Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

quá trình hình thành và phương pháp luận trường phái Jaina

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.98 KB, 11 trang )

I/ SỰ HÌNH THÀNH CỦA TRƯỜNG PHÁI JAINA
Trường phái triết học Jaina cho nhiệm vụ chính của mình là chỉ ra con
đường và phương tiện để giải phóng linh hồn bất tử ra khỏi sự ràng buộc của thể
xác và thế giới nhục dục. Nhưng họ lại phủ nhận sự sáng tạo ra thế giới của
Thượng đế, thần linh hay một lực lượng “Tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman nào
đó. Chính vì thế, trường phái Jaina đã được xếp vào hệ thống triết học khơng
chính thống.
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Jaina là nhà hiền triết Nagantha
Nataputta (gia tộc Nata), có tên riêng là Vardhamana, là con trai của vị võ tướng
quý tộc Ks’atriya có nhiều quyền lực thuộc bộ lạc Lichchavi, tên là Siddhavira
cùng phu nhân là Trisana. Ông sinh năm 557 TCN và mất năm 485 TCN, ông nổi
tiếng với danh hiệu tôn quý như Mahavira (Đại hùng) và Jina (Thắng giải). Tên
gọi của trường phái triết học này, Jaina, xuất phát từ biệt hiệu Jaina ấy.
Vardhamana lớn lên trong gia đình quyền quý và được tiếp nhận một nền
giáo dục căn bản dành cho đẳng cấp Ks’atriya. Khi đến tuổi trưởng thành,
Vardhamana kết hôn và có một con gái. Có lẽ đó là một đạo sĩ có thật trong lịch
sử, tương truyền xuất thân từ Benares, đám môn đồ của ông được gọi là Nigantha
(Ni Kiênf Tử - Ly Hệ Phược). Ông cho rằng sự tái sinh là bất hạnh mà sự chết là
một đại phúc trời ban, cho nên, ông thực hiện một phương pháp tu luyện kỳ quặc
theo giáo lý khổ hạnh thật nghiêm khắc đến độ đạt tới sự thanh tịch tinh thần để
tiêu trừ dục vọng, diệt trừ nghiệp quá khứ. Họ giảm mức ăn uống xuống dần cho
đến khi sức sống của thân thể triệt tiêu dần cho đến chết, và như thế, chết rồi
khơng cịn tái sinh được nữa. Theo bước chân cha mẹ, người anh trai lớn của
Vardhamana là Nandivarhana lãnh nhiệm vụ chính trị và dùng thế lực ở Vaishali
để truyền bá đạo Nigantha khổ hạnh. Khi Vardhamana 31 tuổi, cha mẹ ông đã tự ý
tuyệt thực để quyên sinhvào dịp đầu mùa đông khoảng năm 527 TCN. Vô cùng
1


đau khổ về hai cái tang đó, Vardhamana khơng màng thế tục, danh vong, bỏ hết
của cải, nhà cửa, y phục đi lang thang khắp miến Tây Bengale như một nhà tu khổ


hạnh để diệt dục vọng, diệt ý chí sống, tìm huệ giác nhằm đạt tới sự tinh khiết của
linh hồn. Lúc đầu, ông làm du sĩ khổ hạnh, chỉ đắp một y, nhưng sau mười ba
tháng ơng thốt y và từ đó “mặc khơng khí”, tức lõa thể. Vardhamana tự buộc
mình vào những điều luật rất khắc nghiệt. Tương truyền ơng đã dựng một bức
tường cao quanh mình để hành thiền bên trong. Sau hai năm hai tháng hành thiền
như vậy, ông bắt đầu du hành từ vùng Trung nguyên tiến vào phía Tây vịnh
Bengale. Sau mười ba năm hồn tồn thốt ly xã hội, tu luyện khổ hạnh, ép xác,
Vardhamana giác ngộ thành “Thắng giả” (Jina- có nghĩa là người chiến thắng hay
người chinh phục), và ông được coi là bậc “toàn tri kiến”, tức một đại sứ đồ, một
bậc thánh nhân, mà nhiều người cho rằng cứ cách một khoảng thời gian nhất định
lại xuất hiện trên thế gian này, đem ánh sáng chân lý và đạo đức lý tưởng chỉ lối
cho nhân loại đang ngụp lặn trong tội lỗi và sa đọa. Các môn đệ của ông đã đổi tên
ông thành Mahavira, tức là “Vị anh hùng vĩ đại”, và tự gọi là phái Jaina, theo tư
tưởng triết học và tín ngưỡng đặc biệt của họ.
Sau ba mươi năm hành đạo và tạo nên sự nghiệp, Mahavira từ trần tại Pava
(nay là Pavapuri) gần Patna vào năm 485 TCN , do ơng tự nhận đói chết. Tư
tưởng triết lý của đạo Jaina được ghi lại trong kinh điển Phật giáo cổ bằng tiếng
Pali, nhưng lại thiếu phần chủ yếu của hệ thống triết học này. Thế kỉ II sau công
nguyên, các môn đồ của phái Jaina đã ghi chép lại khá đầy đủ tư tưởng của phái
Jaina và được lưu truyền theo ngôn ngữ Ardhamagadhi của sư tổ Mahavira cùng
với ngôn ngữ Sanskrit.
Trước thời Vardhamana, người Ấn Độ đã căn cứ vào sự nghiệp tu luyện và
công đức của các bậc đạo sĩ mà tôn được 23 vị đại đức lên thành bậc cứu thế
(Jirthamkara). Vardhamana được tôn thành bậc cứu thế thứ 24. Sau khi ông mất,
Jaina giáo cùng với Phật giáo song song phát triển. Jaina được coi là một trong hai
2


trường phái triết học tôn giáo lớn phát triển và ảnh hưởng rộng rãi ở miền Tây Bắc
Ấn.

II/ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC JAINA
1. Quan niệm về thế giới
Cơ sở triết lý của phái Jaina là học thuyết vê những bản chất, những ẩn
nguyên là chất liệu ban đầu tạo dựng nên thế giới và đồng thời là chân lý cơ bản
để từ đó xây dựng nên tri thức. Hai bản chất đó chính là:
- Jiva, tức linh hồn hay sinh mệnh.
- Adjiva, tức tất cả nhưng gì khơng phải là linh hồn.
Theo Mahavira, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, dù thiên hình vạn
trạng, đều do các loại thực thể đó cấu thành. Trong đó, nếu linh hồn ứng hiện vào
loại thực thể vật chất nào thì thực thể đó có sinh mệnh. Cịn lại là loại thực thể phi
sinh mệnh.
Bản chất linh hồn Jiva tuy vơ hình, nhưng thực sự vẫn tồn tại, bởi vì, khi
linh hồn đem lại sinh mệnh cho cá loại vật chất chứng tổ linh hồn tồn tại. Vậy linh
hồn là “sinh mệnh nằm trong thực thể”. Tuy nhiên, khi nào linh hồn rút cái năng
lực sinh mệnh của mình ra khỏi thực thể vật chất thì linh hồn sẽ trở lại hư vơ, chứ
nó khơng ở lại và tiêu tan cùng với thực thể.
Những thực thể phi linh hồn (adjiva) gồm có bốn loại là:
-

Vận động (dharma – pháp),
Đứng im ( adharma – bất pháp),
Hư không (akasa),
Vật chất (pudgala).
Như vậy, trong tồn thể vũ trụ chỉ gồm có năm loại thực thể, đó là vận

động, đứng im, hư không, vật chất ( là những loại thuộc về adjiva) và linh hồn

3



(jiva). Trong vũ trụ, linh hồn và phi linh hồn ln tương nhau để tạo thành vạn
vật.
Thực thể có hai loại thuộc tính: thuộc tính căn bản và thuộc tính ngẫu nhiên.
Các thuộc tính hay các dấu hiệu căn bản tồn tại trong thực thể chừng nào thực thể
đó vẫn tồn tại. Nhờ chúng nên thực thể có bản chất khơng thay đổi và có tính tất
nhiên. Ngồi các thuộc tính, các dấu hiệu căn bản, thực thể cịn có những thuộc
tính khơng căn bản, có tính ngẫu nhiên. Các thuộc tính này xuất hiện rồi lại mất
đi. Chính các thuộc tính khơng căn bản đã giải thích vì sao thực thể có tính chất
thường xun biến đổi và ln biến dạng. Tính khơng biến đổi tồn tại thực tế
chừng nào thực thể còn tồn tại như cũ, và sự biến đổi cùng tồn tại thực tế, khi xét
về bên ngoài, thực thể biến đổi theo các điều kiên khác nhau.
Tính thực tại của thực thể được đắc trưng bằng ba yếu tố sau đây: tính biến
đổi, sự sinh ra và sự tiêu tan. Thế giới gồm có các thực thể thường xuyên xuất
hiện, tồn tại và tiêu hủy, còn bản thân thế giới thì khơng có khởi đầu và kết thúc;
nó tồn tại vĩnh viễn trong hư khơng (akasa). Hư không là cái biển bao la vô cùng
vô tận, trong đó, bao chứa sự sinh tồn của tồn bộ các lại thực thể. Các thực thể lại
chia ra thành các thực thể có tính quảng tính và các thực thể khơng có tính quảng
tính. Chỉ có thời gian mới thuộc về các thực thể khơng có quảng tính mà thơi. Các
thực thể có quảng tính lại gồm hai loại: loại có có sinh mệnh và loại khơng có sinh
mệnh. Loại có sinh mệnh là loại linh hồn Jiva thể hiện ở trong đó. Theo trường
phái triết học Jaina, vật chất là một trong những biến thể của Adjiva. Vật chất là
thực thể vĩnh viễn, nó có thể mang bất kì một hình thức nào và có thể mở ra các
chất lượng khác nhau. Các đối tượng của tự nhiên như đất, nước, lửa, khơng khí
và cả thân thể, trí óc, lờ nói, hơi thở của con người. Tất cả đều là sản phẩm của vật
chất, chỉ từ có linh hồn và khơng gian. Vật chất có những đặc tính như sờ mó
được, âm thanh, mùi, màu sắc và vị; đồng thời, nó cũng mang các khả năng xúc
giác, thính giác, vị giác, thị giác, khướu giác.
4



Vật chất còn được chia ra làm loại vật chất thô sơ và loại vật chất tinh tế.
Những cái mà cảm giác chúng ta nhận thức được, nghĩa là các vật thể thơng
thường đều là vật chất thơ sơ; cịn những cái mà ta không thể nhận thức được bằng
cảm giác thì đó là loại vật chấ tinh tế. Vật chát tinh tế quyết định mối liên hệ và
ràng buộc linh hồn với thể xác con người.
Các đối tượng vật chất mà cảm giác lĩnh hội được, gồm có các nguyên tử
(anu). Có hằng hà sa số những nguyên tử. Ngun tử có các đặc tính như là những
cái đầu tiên vốn có, cực kì nhỏ bé, khơng thể nhìn thấy, khơng có khởi đầu khơng
có kết thúc, khơng thể phân chia, không biến đổi và tồn tại vĩnh viễn, khơng do ai
tạo ra mà cũng khơng ai có thể phân hủy được chúng. Các vật thể vật chất (kể cả
cơ thể con người) xuất hiện do sự kết hợp của các nguyên tử khi chúng hấp dẫn
lẫn nhau. Theo trường phái Jaina, các nguyên tử không khác nhau về mặt chất
lượng, chúng đồng nhất với nhau và chỉ có bằng cách kết hợp với nhau theo nhiều
dạng khác nhau chúng mới tạo ra được các nguyên tố, các vật thể đa dạng, phong
phú khác nhâu trong thế giới mà thôi.
Bên cạnh quan điểm duy vật chất phác về thực thể, vật chất, nguyên tử,
trường phái Jaina khẳng định rằng khơng có “linh hồn vũ trụ tối cao” Brahman,
khơng có thượng đế tối cao sáng tạo và chi phối thế giới. Trong thế giới có một số
lượng rất lớn và cố định những linh hồn được thể hiện ra trong các cơ thể sống (có
sinh mệnh) hoặc khơng được thể hiện ra. Linh hồn cũng như vật chất không do ai
tạo ra mà nó tồn tại ngay từ đầu và tịn tại mãi mãi. Chính ở quan điểm này,
trường phái triết học Jaina đã thể hiện tính chất nhị nguyên luận trong lập trường
triết học của mình.
Theo trường phái Jaina, tự bản chất vốn có của linh hồn, dưới dạng tiềm
năng, linh hồn có một năng lực vơ song, tồn năng, thanh khiết và vươn lên; nó có
thể thâm nhập được tất cả, hiểu biết tất cả và chính nó truyền sinh lực, sức sống
5


hay sinh mệnh cho tất cả. Linh hồn tuy là một lực lượng tồn năng nhưng khả

năng của nó lại bị hạn chế bởi những thân xác cụ thể mà linh hồn biểu hiện, trú
ngụ trong nó. Thể xác với những cảm giác, ý chí, dục vọng đã vây tỏa tính giác
ngộ tồn năng làm mờ ám tính thanh khiết, trong sáng bản nhiên của linh hồn,
khơng cịn giữ được bản lai thanh tịnh tuyệt đối, hoàn thiện, toàn năng của nó nữa.
Adjiva bao bọc, vây hãm linh hồn trong một thân xác sinh diệt vô thường, đầy
nhục dục và gắn linh hồn với một số phận nhất định, làm cho linh hồn phải sống
thời gian dài trong một bốn dạng tồn tại như con người, súc sinh, trời, địa ngục.
Khả năng tồn năng và tính chất thanh khiết bản nhiên của linh hồn có được hiên
thực hóa hay khơng là tùy thộc sự hạn chế bởi ý chí, dục vọng và hành động của
mỗi thân xác cụ thể của chúng sinh gây ra. Đó là nghiệp lực (karmma).
Muốn giải thốt linh hồn tồn năng, tuyệt đối thanh khiết ra khỏi xiềng xích
của thế giới trần tục và sự lơi kéo của thể xác, nhục dục, muốn dập tắt ngọn lửa
dục vọng, diệt trừ nghiệp của quá khứ và không vướng phải nghiệp căn mới, nhằm
đạt tới sự thanh tịnh, an nhiên của linh hồn, theo Mahavira, con người ta phải rèn
luyện đạo đức và tu luyện trí tuệ trực giác bằng phương pháp tu luyện khổ hạnh
ngiêm khắc theo luật ahimsha (bất tổn sinh) khơng sát sinh dù đó là sinh vật nhỏ
như con kiến, con trùng, không ăn cắp, khơng nói dối, khơng dâm dục, khơng lấy
bất cứ cái gì làm của riêng (nếu như đó khơng phải là vật được tặng; kèm theo
mộtt kỉ luật sống khắc khổ nghiêm ngặt như chỉ ăn cơm với muối mè, giảm mức
ăn hằng ngày xuống cho đến khi cơ thể yếu dần để khi chết rồi khơng cịn tái sinh
được nữa. Đồng thời, phải từ bỏ mọi thú vui trong cuộc sống để chăm chú, chuyên
tâm thiền tịnh, chiêm nghiệm nội tâm, để cho tinh thần, linh hồn thực sự đạt tới sự
an nhiên, thanh tịnh, vô dục. Họ cho toàn bộ những cảm giác của ngũ quan là tội
lỗi, và lý tưởng đạt được là phải thản nhiên với vui, khổ, hồn tồn khơng bị ngoại
giới chi phối. Chỉ có mỗi một sinh mạng mà họ có quyền diệt là mạng sống của
chính họ và ý chí tái sinh của họ. Khi tận diệt được dục vọng và ý chí ham sống,
6


theo trường phái Jaina, điều đó chứng tỏ rằng linh hồn, tinh thần đã hồn tồn

thắng được ý chí dục vọng, mù quáng và sự ham sống của thể xác.
2. Phương pháp luận
Thời kỳ Phật giáo và Jaina giáo xuất hiện cũng là lúc phong trào tự do tư
tưởng thịnh hành. Khơng khí tranh luận giữa các trường phái triết học, tôn giáo và
các triết gia khác nhau khá sôi động. Will Durant nói: “Thử hỏi có dân tộc nào đã
nghĩ tới việc tổ chức các buổi lễ long trọng rồi mời tơn sư các phái triết kình địch
nhau tới để đấu khẩu trước công chúng xem ai thắng ai bại, y như các võ sĩ tại đấu
trường La Mã”, vì “khơng có xứ nào người ta mê triết học nhu ở Ân Độ. Người
Ấn không coi triết học là một mơn để tiêu khiển hoặc để trang sức trí óc mà coi nó
là ích lợi bậc nhất, cần thết cho cuộc sống hàng ngày”. Trong cuộc tranh luận ấy,
Mahavira cho rằng: “ Sự vật trên hế giới hiện ra dưới muôn vàn trạng thái, nếu
không xét đến tổng quát của ngun lí cấu tạo sự vật mà chỉ nhìn vào một khía
cạnh, chỉ luận về trạng thái đã thể hiện của sự vật thì dẫu có tranh biện đến suốt
đời cũng không đạt đến lẽ phải”. Nghĩa là, theo Mahavira phải nhìn nhận sự vật
trong mối liên hệ nhiều mặt, nhiều trạng thái khác nhau, cho nên, ơng nói: “ Đừng
có lấy mắt mà hạn chế tầm suy luận. Mắt chỉ nhìn thấy có một điểm (shyad) gần,
nhưng sự vật thì trái lại là vạn điểm ở mãi xa tít khơng cùng. Hơn nữa, dù chỉ có
một điểm ở gần trước mắt, nhưng xai điểm áy cũng bao giờ là thưc thể, nào là
hình thức, trạng thái, nào là nội dung; nhưng tất cả nhũng cái đó lại khơng thường
định mà luôn biến đổi nay thế này, mai thế khác. Như vậy nếu chỉ nhìn vào một
phía của điểm đẻ luận toàn điểm thi lại sai nữa. Cho nên luận về sự thật, giải thích
vê thế gian nên tránh cái độc đoán mà chỉ nên ở trên lập trường tương đối, trung
dung; thấy thế này nhưng phải xem thế khác, luận ở phía này rồi nhưng hãy chờ
phía kia xoay đến. Như thế mới là phương pháp quan sát (naya) thích đáng hơn
cả”. Do chủ trương “học” và “luận” như vậy nên Jaina còn được gọi là chủ nghĩ
bất định (syadvada) hay chủ nghĩa tương đối.
7


Chính với phương pháp luận ấy, Mahavira đã cực lực phản đối tính chất một

chiều, đọc đốn và thái độ tuyệt đối hố uy tín, tri thức, lễ nghi của kinh Veda và
giáo lý đạo Bàlamơn. Ơng chủ trương nên có ý chí phục thiện, đón nhận sự phê
phán từ nhiều phía khác nhau. Đối với chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt và
bất công trong xã hội Ấn Độ đương thời, ơng nói:” Các con thấy gì chăng? Thuần
là sinh vật lại làm khổ sinh vật; thuần là con người lại ức hiếp con người. Thế gian
ngập tràn những khổ bố và giết chóc… Ơi! Rồi những kẻ yếu, những người khơng
có quyền lực đến bị hủy diệt hết mất thôi!”.
III/ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRƯỜNG PHÁI JAINA SAU NÀY
Xuất phát từ giới luật khổ tu, không giữ riêng, nên Mahavira khơng mang
trên mình lấy một mảnh vải che thân. Tuy nhiên đạo Jaina cũng có một tơng giáo
cho samôn được mặc đồ trắng, gọi là phái Bạch y (Svetambara) với ý nghĩa trong
trắng, thanh khiết. Cịn tơng phái trung thành với đường lối khơng y của Mahavira
thì vẫn lấy trời làm nhà, đất làm giường chiếu, mưa nắng làm quần áo, của cải
khơng có gì hơn là một mảnh bát mẻ đi khất thực, gọi là phái “Lõa hình”
(Digambara). Phái này khỏa thân bốn mùa, khắc kỉ khổ tu, tuyệt thực theo từng
giai đoạn, từng thời kì. Họ khổ luyện đoạn thực cho đến dộ thân hình gầy đét,
khẳng khiu như cành mai già, hơi thở thoi thóp như sắp tàn hơi. Càng khổ luyện
đoạn thực bao nhiêu càng đức hạnh bấy nhiêu. Đó là phương pháp “chỉ diệt pháp”
(nirjara) của Jaina giáo. Nó phá tác dụng thế lực ảnh hưởng của thân nghiệp.
Tham dục, tội lỗi, thân xác, vật dục, thế tục khơng cịn chi phối và làm vẫn đục sự
tinh khiết của linh hồn. Con người trở nên an nhiên, tự tại, khơng cịn phân biệt
thời gian, mặc dù thân xác còn ở thế gian, đó chính là cõi Niết bàn (Nirvara).
Khi chết đi linh hồn chỉ làm một nhiệm vụ cuối cùng là trả thể xác, vật chất
trở về với đặc tính vốn có của nó là tiêu tan, đi xuống để linh hồn thoát lên.
Dưới triều đại Maurya, cuối thế kỉ IV TCN, Jaina giáo được nhà vua giúp
đỡ, nhưng nội bộ cũng có sự phân hóa. Sự phân phái bắt đầu từ thế kỉ III TCN,
hình thành hai tơng phái. Phái thứ nhất là phái Bạch y với bộ kinh điển được tu
8



sửa, bổ khuyết là kinh Anga, khoảng 12 bộ. Phái thứ hai là phái không y, trung
thành với phương pháp khổ tu ép xác của Mahavira,dựa vào những kinh điển gốc
cịn sót lại, do kinh sách gốc của đạo Jaina đã bị thất lạc. Sau đó, trên cơ sở hai
tơng phái, đạo Jaina thâm nhập khá sâu rộng trong quần chúng. Thế kỉ II TCN,
phần lớn đồ từ Trung đến Đông Nam Ấn đều theo đạo Jaina và họ đã xây nhiều
tháp xá lớn, tơn kính thờ cúng Mahavira, là ông tổ của trường phái này, cũng như
thờ cúng các nhà hiền triết lớn khác.
Sang thế kỉ VI, giáo lý của đạo Jaina được hệ thống hóa trở lại. Tồn bộ
kinh điển của phái Bạch y có 12 bộ, đến thế kỉ V bị thất lạc bộ thứ 12, còn 11 bộ
kia đã được người ta tập hợp, san định lại. Đặc biệt họ đã biên soạn bộ “Chân lý
chứng đắc kinh” gồm những quyển Unasvati và Tatvarthadhigana-sutra. Nội dung
cuốn này giảng về những vấn đề chính kiến, chính trị và chính hành để chỉ dẫn tín
đồ đạo Jaina tu hành để giải thốt.
Phái khơng y có Kunddkunda (khoảng cuối thế kỉ IV đầu thế kỉ V), đã trước
tác nhiều kinh sách như: Pancastinkayasara, Samayssara, Pravacanasara. Đồng
thời, Kunddkunda đã hệ thống hóa triết lý của cả hai phái, đưa ra bảy điều hay bảy
mệnh đề để giải thích, phán đốn về sự tồn tại của thế giới. Bảy mệnh đề ấy gọi là
“Thất cú biểu thị pháp” (Shaptabhanginaya):
- Tồn tại (asti),
- Không tồn tại (nasti),
- Vừa tồn tại vừa không tồn tại (asti ca nasti),
- Không miêu tả được (avaktavyam),
- Tồn tại và không miêu tả được (asti ca avaktavyam ca),
- Không tồn tại và không miêu tả được (nasti ca avaktavyam ca),
- Tồn tại và không tồn tại không miêu tả được (asti ca nasti ca avaktavyam).
Hiện nay, đạo Jaina chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong dân chúng Ấn Độ
(khoảng 0,5%) nhưng đã có nhiều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của Ấn Độ.
Jawaharlal Nehru, Mahatma Gandi, với tư tưởng “bất bạo lực” và sử dụng
phương pháp đấu tranh tuyệt thực, chính là chịu ảnh hưởng tư tưởng của triết lý
tôn giáo Jaina.

IV/ ĐÁNH GIÁ VÀ KẾT LUẬN
9


Nhận xét về tình hình phát triển của tơn giáo Ấn Độ thời kì cổ điển và vai
trị của các trường phái triết học, tôn giáo thuộc hệ thống không chính thống trong
thời kì này, Will Durant đã viết: “Triết lý cách mạng của phái Carvaka đó chấm
dứt thời đại các Veda và Upanishad. Nó giảm uy thế của các Bàlamôn và gây một
khoảng trống trong xã hội Ấn Độ, cần có một tơn giáo mới để lấp khoảng trống
đó. Nhưng học thuyết của phái đó đã tiếp tục và thành công đến nỗi hai tôn giáo
tới sau đáng lý để thay thế đức tin trong các kinh Veda, thì lạ lùng thay, lại đều là
những tôn giáo vô thần cả. Cả hai đều thuộc vào phong giáo Nàstika thay hư vô
chủ nghĩa, cả hai đều xuất phát không phải trong đẳng cấp tu sĩ, tăng lữ Bàlamôn
mà là trong đẳng cấp chiến sĩ Ks’atriya, để phản ánh với chủ trương thần học và
với thói nghi thức câu nệ khắt khe trói buộc con người của giới tăng lữ, tu sĩ. Hai
tơn giáo đó, Jainisme và Buddhisme mở màn cho một thời đại mới trong lịch sử
Ấn Độ”.
Như vậy trường phái triết học Jaina là một hệ thống triết học có tính chất đa
ngun thể luận. Nó có cơng trong việc giải thích, tìm hiểu cơ cấu của thế giới
một cách duy vật, với quan điểm biện chứng, sơ khai và tự phát. Nhưng trong học
thuyết của mình, mơn phái Jaina lại có tính chất duy tâm khi giải thích về linh hồn
và đạo đức, coi linh hồn cũng là một thực thể tồn tại song song với thực thể vật
chất.
Học thuyết Jaina còn bao hàm việc thờ cúng Mahavira, ông tỏ của trường
phái này và những nhà hiền triết khác. Nó là cơ sở triết học của đạo Jaina.

10


11




×