựa chọn cơ hội và các tác nghiệp khác của doanh nghiệp trên thi
trường. Do đó ta có thể khẳng định công nghệ cũng là yếu tố cấu thành khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thông thường với một doanh nghiệp có nguồn lực tài chính hùng mạnh sẽ đi
theo xu hướng tự nghiên cứu phát triển công nghệ. Với cách này công nghệ
được hình thành chậm mang nhiều rủi ro nhưng nếu kết quả nghiên cứu là
một phát minh sáng chế thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp một sức mạnh lớn
mà không một doanh nghiệp nào có được.
Ngày nay nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển, đặc biệt là
việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO vừa qua, có sự giao lưu trao
đổi giữa các nền văn hoá, nền kinh tế thì sự chuyển giao công nghệ giữa các
quốc gia, giữa các doanh nghiệp trở nên ngày càng phổ biến. Đây là cơ sở để
các quốc gia, các doanh nghiệp thuộc các nước đang phát triển đón nhận
những công nghệ mới mà không cần phải mất nhiều thời gian cho việc nghiên
cứu.
Bí quyết công nghệ chính là một lợi thế so sánh của doanh nghiệp sẽ là cho
điểm mạnh nếu doanh nghiệp giữ vững mà không một đối thủ nào có thể vượt
qua. Ngày nay việc trang bị máy móc, công nghệ để có thể có được hiệu quả
sản xuất kinh doanh cao đòi hỏi phải trang bị một cách đồng bộ, phù hợp với
trình độ phát triển và tay nghề của người lao động.
1.2.4 Trình độ tổ chức quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
Sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công
nghệ quản lý. Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống với những mối liên hệ chặt
chẽ với nhau hướng tới mục tiêu của doanh nghiệp, nó là một tổng thể không
thể chia cắt được thành các bộ phận có ảnh hưởng độc lập với nó. Khi mỗi bộ
phận, chức năng nghiệp vụ của doanh nghiệp được tách riêng ra để thực hiện
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
18

Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
thì toàn bộ hệ thống sẽ không thực hiện được tốt như nó có thể. Một doanh
nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt đến một trình
độ tổ chức tương ứng. Việc xây dựng một bộ máy tổ chức quản lý điều hành
hợp lý không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Với một bộ máy hợp lý
doanh nghiệp sẽ vận hành tốt toàn bộ quá trình hoạt động tạo nên hiệu quả
cao trong công việc, có thể nói đây là bí quyết kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp bao gồm các công việc như: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế
hoạch, bố trí nhân sự, tổ chức khoa học nơi làm việc, kiểm tra giám sát thực
hiện, xây dựng bộ máy quản lý. Tổ chức thực hiện tốt công tác này sẽ góp
phần tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp.
Và nói đến trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp phải nói đến năng lực
của đội ngũ ban lãnh đạo doanh nghiệp, với khả năng và kinh nghiệm họ sẽ
đưa ra chiến lược phát triển đúng đắn phù hợp, vận hành toàn bộ bộ máy tạo
nên sự ăn khớp giữa các bộ phận trong doanh nghiệp từ đó phát huy các yếu
tố của quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm cả nguồn lực vật chất hữu hình,
bô hình và con người.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
kinh doanh thuốc thú y
1.3.1 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc thú y nói riêng đều xuất phát từ mục tiêu
lợi nhuận, thế lực, an toàn… Tuỳ từng giai đoạn phát triển và điều kiện cạnh
tranh trên thị trường mà doanh nghiệp đặt ra mục tiêu nào lên hàng đầu, mục
tiêu nào giữ vị trí thứ yếu nhưng mục tiêu lâu dài và cuối cùng vẫn là lợi
nhuận. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thực chất là cách để
nâng cao lợi nhuận của công ty thông qua khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng
lên. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thuốc thú y có rất nhiều nhân tố
bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh

Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
19
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
nghiệp, đây là nhân tố chủ quan trong đó phải kể đến: khả năng tài chính,
tiềm lực con người, tiềm lực vô hình( thương hiệu, uy tín..) khả năng kiểm
soát chi phối độ tin cậy của nguồn cung cấp thuốc và dự trữ thuốc đảm bảo
chất lượng trong những đợt dịch…
1.3.1.1 Uy tín của nhãn hiệu thuốc thú y trên thị trường
Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường đối với bất cứ một
doanh nghiệp nào kinh doanh trên thương trường. Đó là cơ sở tạo ra sự quan
tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Sự “cảm tình”, “tin
cậy” về doanh nghiệp có thể giúp đở nhiều cho việc ra quyết định có tính “ưu
tiên” khi mua hàng của khách hàng.
Kinh doanh thuốc thú y là một loại kinh doanh sản phẩm đặc biệt, nó liên
quan nhiều đến yếu tố kĩ thuật, chất lượng ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh rất lớn. Nên nhân tố về uy tín nhãn hiệu thuốc nó là nhân tố đặc biệt
quan trọng trong việc quyêt định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đặc biệt do đối tượng khách hàng mà doanh nghiệp tiếp cận đó là nhà nông
thì một nhãn hiệu lâu năm, có uy tín về chất lượng sẽ có ấn tượng và cảm
tình, mang lại niềm tin cho khách hàng và quyết định tiêu dùng sản phẩm
1.3.1.2 Sản phẩm
Đặc điểm của sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến khả năng canh tranh của doanh
nghiệp. Mục tiêu theo đuổi của ban lãnh đạo ngay từ đầu đã được xác định là
tập trung vào ngành, lĩnh vực nào có thể là thuốc gia súc, thuốc gia cầm,
thuốc bột, thuốc nước,…sản phẩm đa dạng mẫu mã chủng loại hay chỉ tập
trung vào một loại, sản phẩm được nhấn mạnh về điểm gì: nguồn gốc, xuất
xứ, chất lượng hay giá cả chủng loại.. Thông thường các doanh nghiệp kinh
doanh thuốc thú y thường sử dụng chính sách sản phẩm là đa dạng hoá sản
phẩm để làm công cụ tăng khả năng cạnh tranh vì khách hàng thường mua
một vài chủng loại chứ ít khi mua một loại, hơn nữa nhu cầu lại rất đa dạng.

Đa dạng hoá sản phẩm được coi là công cụ để giảm áp lực cạnh tranh và kiểm
soát cạnh tranh.
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
20
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
1.3.1.3 Khả năng tài chính
Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh thuốc thú y muốn
thực hiện được phải có sự giúp đỡ về tài chính. Dựa trên nguồn lực tài chính
doanh nghiệp mới có thể mạnh dạn quyết định các hoạt động tạo nguồn thu
mua nguyên liệu, đầu tư vào máy móc thiết bị chuyên dùng sản xuất và kinh
doanh, vận tải,..Nhất là trước những biến động của thị trường nguyên liệu
càng thấy câu “ buôn tài không bằng dài vốn” thật là đúng. Tài chính sẽ giúp
doanh nghiệp trụ vững trên thị trường khi giá nguyên liệu nhập tăng, nguồn
hàng khan hiếm, cạnh tranh gay gắt doanh nghiệp có thể sử dụng chiến lược
cạnh tranh bằng giá rất hữu hiệu.
Sức mạnh về tài chính trong kinh doanh thuốc thú y còn thể hiện ở chỗ có khả
năng vay nợ các nguồn vốn trong ngắn hạn và trong dài hạn hay được sự tín
chấp bảo lãnh của ngân hàng. Để đảm bảo có nguồn vốn kịp thời cho kinh
doanh các doanh nghiệp kinh doanh thép thường chỉ vay được một lượng vốn
nhỏ của ngân hàng và trong thời hạn rất ngắn còn lại hầu hết là vay tín chấp
dưới hình thức chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác. Cũng bằng cách
này mà doanh nghiệp có thể bán được hàng cho khách hàng với cùng điều
kiện thanh toán chậm mà không ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả kinh
doanh.
1.3.1.4 Nguồn nhân lực
Ngành thuốc thú y cũng là một ngành kinh doanh mà trong đó cạnh tranh rất
căng thẳng bởi có rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường. Vì vậy
doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình bằng cách tìm kiếm
thông tin, phân tích, đánh giá chính xác đối thủ đặc biệt là những đối thủ cạnh
tranh chính để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp. Nhiệm vụ

đó sẽ được thực hiện tốt khi doanh nghiệp có đội ngũ nhân lực giỏi giang,
năng động. Đặc biệt là đơn vị kinh doanh nghành hàng đặc thù nó liên quan
đến yếu tố kĩ thuật nhiều. Chất lượng của những cán bộ kĩ thuật sẽ là nguồn
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
21
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
lực quan trọng của doanh nghiệp để tạo ra những loại thuốc có tính năng vượt
trội và có khả năng cạnh tranh.
Ban lãnh đạo doanh nghiệp là những người có vai trò quan trọng trong quá
trình xây dựng chiến lược quản lý điều hành mọi hoạt động của công ty. Với
một ban lãnh đạo giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm, khả năng đánh giá, có
mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ
lợi nhuận trước mắt mà còn tạo dựng và duy trì uy tín lâu dài đây mới là yếu
tố mẫu chốt tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong một môi
trường kinh doanh đầy biến động như hiện nay người lãnh đạo thực sự trở
thành người “cầm kim nảy mực” bởi nếu họ không có sự am hiểu quy luật
biến động của thị trường, không có những phân tích để đưa ra những kết luận
chính xác, kịp thời thì cả công ty sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm và có thể
dẫn đến phá sản.
Đội ngũ nhân viên, cán bộ quản lý và công nhân là những người giúp việc cho
ban lãnh đạo, họ là người quyết định chất lượng của sản phẩm đến tay khách
hàng và tiết kiệm chi phí sản xuất. Hiệu quả bán hàng cũng có liên quan trực
tiếp đến chất lượng phục vụ khách hàng, mặt khác đối với doanh nghiệp
thương mại những người công nhân có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng khi khách hàng nhận hàng tại xưởng. Đây vừa là thậm lợi cho công ty
nếu những người công nhân có ý thức phục vụ tốt làm vừa lòng khách hàng
song sẽ là bất lợi lớn có thể dẫn đến mất khách hàng nếu họ vừa thiếu trình độ
tay nghề vừa phục vụ khách không tận tình. Do đó các doanh nghiệp kinh
doanh thuốc thú y phải đào tạo đội ngũ nhân viên, công nhân của mình làm
sao cho họ vừa là những công nhân lành nghề tạo ra những sản phẩm có chất

lượng cao đồng thời phải là những nhân viên bán hàng giỏi.
1.3.1.5 Khả năng kiểm soát nguồn cung cấp đầu vào và dự trữ hàng hoá
Yếu tố này ảnh hưởng đến “đầu vào” của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ
đến kết quả của việc thực hiện chiến lược kinh doanh. Đầu vào thép ổn định
sẽ đảm bảo việc kinh doanh diễn ra bình thường, liên tục không làm thị
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
22
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
trường thép trở nên khan hiếm ứ đọng vốn. Sự biến động quá mức của đầu
vào sẽ ảnh hưởng đến giá đầu vào, chi phí, thời điểm giao hàng, khối lượng
cung cấp. Việc tính toán và dự đoán chính xác nhu cầu thuốc để có kế hoạch
thu mua dự trữ, chủ động, hợp lý sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.3.1.6 Hoạt động Marketing
Hoạt động Marketing của doanh nghiệp tập trung vào các vấn đề như chủng
loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm, thị phần, giá bán sản phẩm, niềm tin của
khách hàng đối với sản phẩm và doanh nghiệp, chất lượng và chi phí phân
phối hàng hoá, hiệu quả quảng cáo xúc tiến bán… ảnh hưởng của Marketing
đến việc nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường thông qua việc đáp
ứng tốt nhu cầu khách hàng.
1.3.2 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
1.3.2.1 Các nhân tố thuộc về chính trị, pháp luật
Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Một thể chế chính trị ổn định, hệ thống luật pháp hoàn thiện đồng bộ sẽ tạo ra
điều kiện bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Các quy định
về chống độc quyền, pháp lệnh về cạnh tranh, luật thuế, luật về xuất nhập
khẩu… tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Pháp luật và sự can thiệp của Nhà nước thông qua các chính sách thuế được
ban hành có ảnh hưởng lớn đến công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Đứng trước một biến lớn đến công việc kinh doanh về giá cả hay sản lượng

của một mặt hàng, ngành hàng nào đó trên thế giới, các cơ quan chức năng
của Nhà nước cần phải phân tích theo mọi khía cạnh để có những can thiệp
kịp thời nếu thấy cần thiết để bảo vệ người tiêu dùng và các doanh nghiệp
cũng như bảo vệ quốc gia.
1.3.2.2 Các nhân tố về mắt kinh tế
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Nó có ảnh hưởng tới hoạt động của doanh
nghiệp theo hai hướng:
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
23
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Thứ nhất, kinh tế tăng trưởng nhanh làm cho khả năng thanh toán nhanh dẫn
đến sức mua tăng, cung nhỏ hơn cầu, hàng hoá sẽ khan hiếm hơn và làm tăng
khả năng, cạnh tranh của các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm.
Nước ta đang trong giai đoạn phát triển, nhu cầu về thực phẩm, thịt, cá,.. rất
lớn mà với điều kiện khí hậu thay đổi sinh ra rất nhiều bệnh, dịch. Điều này
rất có lợi cho các nhà kinh doanh thuốc thú y. Vấn đề quan trọng là phải tìm
ra được thế mạnh của mình, khai thác những cơ hội phù hợp với khả năng của
mình sao cho dành vị thế trong cạnh tranh, tránh đối đầu với những doanh
nghiệp kinh doanh lớn.
Thứ hai, kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp tăng, môi trường kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn dẫn đến làm tăng
tính cạnh tranh trên thị trường làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
 Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
kinh doanh của doanh nghiệp. Lãi suất càng cao làm cho chi phí kinh doanh
cao do đó làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Lãi suất cao làm
cho chi phí kinh doanh cao do đó làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Đồng thời lãi suất ngân hàng quá cao cũng đồng nghĩa với việc chính
phủ hạn chế cho vay vốn vì doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ, như
thế doanh nghiệp sẽ mất đi những cơ hội kinh doanh chỉ vì không có vốn kịp

thời.
 Tỷ giá hối đoái và giá trị đồng nội tệ có ảnh hưởng lớn đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp nhất là đối với những doanh nghiệp thương mại.
Đồng nội tệ mạnh sẽ có lợi cho nhập khẩu. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu
nguyên liệu thuốc đồng nội tệ giảm làm cho giá vốn hàng bán của doanh
nghiệp cao, dẫn đến giá bán của doanh nghiệp cao làm giảm khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.3.2.3 Các nhân tố văn hoá xã hội tự nhiên
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A
24
Chuyên đề thực tập Khoa:Thương mại
Các nhân tố này tuy biến đổi chậm nhưng cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.3.3 Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Mô hình năm áp lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1
.3.3.1 Các đối thủ tiềm năng
Việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới trực tiếp làm giảm tính
chất, quy mô cạnh tranh do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản phẩm
trong ngành. Sự xuất hiện các đối thủ mới có khả năng gây ra những cú xốc
mạnh cho các doanh nghiệp hiện tại vì thông thường những người đi sau đã
rút ra được kinh nghiệm từ những người đi trước cho mình. Họ có nhiều căn
cứ cho việc ra quyết định hơn và nhiều chiêu bài bất ngờ hơn người mà ý
tưởng nhảy vào cuộc của họ được hình thành trong quá trình theo dõi, phân
tích và đi đến những nhận định của cuộc cạnh tranh hiện tại. Để chống lại
những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường sử dụng các chiến
lược như phân biệt sản phẩm bổ sung, cung cấp các dịch vụ văn minh khách
hàng nhằm làm cho các sản phẩm của mình có các đặc điểm khác biệt hoặc
nổi trội trên thị trường.
Hồ Thị Thu Lớp: Thương Mại - 45A

Đối thủ tiềm ẩn
Sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong
ngành
Người
mua
Người cung
ứng
Hàng hoá thay thế
25

×