Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM một số BIỆN PHÁP rèn kĩ NĂNG PHÁT âm CHUẨN CHO học SINH lớp 1 TRONG PHÂN môn TIẾNG VIỆT CHƯƠNG TRÌNH mới năm 2022 – 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.84 KB, 12 trang )

UBND THÀNH PHỐ THANH HÓA
TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TÂM

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG PHÁT ÂM CHUẨN CHO HỌC
SINH LỚP 1 TRONG PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT CHƯƠNG TRÌNH
MỚI NĂM 2022 – 2023

Năm học 2022 - 2023


I.1. Lí do chọn đề tài:
Chúng ta biết rằng một nền giáo dục tiên tiến tạo ra được nguồn
nhân lực chất lượng cao có khả năng đóng góp cho sự phát triển năng lực
khoa học - công nghệ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững là cái đích
mà tất cả các quốc gia đều nhắm tới. Mục tiêu của nền giáo dục là mang
đến cho học sinh niềm say mê học tập, khát khao được vươn tới những
chân trời mới của tri thức với một niềm tin mãnh liệt rằng mình có thể
thực hiện được khát vọng đó. Nói cách khác giáo dục phải đặt trọng tâm
vào việc khơi dậy sự say mê học tập, kích thích sự tò mò và sáng tạo của
học sinh để các em có khả năng kiến tạo kiến thức từ những gì nhà
trường mang đến cho họ để học sinh thấy được mỗi ngày đến trường là
một ngày có ích. Như vậy một nền giáo dục tiên tiến không đặt trọng tâm
vào việc giúp người học tiếp thu các tri thức khoa học mà nhà trường
mang lại cho họ. Mà mục tiêu của nền giáo dục đó là giúp người học nhận
ra được những năng lực trí tuệ của mình để đi tìm tiếp những lời giải cho
những vấn đề chưa hẳn hoàn toàn đã viết theo con đường phù hợp nhất
với năng lực trí tuệ của bản thân. Vì vậy trong cơng cuộc xây dựng đất
nước trở thành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện chỉ thị
06-CP/TW của bộ chính trị về việc thực hiện cuộc vận động " Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; thực hiện cuộc vận động "


Mỗi thầy cơ là một tấm gương đạo đức tự học tự sáng tạo cho học sinh
noi theo". Thực hiện theo công văn sử dụng làm đồ dùng có sẵn và đồ
dùng tự làm trong mỗi tiết dạy. Thực hiện thông tư 30/2014/TT-BGDĐT
về quy định đánh giá học sinh tiểu học giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học như hiện nay. Tôi tự
nhận thấy bậc tiểu học là một nền tảng mang tính hội tụ tồn diện trong 9
mơn học. Đặc biệt ở lớp 1 Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền
móng các mơn học khác. Mơn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ
Trang 2


vơ cùng quan trọng đó là hình thành 4 kĩ năng: Nghe- nói- đọc - viết cho
học sinh. Tập đọc là một trong những phân mơn của chương trình giảng
dạy ở bậc tiểu học. Vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho
học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu cho học sinh ở
bậc tiểu học. Kĩ năng đọc có nhiều mức độ đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý
thức, đọc diễn cảm. Bên cạnh những thành cơng cịn có nhiều hạn chế là
học sinh của chúng ta chưa đọc được như mong muốn các em chưa nắm
được công cụ để lĩnh hội được tri thức, tư tưởng, tình cảm của người
khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Nên việc dạy đọc phải có định
hướng, có kế hoạch. Đặc biệt là học sinh lớp 1 lớp đầu cấp. Việc dạy đọc
cho học sinh thật vơ cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt ở lớp 1 thì khi
học ở các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn,
mà mục tiêu của môn Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục các em yêu
Tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt, sự giàu đẹp của âm
thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế
nhưng mặt âm thanh của ngôn ngữ chưa được chú ý đúng mức, cần đọc
bài tập đọc với giọng như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi cho học sinh
khi phát âm, làm thế nào để phát âm chuẩn? Để từ đó các em đọc hay
hơn diễn cảm hơn và làm tiền đề cho các em hiểu văn bản được đọc, để

cho những gì các em đọc được tác động vào cuộc sống của các em. Đó là
những trăn trở của tơi trong mỗi tiết dạy tập đọc. Vì vậy, tơi chọn đề tài:
" Rèn phát âm chuẩn cho học sinh lớp 1 trong phân môn Tiếng Việt ".

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
b.1. Giải pháp thứ nhất: Rèn cho học sinh phát âm theo mẫu.
Giáo viên cần luyện kĩ năng phát âm chuẩn cho học sinh ngay từ chữ cái
đầu tiên. Muốn học sinh phát âm chuẩn trước hết giáo viên phải phát âm
chuẩn, phải biết cách lắng nghe và quan sát cách phát âm của từng học sinh
để nhanh chóng nhận ra lỗi phát âm của các em là do đâu. Từ đó giáo viên
lập kế hoạch hướng dẫn cho các em phát âm theo mẫu. Giáo viên phải tạo
Trang 3


điều kiện cho học sinh tự quan sát và lắng nghe lời đọc của bạn. Cho học sinh
tự nêu lỗi phát âm của mình. Sau đó giáo viên hướng dẫn cách phát âm của
chữ em phát âm chưa đúng và nghe cơ đọc mẫu. Từ đó các em phát âm lại
theo âm chuẩn thật chính xác.
Ví dụ: Học âm v trong lớp có 8 em là tiếng của miền Nam các em phát âm sai
giữa v/d, giáo viên hưỡng dẫn phát âm trước và sau đó gọi học sinh đọc
chuẩn đọc trước, tiếp theo gọi em phát âm chưa đúng luyện đọc lại.
b.2. Giải pháp thứ hai: phân tích giữa âm và chữ ghi âm:
Giáo viên hướng dẫn cách phát âm của từng chữ ví dụ: âm "v" với phụ
âm v giáo viên cần mơ tả vị trí của lưỡi; răng trên ngậm hờ môi dưới, hơi ra
bị sát nhẹ rồi giáo viên phát âm mẫu, học sinh Nam, Thảo, Nhi luyện đọc
theo.
Tương tự với âm tr đầu lưỡi chạm vào vịm cứng bật ra khơng có tiếng
thanh. Âm ch lưỡi trước chạm lợi rồi bật nhẹ, khơng có tiếng thanh
(trăn/chăn. tre/che...).
Âm l/n: âm l lưỡi đưa lên chạm lợi hơi đưa ra từ họng xát nhẹ, âm n đầu

lưỡi chạm lợi hơi thốt ra cả miệng lẫn mũi.
Ví dụ: la/na; nón/lón; làng/nàng;...).
Âm s/x: âm s uốn đầu lưỡi về phía vịm hơi thốt ra xát mạnh khơng có
tiếng thanh, âm x khe hẹp phía đầu lưỡi và răng-lợi hơi thốt nhẹ khơng có
tiếng thanh
Ví dụ: sẻ/xẻ; say/ xay; sương/xương;.... Trong khi hướng dẫn học sinh
đọc giáo viên kết hợp với tranh ảnh, vật thật và sau mỗi bài học các âm tôi đã
cho các em luyện đọc ngay ở tiết luyện đọc, luyện nói vào buổi chiều và cả
trong các môn học khác để khắc sâu kiến thức hơn.
b.3. Giải pháp thứ ba: Giáo viên chữa lỗi phát âm chưa đúng thanh điệu
cho học sinh:
Trong các lớp tôi nghiên cứu có gần 2/3 là học sinh nói tiếng của miền
Trung. Các em thường phát âm chưa đúng ở các tiếng chứa dấu thanh Vì vậy
Trang 4


tơi phân tích các tiếng rồi cho học sinh phân biệt các dấu thanh gắn trên các
tiếng đó, sau đó đọc mẫu và hướng dẫn các em cách phát âm đúng, từ đó các
em đọc theo và giáo viên uốn nắn sửa chữa kịp thời.
- Ví dụ: Thanh ngã các em hay lẫn với thanh nặng như: "dũng / dụng,
mỡ/mợ, nỡ / nợ, ...).
Giáo viên đưa ra một số tiếng từ chữa dấu thanh học sinh thường đọc
không đúng và nêu tác hại khi phát âm không đúng người nghe sẽ hiểu nghĩa
khác đi rồi yêu cầu học sinh luyện đọc đúng theo nhiều hình thức cá nhân,
nhóm, đơi bạn cùng đọc cho nhau nghe.
b.4. Giải pháp thứ tư: Giáo viên chữa lỗi phát âm bằng cách phân tích
âm và vần:
Giải pháp này là giáo viên phân tích các âm học sinh thường phát âm
chưa đúng rồi giáo viên đọc mẫu. Luyện cho học sinh đọc phân biệt l/n, tr/ch,
s/x, v, r /d bằng cách nói các từ ngữ, câu tập trung nhiều phụ âm l/n, tr/ch...

Trong lớp có nhiều học sinh là nói tiếng miền Trung Nam bộ các em
thường đọc chưa đúng vần có kết thúc bằng n, t, nh như: nhăn nhó/nhăng
nhó, tát nước/tác nước, bát ngát/ bác ngác, nhanh nhẹn... Hoặc các vần uôn
học sinh đọc là un, ươu / iêu, ưu/iu. luyện đọc các câu khó như: “Trùng triềng
như nón khơng quai”. “Ấm đẹp lịng người lúa lổ lung linh”. “Đi Hà Nội mua
cái nồi nấu cơm nếp”. “Chăn rách giặt sạch vắt cành chanh”. “Lúa lên lớp
lớp nồng nàn lâng lâng”. Sau đó các em luyện theo nhiều hình thức tổ, nhóm,
cá nhân.
b.5. Giải pháp thứ năm: Giáo viên chữa lỗi phát âm bằng cách luyện tập,
thực hành trong các môn học:
Giáo viên luôn động viên nhắc nhở các em phải luôn mạnh dạn rèn phát
âm chuẩn trong tất cả các môn học, chú ý, quan sát, lắng nghe cô giáo hướng
dẫn, tự tin, chăm chỉ trong học tập, biết phối hợp cùng bạn bè, mạnh dạn hỏi
thầy, cô giáo và bạn bè khi mình chưa hiểu, ln có ý thức luyện phát âm
đúng. Không những trong phân môn tập đọc mà các em cần phải phát âm
Trang 5


chuẩn trong các mơn học khác như: Tốn khi đọc số, đọc u cầu bài tập, bài
tốn có lời văn.Nếu đọc không đúng người nghe sẽ không hiểu được bài tốn.
Trong phân mơn Âm nhạc giáo viên cũng cần hưỡng dẫn. Âm vực của thanh
huyền thấp hơn thanh sắc nên tập hát thanh sắc thành thanh huyền, không
thanh rất thuận lợi. Chẳng hạn học sinh hát câu "Cái cây xanh xanh, thì lá
cũng xanh. Bé bé bằng bơng, hai má hồng hồng" hoặc luyện phát âm thanh
điệu cho học sinh hát câu" Mặt trời soi rực rỡ..."
Hằng ngày dành thời gian hợp lí để đọc báo măng non, đọc truyện trong
sáng lành mạnh. Khi giáo viên nắm chắc các biện pháp chữa lỗi phát âm và
đã phát âm đúng, chuẩn, rõ ràng, diễn cảm rồi thì người đọc dễ dàng phát âm
chuẩn.
b.6 Giải pháp thứ sáu: Sử dụng tranh ảnh và dụng cụ học tập một cách

thường xuyên trong tiết dạy:
Tranh ảnh và đồ dùng dạy học rất quan trọng không thể thiếu được trong
việc dạy học nhất là ở phân mơn tập đọc. Càng có tranh ảnh, đồ dùng thì
càng tạo nên sự hứng thú của học sinh trong tiết học. Chính vì vậy, mỗi tiết
học, giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, nắm được mục tiêu của từng bức
tranh, cách sử dụng đồ dùng,…
Khi dạy Tập đọc lớp 1 phải thường xuyên sử dụng tranh, ảnh, vật thật
phù hợp với nội dung từng bài học.
Đồ dùng dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, phát triển kĩ năng
thực hành. Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh. Phát triển trí tuệ, giáo
dục nhân cách cho học sinh.
Đồ dùng dạy học giúp cung cấp các kiến thức một cách chắc chắn. làm
cho việc giáo dục trở nên cụ thể hơn, nhẹ nhàng hơn. Giúp giáo viên kiểm tra
khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh.
Vào những buổi học ôn luyện tôi thường cho các em làm các bài tập
chính tả và phát âm bằng bảng đồ dùng như sau:

Trang 6


BẢNG RÈN PHÁT ÂM VÀ RÈN CHÍNH TẢ
PHỤ ÂM ĐẦU
tr và ch
s và x
v và d
r,d và gi lời, ...
PHỤ ÂM CUỐI
c và t
n và ng
NGUYÊN ÂM

i và iê, o và ơ

chân lí, trân trọng, chân thành, leo trèo, chăn trâu,...
xử lí, sử dụng, ...uất khẩu, năng ...uất, chim ...ẻ, ...
...ội vàng, ...ội nước, ...ì sao, ...ì dưỡng, ...ân
...ành độc lập, tranh ...ành, ...ành rọt, ...ành dụm, ...

Đậm đặc...,đánh giặ..., bột giặ..., mặ... người, mặ... kệ.
cái bà.., biên bả..., đúng đắ..., thuốc đắ..., mặt tră...,...
dịu dàng, tuyệt d...u, con ch...m, ch...m ngưỡng, ...
đ...c giả, đ...c sách, g...c vuông, g...c cây, tập đ...c, ...

b.7. Giải pháp thứ bảy: Giáo viên kết hợp với phụ huynh rèn phát âm
cho học sinh:
Biết được đặc điểm phát âm sai do phương ngữ của gia đình ngay cuộc
họp phụ huynh đầu năm tơi đã mạnh dạn nêu ra những lỗi phát âm của học
sinh thường mắc phải. Những lỗi đó đa số do ảnh hưởng của phương ngữ nếu
sửa lỗi một mình trên lớp học chưa đủ. Tôi đã nhờ các bậc phụ huynh kết hợp
với cô giáo sửa lỗi phát âm ngay cả khi giao tiếp ở nhà bằng nhiều hình thức
như: nói chuyện, đọc truyện cho bố mẹ nghe...Vì bố mẹ là chìa khóa mở ra
cánh cửa trí tuệ và tài năng cho trẻ đặc biệt là ni dưỡng tâm hồn lẫn trí tuệ
phát triển ngôn ngữ và sáng tạo. Muốn làm được điều đó phụ huynh cần
trang bị đầy đủ đồ dùng, sách học ở nhà, nói chuyện giao tiếp bằng tiếng phổ
thơng, hạn chế sử dụng tiếng địa phương khi nói chuyện với trẻ. Định hướng
cách học cho các em đưa lại kết quả tốt nhất.
b.8. Giải pháp thứ tám: Giáo viên rèn cho học sinh sự động não.
Nhà tâm lí học người Nga đã nói: "Một ý tưởng hay giống như một
Trang 7



đám mây chữ nghĩa". Khi động não học sinh đã sản xuất ra một dòng ý
tưởng, chảy xối xả mà ta có thể thu gom lại trên bảng đen những sản phẩm
quý từ nguồn cảm hứng dồi dào và chân thật. Có thể gây động não cho bất cứ
gì. Ý tưởng cho một đề án tập thể, suy nghĩ cho một bài học, buổi học của
lớp. Học sinh nghĩ được gì đều nói và ghi lại tất tuyệt đối khơng được ai chỉ
trích và bàn lùi ý kiến của bạn, bất cứ ý kiến nào cũng quý. Sau khi tất cả
học sinh đều đã nói lên được suy nghĩ đóng góp của mình. Giáo viên sắp xếp
phân loại và mời mọi người bàn luận, phân tích, khai thác, chọn lọc. Giải
pháp giúp mọi học sinh được dịp đề xuất ý kiến của mình cho tập thể bàn
luận và khai thác, tận dụng.
b.9. Giải pháp thứ chín: Rèn tính tự giác, tự tin, chủ động, tích cực, hợp
tác trong học tập.
Khi nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển, tri thức khơng những
là sản phẩm q báu của con người mà nó có vai trị cực kỳ quan trọng là:
“Dùng trí thức để tạo ra trí thức mới” đó là khi học sinh được lĩnh hội lượng
kiến thức học được trong nhà trường từ bậc mầm non đến đại học trở nên ít
ỏi và mau chóng lạc hậu, khơng đủ dùng trong suốt cuộc sống hàng ngày. Vì
vậy, để đáp ứng với nền kinh tế trí thức, trong sự bùng nổ công nghệ thông
tin, bùng nổ về khoa học kỹ thuật thì việc học tập suốt đời mặc nhiên trở
thành một nhu cầu tất yếu của con người, buộc mỗi thành viên trong xã hội
phải luôn là một học sinh, phải học tập thường xuyên dù đang ở cương vị
nào, độ tuổi nào, nhưng để học tập thường xuyên, học suốt đời có kết quả thì
phải biết “ Tự học”, “Tự tìm tịi”, “Tự khám phá” vì chúng ta làm gì có thầy
giáo, cơ giáo dạy cho hàng ngày hay ở bên cạnh ta suốt đời. Chính vì thế, vai
trị của người giáo viên trong bước đầu giúp học sinh hình thành khả năng “
Tự lực” trong học tập ở cấp đầu tiên là khá quan trọng, là tiền đề cho khả
năng tự học khi lớn lên. Vậy thế nào là tính tự lực trong học tập ? Hiểu được
nội dung câu hỏi. Tôi nghĩ rằng nên rèn cho học sinh tính “ Tự học” khi các
em cịn nhỏ là rất quan trọng, người giáo viên giúp các em hiểu và khắc sâu
Trang 8



tự lực học tập là một phẩm chất, nhân cách quan trọng của con người được
hình thành trong quá trình hoạt động học tập của chủ thể. Nó là mục đích, là
động cơ học tập đúng đắn, ln ln bồi dưỡng năng lực học tập và tự tổ
chức học tập cho bản thân, người học có sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực và ý
chí nhằm lĩnh hội trí thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo để thỏa mãn nhu cầu
nhận thức nói chung và học tập nói riêng của bản thân.
Ví dụ: Những bài thực hành tìm từ, đặt câu chữa các âm, vần vừa học.
Giáo viên chỉ cần ghi mục đề và định hướng phương pháp học tập cho học
sinh những yêu cầu cần đạt, các em phải tự lực học tập về rèn luyện, tư duy
theo hướng tích cực của chính mình.
b.10. Giải pháp thứ mười : Giúp học sinh chia sẻ, hợp tác với bạn bè cùng
lứa tuổi.
Một số học sinh cần thời gian mới hiểu được lời nói hay hành vi của người
khác. Những học sinh hướng ngoại đó thường tận dụng được lối học tập thể.
Nhưng vì học sinh đều có trí tuệ giao tiếp ở mức độ này hay mức độ khác nên
giáo viên phải biết tận dụng lối tiếp cận đòi hỏi một sự tương tác giữa nhiều
người trong cộng đồng.
Chia sẻ là chiến lược dễ thực hiện nhất. Tất cả điều cần làm là cho học sinh "
Hãy quay mặt về phía bạn và trao đổi ...". Cũng có thể giáo viên thành lập một
nhóm trung tâm để mỗi khi học sinh muốn trao đổi thì đều hướng về một bạn đã
chỉ định. Cũng có thể khuyến khích học sinh trao đổi với nhiều thành viên khác
nhau của lớp để đến cuối năm học mỗi học sinh đều đã ít nhất một lần trao đổi
với tất cả các bạn trong lớp. Thời gian trao đổi có thể rất ngắn (30 giây) hoặc
kéo dài trong một tiết học. Việc trao đổi với người cùng trang lứa có thể thực
hiện bằng hình thức một em kèm một em hay nhiều em khác về một chủ đề. Các
nhóm học hợp tác tạo cho các em những dịp tốt để tập sự làm thành viên của
một tổ chức xã hội trong cuộc sống thực tế sau này.
b.11. Giải pháp thứ mười một: Luyện phát âm chuẩn bằng các trò chơi trên

bảng.
Trang 9


Trò chơi trên bảng là một cách học thú vị để làm quen với một sinh hoạt xã
hội. Một mặt các em có thể trị chuyện, và cười đùa. Mặt khác các em có dịp
được học thêm những kĩ năng và cả nội dung chủ đề của trò chơi. Những trò
chơi như thế này rất dễ thực hiện bằng cách sử dụng các kẹp tài liệu, các bút viết
hay chỉ cần một tấm bìa cứng. Chủ đề có thể nhiều lĩnh vực kĩ xảo ngơn ngữ,
thơng tin cần học có thể đặt vào các hình vng, ... Học sinh bốc thăm và đọc rồi
trả lời câu hỏi.
Giải pháp này giúp học sinh khắc sâu trong trí nhớ hơn và hứng thú học hơn.
b.12. Giải pháp thứ mười hai: Động viên khuyến khích học sinh bằng
nhiều hình thức như phát phần thưởng...
- Theo thơng tư 32 khuyến khích học sinh để động viên, khích lệ giúp
đỡ các em học tập và rèn luyện thì hàng tuần, hàng tháng tơi đã kết hợp với
ban phụ huynh của lớp cùng với học sinh tham gia nhận xét, đánh giá học
sinh bằng các hình thức phù hợp và trao phần thưởng như tặng bút, thước kẻ,
tẩy cho những học sinh có tiến bộ rõ rệt trong tuần, trong tháng dù giá trị vật
chất của phần q khơng lớn nhưng nó lại mang giá trị tinh thần rất lớn để
động viên học sinh có hứng thú phấn đấu trong học tập. Qua thực hiện tôi
thấy học sinh thi đua học tập rất tốt.
1.Kết luận:
Tôi nghĩ những giải pháp nêu trên có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp đó
là những yếu tố khơng thể thiếu được để nâng cao chất lượng dạy học. Tôi
mong rằng kinh nghiệm này sẽ được nhân rộng ra ở các lớp ở bậc tiểu học
nói chung và đặc biệt là ở lớp 1 nói riêng để tạo cho các em có một hành
trang đầy tự tin khi học phân môn này. Là giáo viên ở bậc Tiểu học tôi nghĩ
rằng, người giáo viên cần phải tăng cường sử dụng các phương tiện, đồ dùng
dạy học, đổi mới cách đánh giá, kiểm tra. Bên cạnh đó người giáo viên phải

có lịng nhiệt tình, tâm huyết trong việc giảng dạy. Thường xuyên theo dõi,
quan tâm, giúp đỡ đến mọi đối tượng học sinh. Tạo điều kiện để tất cả các em
Trang 10


đều được hoạt động. Tổ chức cho các em tự phát hiện, tìm tịi ra kiến thức
mới từ đó sẽ phát huy được óc tư duy sáng tạo, tính độc lập, tự giác cho các
em. Bên cạnh đó cần thường xuyên trao đổi, liên lạc với phụ huynh học sinh
để phối kết hợp với phụ huynh nhằm giúp đỡ các em một cách kịp thời trong
quá trình học tập.
- Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên phát hiện được những sai sót
của học sinh, tìm hiểu ngun nhân của những lỗi sai đó và tìm ra những biện
pháp khắc phục kịp thời thì hiệu quả các tiết học chắc chắn sẽ được nâng cao.
- Trong thời gian tìm tịi và nghiên cứu, khi áp dụng những giải thực
nghiệm đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên do thời gian và trình
độ cịn hạn chế, vì vậy khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tơi rất
mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học quý cấp để sáng kiến
kinh nghiệm áp dụng rộng rãi hơn trong q trình giảng dạy nói riêng và giáo
dục hóa nói chung.

Trang 11


Trang 12



×