Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH cá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.68 KB, 6 trang )

Đề bài: PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ ĐỒN THUYỀN ĐÁNH CÁ” – HUY CẬN
Bài làm
Huy Cận ( 1919 - 2005), quê ở làng Ân Phú, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ “ Lửa thiêng” (1940).
Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ
nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà
thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy Cận đã được Nhà nước trao tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật ( năm 1996).
Bài thơ ra đời năm 1958, thời kì miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trong một
chuyến đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh của Huy Cận.
Mạch cảm xúc của bài thơ “ Đồn thuyền đánh cá ” được triển khai theo hành
trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ thơ đầu là cảnh lên
đường; bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa
khung cảnh biển trời ban đêm và khổ cuối là cảnh đồn thuyền trở về trong buổi
bình minh lên.
Khơng gian nghệ thuật của bài thơ là không gian rộng lớn bao la khoáng đạt
với mặt trời, biển, trăng, sao, mây, gió.Thời gian nghệ thuật là nhịp tuần hồn của
vũ trụ từ lúc hồng hơn đến lúc bình minh.
Khổ một bài thơ là cảnh ra khơi trong buổi hồng hơn thật huy hoàng, tráng lệ,
đầy sức sống:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Hình ảnh so sánh “ mặt trời” như “ hòn lửa” đang lặn vào lịng biển. Mặt trời đẹp,
kì vĩ, tráng lệ.Khoảnh khắc giữa ngày và đêm được tác giả miêu tả rất thực và thú
vị. Nghệ thuật nhân hóa liên tưởng “ sóng” biết cài then, “ đêm” biết sập cửa như
con người. Nhà thơ miêu tả vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là
tấm cửa khổng lồ, ngôi nhà đi vào nghỉ ngơi sau một ngày lao động vất vả.Trên nền
khung cảnh của buổi hồng hơn, nhà thơ miêu tả hình ảnh đồn thuyền ra khơi:
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Tác giả dùng nghệ thuật đối lập giữa con người với thiên nhiên. Hai câu đầu thiên


nhiên như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, hai câu sau mở ra hoạt động của con
người.Phó từ “ lại” được dùng để chỉ hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần, đây là cơng
việc bình thường hàng ngày của họ, họ ln chủ động trong cơng việc. Qua đó, tác
giả gợi nhịp điệu bình yên của cuộc sống. Hình ảnh ẩn dụ “ Câu hát căng buồm”


vừa tả thực, vừa lãng mạn, gợi tinh thần phấn khởi, hăng say, khí thế ra khơi đầy
hào hứng của những người dân chài….Vì vậy, những người dân chài đưa thuyền ra
khơi với tiếng hát tràn đầy niềm vui, tinh thần lạc quan phơi phới. Câu hát như trở
thành nguồn sức mạnh cùng ngọn gió căng buồm đưa con thuyền ra khơi.
Khổ hai làm rõ nội dung câu hát của người dân chài, qua đó ta hiểu mơ ước của
người dân chài khi ra biển:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta đồn cá ơi!
Ra khơi, họ mang biển lặng sóng êm, gặp được đàn cá và đánh bắt được nhiều.
Niềm mong ước ấy phản ánh tấm lịng đơn hậu của người ngư dân đã từng trải qua
sóng gió bão tố trên biển. Giọng thơ ngọt ngào, ngân nga. Niềm mong ước ấy được
thể hiện thông qua hình ảnh so sánh, ẩn dụ “ như đồn thoi” hết sức đặc sắc tạo nên
những liên tưởng thật thú vị. Lúc này mặt biển được ví như một tấm vải khổng lồ
( ẩn dụ) đặc biệt bằng hình ảnh của mn lồi cá. Cá thu rất nhiều, rất đơng, rất tấp
nập như đồn thoi đang bơi lội tung tăng trên mặt biển, bơi kín mặt biển, dệt nên
mặt biển bằng muôn luồng sáng. Liên tưởng này thật độc đáo. Cá vào lưới rất nhiều
đến để dệt nên tấm lưới của người dân chài.
Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa thật tinh tế, nhà thơ gọi cá cất lên
thật thân thương, trìu mến. Từ “ ta” vang lên rất đỗi tự hào. Khơng cịn cái tơi nhỏ
bé đơn độc lẻ loi của một Huy Cận xưa kia hay buồn chán mà là một cái ta tập thể
đầy sức mạnh. Có thể nói, khổ thơ là tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển và thể
hiện mơ ước của người dân chài trên biển quê hương.

Đến với khổ thơ thứ ba, khi miêu tả cảnh đánh cá trên biển, nhà thơ đã tập trung
để làm nổi bật lên tầm vóc lớn lao của đồn thuyền và người lao động. Hai câu thơ
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng./Lướt giữa mây cao với biển bằng” cho ta thấy
hình ảnh con thuyền được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong
phú và nghệ thuật phóng đại cho ta hình dung con thuyền có gió làm người lái,
trăng làm cánh buồm, nó đang lướt đi giữa không trung, giữa sự mênh mông của đất
trời.Thiên nhiên mở rộng cánh cửa đón những người lao động mới : Trên là trời cao
có trăng sáng, dưới là biển rộng bao la, ở giữa là đoàn thuyền đang lướt nhanh . Lúc
này con thuyền vốn nhỏ bé giữa biển cả bao la bỗng trở nên kì vĩ, lớn lao hịa nhập
vào cái mênh mơng của thiên nhiên vũ trụ. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi
để dị bụng biển.
Huy Cận đã khéo sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua hai câu thơ “ Ra đậu dặm xa
dò bụng biển,/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng”, cho ta thấy đoàn thuyền biết thăm


dò bụng biển và việc đánh bắt cá được dàn đan như một thế trận hào hùng. Hình
ảnh người lao động không được miêu tả trực tiếp nhưng ta thấy họ như một đồn
qn ra trận với khí thế tưng bừng, khẩn trương. Con thuyền và con người đang làm
chủ biển khơi, chinh phục biển khơi.Câu thơ thể hiện khí thế lao động khẩn trương,
sôi nổi của những người lao động mới yêu biển, yêu quê hương…Bút pháp lãng
mạn, trí tưởng tượng bay bổng, kết hợp với một loạt các động từ “ lái, lướt, đậu, dò,
dàn đan, vây giăng” tạo âm điệu khỏe khoắn, giúp nhà thơ xây dựng một hình ảnh
tuyệt đẹp giàu ý nghĩa về hình ảnh người dân chài.
Khổ thơ thứ tư cho ta thấy biển đêm hiện lên thật giàu và đep:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Biển đêm hiện lên thật giàu. Bằng thủ pháp liệt kê tên của các loài cá khác nhau cá
nhụ, chim, đé…là những loài cá quý ở vùng biển nước ta, mang lại giá trị kinh tế

cho ngành thủy sản Việt Nam. Biển khơng chỉ giàu mà cịn rất đẹp. Vẻ đẹp đó hịa
cùng với màu sắc của mn lồi cá trên biển : “ Cá song…….vàng chóe”.Với biện
pháp nghệ thuật nhân hóa, khi ánh trăng chiếu xuống, cá quẫy đi dưới ánh trăng
in trên mặt nước, thân cá có chấm màu hồng lấp lánh như ngọn đuốc đỏ rực giữa
đêm trăng. Từ láy “lấp lánh” và tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, “ vàng chóe” được
tác giả dùng đã tạo nên một bức tranh đẹp kì thú. Màu sắc của thân cá, mắt cá, đuôi
cá rực rỡ trong đêm trăng.
Câu thơ “ Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” được tác giả sử dụng nghệ thuật nhân
hóa độc đáo. Về đêm thủy triều lên, ánh trăng chiếu xuống, những con sóng dập
dờn, nhấp nhơ tạo cho biển như đang thở. Bầu trời đầy sao, cả không gian như ngập
tràn ánh sao, cảm giác ánh sao đang sà xuống, đùa giỡn, lùa sóng nước dập dờn.
Đây là một hình ảnh lạ, một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của thi nhân khiến cho
thiên nhiên càng sinh động, trữ tình và Hạ Long là một bức tranh kì thú. Tác giả là
người có tai quan sát tinh tế và có trí tưởng tượng bay bổng, diệu kì.
Khổ năm của bài thơ:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lịng mẹ
Ni lớn đời ta tự buổi nào
Hai câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào./ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” cho ta
thấy người dân chài hát bài ca gọi cá vào lưới. Tác giả tả thực động tác con người
gõ thuyền để gọi cá vào lưới đồng thời cũng nhân hóa trăng như con người đang gõ


vào mạn thuyền, đang gọi cá vào lưới.Đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ, thiên
nhiên và con người như hịa làm một khiến cho khơng khí lao động tưng bừng, hào
hứng, say mê….
Sang hai câu thơ “ Biển cho ta cá như lịng mẹ./ Ni lớn đời ta tự buổi nào”,
tác giả so sánh “ biển” với “ lịng mẹ” khẳng định sự bao dung, ân tình của biển cả.
Biển mang đến cho con người biết bao tài nguyên và từ ngàn đời nay biển đã nuôi

sống con người…Sự bao dung của biển với con người giống như tình yêu thương
của mẹ dành cho con. So sánh “ biển” với “ lịng mẹ” để nói lên lịng biết ơn, niềm
tự hào của người dân chài với biển cả quê hương…
Sang khổ sáu, hai câu thơ “ Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng/Ta kéo xoăn tay
chùm cá nặng” ta thấy hình ảnh con người khơng được miêu tả nhiều nhưng họ hiện
lên thật đẹp. Họ đang trong tư thế làm chủ thiên nhiên, họ khỏe mạnh, đẹp đẽ có thể
sánh cùng vũ trụ. Cụm từ: “ kéo xoăn tay”: đặc tả động tác kéo lưới căng, nặng,
hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, chỉ một từ “ xoăn” đã gợi cho ta hình dung những
bắp tay rắn chắc nổi cuồn cuộn khi kéo lưới đồng thời thấy được cái hăm hở, hào
hứng của những người lao động- người dân chài hiện lên với vẻ đẹp khỏe khắn, rắn
chắc.
Câu thơ “ Vẩy bạc đi vàng lóe rạng đơng” được tác giả dùng nghệ thuật tả
thực kết hợp hình ảnh ẩn dụ “ bạc - vàng” khơng chỉ là hình ảnh của vây cá, đi cá
lóe lên dưới ánh bình minh rạng rỡ mà còn gợi đến vàng, bạc, châu báu của biển cả
ban tặng con người. Câu thơ cũng cho ta thấy sự giàu có của biển cả, thái độ trân
trọng thành quả lao động và lòng biết ơn của họ trước sự ưu ái của biển cả cho con
người.
Câu thơ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”, một câu thơ có ba động từ xếp liền
nhau “ xếp, lên, đón” thể hiện cơng việc lao động khẩn trương, con người chạy đua
với thời gian. Lúc này công việc nặng nhọc của người dân chài đã trở thành bài ca
tràn đầy niềm tin, nhịp nhàng với thiên nhiên. Đó là thành quả của một quá trình lao
động vất vả, khoang thuyền đầy ắp cá khiến cho ánh bình minh rạng rỡ hơn, một
ngày mới tưng bừng hơn.
Hình ảnh câu hát lại mở đầu cho khổ thơ “Câu hát căng buồm với gió khơi,”.
Câu hát đã theo suốt cuộc hành trình của người dân chài. Câu hát mở đầu lúc họ bắt
đầu lên đường ra khơi và khi trở về lại những câu hát ấy. Câu hát lúc ra đi là câu hát
cùng gió đẩy thuyền ra khơi thể hiện khí thế hăng hái, lạc quan, tin tưởng khi trở về
con thuyền sẽ đầy ắp cá tươi.Câu hát lúc trở về là câu hát sung sướng, phấn khởi, là
khúc ca khải hoàn trước thành quả lao động sau một đêm vất vả. Ở khổ cuối ta cịn
thấy hình ảnh mặt trời cũng xuất hiện:nếu ở khổ đầu là mặt trời của hồng hơn thì

đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự
sống sinh sôi nảy nở, là khởi đầu của niềm vui, hạnh phúc mà người dân chài có


được sau một chuyến hành trình vất vả. Đặc biệt, ở khổ cuối có một hình ảnh hay và
lãng mạn:
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Nhà thơ đã lấy một sự vật bé nhỏ, bình dị là “ con thuyền” để ngầm so sánh với
hình ảnh vĩ đại của thiên nhiên là “ mặt trời”. Nghệ thuật hoán dụ ở từ “ đoàn
thuyền” để chỉ những người dân chài. Nghệ thuật nhân hóa, nói quá để chỉ mặt trời.
Câu thơ đã làm nổi bật tư thế của người lao động, sánh ngang tầm vũ trụ…
Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền trở về bến:
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.
Nhà thơ đã miêu tả chính xác sự chuyển động của mặt trời, đồng thời kết thúc một
đêm lao động của con người. Ta lại bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác, khơng phải
của thiên nhiên mà của muôn ngàn mắt cá lấp lánh trong buổi bình minh. Đó là
niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa cá.Nó làm nổi bật tư thế làm
chủ biển khơi của những người lao động yêu nghề…
Qua bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài “ Đồn thuyền
đánh cá ”, ta có nhận xét về cái nhìn, cảm xúc của tác giả. Đây là cái nhìn và cảm
xúc của một nhà thơ đã đắm mình trong cuộc sống mới của nhân dân, của đất nước
được thể hiện ở các mặt sau: Tin yêu vào cuộc sống mới và những người lao động
đã thực sự làm chủ cuộc sống đó trên miền biển quê hương và đất nước. Từ đó mà
nhìn thấy những vẻ đẹp trong lao động của họ. Ca ngợi cuộc sống mới dạt dào
niềm vui của những người lao động làm chủ. Ca ngợi thiên nhiên, đất nước giàu
đẹp và thơ mộng ( biển, cá, bầu trời, mặt trời, mây, gió, trăng, sao). Đặc biệt, nhà
thơ ca ngợi sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người làm chủ thiên nhiên một cách
có ý thức.
Bài thơ “ Đồn thuyền đánh cá” có âm hưởng vừa khỏe khoắn, sơi nổi, vừa

phơi phới, bay bổng. Âm hưởng ấy được tạo thành bởi: Lời thơ dõng dạc.Dùng
nhiều biện pháp tu từ. Âm điệu thơ như khúc hát say mê hào hứng với chữ “ hát”
lặp đi lặp lại 4 lần khiến bài thơ như một khúc ca- khúc ca của tình yêu lao động.
Thể thơ 7 chữ, nhịp 4/3 là chủ yếu nên rất khỏe khoắn. Vần liền xen cách, vần trắc
xen bằng. Vần trắc tạo nên sức mạnh, sức dội, còn vần bằng tạo nên sự vang xa bay
bổng cho lời thơ. Hình ảnh thơ lặp lại theo kết cấu đầu cuối tương ứng.
Các yếu tố trên đã tạo cho bài thơ âm hưởng, giọng điệu đầy sức sống, thể hiện
niềm lạc quan, vui tươi, phấn khởi của người dân chài khi lao động và hồn thơ phơi
phới, lòng yêu cuộc sống của tác giả Huy Cận trong những năm đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×