Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội khác trong bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.63 KB, 6 trang )

IUẬT

PHÂN BIỆT TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO sức KHỎE

CỦA NGƯỜI KHÁC VỚI MỘT số TỘI KHÁC
TRONG BỘ LUẬT HÌNH sự NĂM 2015,
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017
• LÊ THỊ THU HẰNG

TĨM TẮT:

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại
Điều 134, Chương xrv Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bài viết tập
trung phân tích những điểm giơng và khác nhau giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác với các tội khác như: tội giết người, tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ hay tội khủng bơ'
được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Từ khóa: Phân biệt, tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe, Bộ luật Hình sự

năm 2015.

1. Một sơ' vấn đề lý ln về tội cơ' ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Con người với tư cách là một thực thể tự nhiên
và với tư cách là một cá nhân được đặt trong mối
quan hệ với gia đình và xã hội. Con người là vơ'n
q, là giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Con người với tư


cách nói trên có các quyền và tự do nhất định.
Các quyền và tự do đó được Nhà nước bảo hộ và
bảo vệ. Trong Tun ngơn tồn thê' giới về nhân
quyền của Liên hợp quô'c, tại Điều 3 quy định:
“Mọi người đều có quyền sống, được tự do và bảo
đảm an ninh". Hiến pháp năm 2013 của Nhà

nước Việt Nam cũng thống nhất thể hiện việc
bảo hộ và bảo vệ này thông qua các quy định tại
Chương II về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân; trong đó đã đặc biệt
nhấn mạnh “mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người ăược pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị
tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19). Bên
cạnh đó, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 cũng quy
định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thề, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm; khơng bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hĩnh thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm”.

SỐ23-Tháng 9/2020

43


TẠP CHÍ CƠNG THƯIÍNG

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, Bộ luật

Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 đã dành một chương riêng tiếp theo sau
Chương “các tội xâm phạm an ninh quốc gia” quy
định về “các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người”, trong đó tội
“cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác” được quy định tại Điều 134,
Chương XIV. Mặc dù vậy, BLHS Việt Nam vẫn
chưa đưa ra khái niệm thế nào là tội cố ý gây
thương tích (CYGTT) hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Trong khi đó, trong khoa học
luật hình sự Việt Nam có khá nhiều quan niệm về
tội này. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng: “Tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân
thể của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe của
người khác dưới dạng thương tích hoặc gây tổn hại
về sức khỏe của người khác trong các trường hợp
luật định”. Theo một quan điểm khác, thì “Tội
CYGTT là hành vi cố ý làm cho người khác bị
thương, xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khoẻ
của con người. Hành vi CYGTT bị coi là tội phạm,
tội phạm đó được quy định tại BLHS”. Cũng có
quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn

pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải chịu hình
phạt. Là một tội phạm cụ thể, tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác cịn có những
dâ'u hiệu pháp lý riêng của mình, cụ thể là:
- Khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác: Đó là quyền bất khả
xâm phạm, quyền được tôn trọng và quyền được
bảo hộ về sức khỏe của con người. Với tư cách là
thực thể tự nhiên và chủ thể xã hội, người đang
sống và tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan
chính là đối tượng tác động của tội phạm này.
- Mặt khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là biểu
hiện ra bên ngoài của tội phạm với các dâu hiệu
đặc trưng là: hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm; hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm;
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; thời gian, địa
điểm, hồn cảnh, phương tiện, cơng cụ phạm tội,...
- Chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho

hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của
một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc
tổn hại đến sức khỏe”.

sức khỏe của người khác:
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của
tội phạm là thể nhân hoặc pháp nhân thương mại
có đủ yếu tơ' của chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên,
đốì với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, chủ thể của tội phạm chỉ là thể
nhân - con người cụ thể đã cố ý thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội

Từ những nội dung phân tích trên đây, kết hợp

trong một tổng thể các quan niệm của các nhà
khoa học, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về khái niệm tội phạm nói chung và về tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, có
thể hiểu “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, được quy định trong BLHS, do người đủ độ
tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật thực hiện một cách cố ý xâm
phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người,
công dân, gây ra những thiệt hại nhất định về sức
khỏe cho họ”.
Với tính cách là tội phạm (nói chung), tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác có các dấu hiệu cơ bản của một tội phạm, đó
là: tính nguy hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái

phạm trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình
sự (TNHS) và đạt độ tuổi nhất định do pháp luật
quy định. Bởi vậy, theo quan điểm của tác giả:
“Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ
thể của tội phạm, mà chỉ những người có năng lực
TNHS mới là chủ thể của tội phạm”. Nói cách
khác, năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định theo
luật định là các dấu hiệu bắt buộc để coi một người
là chủ thể của tội phạm hay không. Vậy năng lực
TNHS là gì? Đó là “Khả năng của một người ở thời
điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận

thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do
mình thực hiện và điều khiển có ý thức hành vi
đó”. Để có thể là người có năng lực TNHS, người
đó phải là người khơng mắc bệnh tâm thần hoặc

44

SỐ23-Tháng 9/2020


LUẬT

bệnh hiểm nghèo làm mất khả năng nhận thức,
khả năng điều chỉnh hành vi của mình, tức là người
đó phải nhận thức được tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi mà mình sẽ thực hiện, biết được

hành vi đó là đúng hay sai, có phù hợp với pháp
luật và đạo đức xã hội hay không. Thực tiễn cho
thấy, thông qua lao động, học tập, khả năng nhận
thức của con người được hình thành, cịn qua q
trình phát triển cơ thể của con người (tức phải ở độ
tuổi nhất định) thì con người mới có khả năng điều
khiển hành vi của chính mình. Như vậy, phải đạt
đến độ tuổi nhất định thì con người mới có khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi
của mình.
về tuổi chịu TNHS của chủ thể của tội phạm
là cá nhân (thể nhân), tại Điều 12 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về

mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này
có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phải chịu TNHS về tội phạm râ’t nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại một trong các điều: 123; 134; 141; 142; 143;
144; 150; 151; 168; 169; 170;171;173;178;248;
249;250;251; 252;265; 266; 286; 287; 289; 290;
299; 303 và 304.
Từ quan điểm của nhà làm luật về chủ thể của
tội phạm như trên, có thể xác định chủ thể của
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được quy định tại Điều 134 BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 phải là
người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật
quy định, nghĩa là người đó khơng mắc bệnh tâm
thần hay các loại bệnh khác làm mất đi khả năng
nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình,
đồng thời phải đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên
thì mới phải chịu TNHS về mọi hành vi phạm tội
do mình gây ra, hoặc đạt độ tuổi từ đủ 14 đên
dưới 16 tuổi mà phạm tội thì chỉ phải chịu TNHS
được quy định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều
134, còn những người dưới 16 tuổi phạm tội thuộc

trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản
6 của Điều luật này thì khơng phải chịu TNHS.
- Mặt chủ quan của tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là mặt


bên trong của tội phạm, là thái độ tâm lý của người
phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do

họ thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra
cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả
đó, bao gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ phạm tội và
mục đích phạm tội.
2. Phân biệt tội cố’ ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác vổi một số
tội cụ thể khác
2.1. Phân biệt tội cốý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường
hợp làm chết người với tội giết người
Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp, việc
phân biệt tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác vối tội giết người là râ’t phức
tạp; mỗi nơi áp dụng một kiểu và ngay trong cùng
một cơ quan tiến hành tố tụng thì người này có
quan điểm giết người, còn người khác cho rằng chỉ
CYGTT.
Ngày 6/4/2016, Chánh án TAND tối cao đã ban
hành Quyết định số 220/QĐ-CA công bô’ án lệ vụ
án về tội giết người và tội CYGTT dẫn đến chết
người đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao
thông qua tại Án lệ sô’ 01/2016/AL. Tuy nhiên,

thực tiễn đâu tranh phòng, chống hai loại tội phạm
này cũng còn nhiều vâ’n đề chưa được lý giải,
nhiều vụ án vẫn còn ý kiến khác nhau giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tô’ tụng và

người bào chữa.
Vì vậy, việc nghiên cứu và phân biệt giữa tội
giết người quy định tại Điều 123 với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy
định tại Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
khởi tô’, điều tra, truy tô’, xét xử. Trên cơ sở các
dâu hiệu đặc trưng của tội giết người và tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trường hợp làm chết người, chúng ta có
thể nhận định sự giô’ng nhau và khác nhau cơ bản
giữa hai tội này.
* về sự giống nhau, ở hai tội này, người phạm
tội đều thực hiện hành vi là do cô’ ý; đều thực
hiện hành vi (hành động) tương tự như nhau (bắn,
đâm, chém, đánh, đâ’m, đá,...); có hậu quả là nạn
nhân chết.

SỐ 23 - Tháng 9/2020

45


TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG

* về sự khác nhau của hai tội này được thể hiện
như sau:
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, người phạm tội chỉ cố ý làm
cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức
khỏe chứ người phạm tội không mong muốn cho
nạn nhân bị chết hay bỏ mặc cho nạn nhân chết;
cịn việc nạn nhân chết là ngồi ý thức chủ quan
của người phạm tội.
Đối với tội giết người, người phạm tội cố ý tước
đoạt tính mạng của nạn nhân. Nếu không phải là
do cố’ ý trực tiếp (cố ý có dự mưu, cố ý xác định)
thì cũng là cố ý gián tiếp (cố ý đột xuất hoặc cố ý
không xác định), tức là không cần quan tâm đến
hậu quả nạn nhân chết hay không.
Hành vi tấn công của người phạm tội đối với
tội giết người quyết liệt hơn, cường độ tấn công
mạnh hơn, nhằm vào những nơi xung yếu của cơ
thể như: vùng đầu (sọ não, gáy), ngực, ổ bụng,...
Còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, người phạm tội tấn công nạn
nhân khơng quyết liệt, mà nếu có quyết liệt thì
cũng chỉ tấn cơng vào những nơi khó gây ra cái
chết cho nạn nhân như: chân, tay, mơng, nếu có
tấn cơng vào nơi xung yếu của cơ thể thì cũng chỉ
tấn công vào nơi đã định như mắt, mũi, tai, miệng.
Thực tiễn, nhiều trường hợp người phạm tội chỉ
khai không muốn làm nạn nhân chết. Do đó, phải
kết hợp với ý thức chủ quan của họ để xác định là
giết người hay CYGTT, đồng thời phải căn cứ vào
biên bản giám định pháp y về nguyên nhân gây ra
cái chết của nạn nhân.
2.2. Phân biệt tội cốý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cốý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khỉ thi hành công vụ
Tại Điều 137 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017, nhà làm luật quy định tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi

thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài
những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi
hành cơng vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác với tỷ lệ thương tật từ
31% trở lên.
Qua nghiên cứu tội CYGTT hoặc gây tổn hại

46

SỐ 23 - Tháng 9/2020

cho sức khỏe của người khác và tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi
thi hành công vụ, dựa vào các yếu tố câu thành tội
phạm, chúng ta có thể phân biệt những điểm giống
và khác nhau giữa hai tội phạm này. Hai tội này
giống nhau về khách thể của tội phạm và về lỗi của
người phạm tội. Sự khác nhau của hai tội này thể
hiện ở chủ thể của tội phạm, hành vi khách quan,
hậu quả gây ra và động cơ phạm tội, cụ thể là:
- Chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ
khác với chủ thể của tội phạm CYGTT hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác ở chỗ phải là

người đang trong khi thi hành công vụ và đã thực
hiện hành vi phạm tội do có hành vi trái pháp luật
của nạn nhân.
- Hành vi khách quan của tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi

hành công vụ khác với hành vi khách quan của tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác đó là dùng vũ lực ngồi những trường hợp
pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
- Hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ
khác với hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác được thể hiện ở chỗ
chỉ làm cho người bị hại bị thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người bị hại có tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% trở lên mà không làm chết
người hoặc không dẫn đến chết người.
- Động cơ phạm tội của hai tội này khác nhau.
Đôi với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ,
động cơ của người phạm tội là bảo vệ các lợi ích
khác nhau trước sự xâm phạm của hành vi trái
pháp luật của nạn nhân, còn đối với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
dấu hiệu động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc

(tức dấu hiệu định tội).
2.3. Phân biệt tội cốý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội phạm
khủng bố
Tại Điều 299 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung


LUẬT

năm 2017 quy định về tội khủng bố, đó là: “hành

Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá
hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm

của người khác thì hành vi khách quan của tội
phạm là hành vi tác động vào cơ thể của người
khác làm cho người đó bị thương tích hoặc bị tổn

gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng chúng hoặc
xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm
giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá

nhân hoặc đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính
mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng
hoảng sợ trong cơng chúng hoặc có những hành vi
khác uy hiếp tinh thần người khác”.
Dựa vào những dấu hiệu pháp lý trong cấu

thành tội phạm đối với tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác và tội khủng bố,
có thể đưa ra những điểm giống nhau và những
điểm khác nhau như sau:
* Những điểm giống nhau:
Gồm dấu hiệu lỗi và dấu hiệu chủ thể của tội
phạm. Đốì với dấu hiệu lỗi, cả hai tội phạm này
đều có lỗi cố ý. về chủ thể của tội phạm, hai tội
này đều do bất kỳ ai là người có năng lực TNHS và
đạt độ tuổi luật định thực hiện hành vi phạm tội.
* Những điềm khác nhau:
Sự khác nhau trước hết thể hiện ở khách thể của
tội phạm. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác xâm phạm quyền được tôn
trọng và bảo hộ về sức khỏe của con người; cịn
tội khủng bơ" xâm phạm an tồn cơng cộng, tính
mạng, sức khỏe, tự do thân thể, danh dự của con
người, xâm phạm quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ
chức và cá nhân.
Sự khác nhau còn thể hiện ở mặt khách quan
của tội phạm: Hành vi khách quan của người
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác có tính châ"t và mức độ nguy hiểm
thâ"p hơn hành vi khách quan của tội khủng bô".

hại về sức khỏe chứ không làm cho nạn nhân bị
chết; nếu nạn nhân chết là ngồi ý mn của
người phạm tội. Đơ"i với tội phạm khủng bô", hành
vi khách quan của tội phạm này bao gồm các hành


vi, như: xâm phạm tính mạng của người khác hoặc
phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công
chúng; xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc
chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức,
cá nhân; đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính
mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng

hoẵng SỢ trong cơng chúng hoặc có những hành
vi khác uy hiếp tinh thần của người khác.
Hai tội nói trên cịn khác nhau về mục đích
phạm tội. Mục đích của người phạm tội khủng bơ"
là nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng
chúng, cịn mục đích của tội CYGTT hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác là làm cho nạn
nhân bị tổn thương, làm mâ"t hoặc suy giảm chức
năng một bộ phận cơ thể hay làm ảnh hưởng đến
thẩm mỹ của nạn nhân.
Việc phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội này với
tội giết người, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ
hay với tội khủng bô" khơng chỉ có tác dụng trong
việc nhận thức về những điểm giống hoặc khác
nhau giữa các tội phạm mà còn có ý nghĩa rất quan

trọng trong cơng tác đâ"u tranh phịng, chống tội
phạm, giúp người tiến hành tơ" tụng định tội danh

và quyết định hình phạt đúng đơ"i với người thực
hiện hành vi phạm tội ■

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Quốc hội (2015). Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2. Khoa Luật - Đại học Quô"c gia Hà Nội (2011), Giáo trĩnh Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

SÔ' 23 - Thâng 9/2020

47


TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG

3. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hĩnh sự năm 2015 - Phần thứ nhất: Những quy định chung (Bình luận
chun sâu), NXB Thơng tin và Truyền thơng, Hà Nội.
4. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ hai: Các Tội phạm - Chương XIV: các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Bình luận chun sâu), NXB Thơng tin
và Truyền thơng, Hà Nội.

5.

Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật Hĩnh sự so sánh (sách chuyên khảo), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

6.


Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

Ngày nhận bài: 18/8/2020
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 28/8/2020
Ngày chấp nhận đăng bài: 7/9/2020
Thông tin tác giả:
LÊ THỊ THU HANG
ủy ban Kiểm tra Thành ủy Biên Hòa

DIFFERENCES BETWEEN THE OFFENCE
OF INTENTIONALLY CAUSE INJURY OR THE OFFENCE
OF ASSAULT CAUSING BODILY HARM AND OTHER TYPES
OF CRIMINAL OFFENCES ACCORDING TO THE

AMENDED 2015 CRIMINAL CODE OF VIETNAM


LE TH1 THU HANG

Inspection Commission of Bien Hoo City's Party Committee
ABSTRACT:
The offence of intentionally cause injury and the offence of assault causing bodily harm are
specified in the Article No. 134, chapter xrv of the 2015 Criminal Code of Vietnam which was
amended and supplemented in 2017. This paper presents the similarities and differences
between these two mentioned above types of criminal offences and other types of crime such as
murder, deliberate infliction of bodily harm upon another person on duty and terrorist crimes.
Keywords: Distinguishing, the offence of intentionally cause injury, the offence of assault

causing bodily harm, the 2015 Criminal Code of Vietnam.

48

So 23 - Tháng 9/2020



×