Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Chính sách tỷ giá hối đoái của trung quốc và mậu dịch châu á g

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.51 KB, 24 trang )

Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐỐI CỦA
TRUNG QUỐC VÀ MẬU DỊCH CHÂU Á

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


TÓM TẮT
Dựa theo nhữ ng kinh nghiệm, bài báo này đã chỉ ra r ằng cán cân thương mại
của Tru ng Quốc là nhạy cảm với biến động của tỷ giá hối đoái thự c hiệu quả
của đồng nhân dân tệ. T uy nhiên, kích thước hiện hành của thặng dư thư ơng
mại là như vậy m à chính sách tỷ giá hối đối độc lập có thể sẽ khơng có khả
năng giải quy ết sự mất cân bằng. Việc giảm thặng dư t hương m ại được giới hạn
chủ yếu là do nhập khẩu Trung Quốc không phản ứ ng như m ong đợi với việc
nâng tỷ giá. Thật vậy, chúng có khuynh hướng giảm nhiều hơn là t ăng. Bằng
việc dự tốn phương trình nhập khẩu song phương đối với Trung Quốc và
nhữ ng đối tác kinh doanh chính của nó, chúng tơi thấy rằng phản ứng của nhập
khẩu đối với việc nâng giá nhìn chung chỉ đúng với các nư ớc Đơng N am Á cịn
nhữ ng nước khác thì khơng. Điều này có lẽ là kết quả trực tiếp của v iệc hội
nhập theo chiều dọc của các nư ớc châu Á vì một phần lớn nhập khẩu của Trung
Quốc từ các nước Đông Nam Á thì đư ợc dùng để tái xuất khẩu. Chúng t ôi cũng
nhận thấy rằng tổng xuất khẩu từ một số nư ớc châu Á phản ứ ng một cách t iêu
cực với việc nâng giá đồng nhân dân tệ. Điều này nhấn mạnh sự phụ thuộc của
xuất khẩu của các nước châu Á vào Trung Quốc.
1. G IỚ I THIỆU
Thị phần thương mại trên thế giới của Trung Quốc đã tăng cự c kỳ nhanh trong
suốt những năm qua. Thực tế, Trung Quốc đã sẵn sàng trở thành một trong
nhữ ng nhà xuất khẩu lớn nhất trên thế giới cùng với Đức và M ỹ.
Thương m ại của Trung Quốc thì rất cân bằng cho đến mới gần đây. Theo
Thống kê của Cục Hải quan Trung Quốc, khối lượng thặng dư t hương mại chỉ
là 32 tỉ đô la Mỹ ( hay 1.7% GDP) trong năm 2004( Biểu đồ 1). Tuy nhiên từ


năm 2005-2007 thặng dư thương mại đã tăng vọt: nó đã đạt được gần 180 tỉ đơ
la M ỹ trong năm 2006 ( gần 7% GDP của Trung Quốc) và đã tăng xa trong năm
2007. T hự c tế, thặng dư tài khoản hiện tại lên tới hơn 10% GD P trong năm
2007.
Một mặt, đã có dấu hiệu cho rằng các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc
vẫn đang duy trì một tỷ giá hối đối bị đánh giá thấp để thu lợi từ nhu cầu bên
ngoài và đạt được một tốc độ tăng trưởng cao. M ặt khác, đã có nghi ngờ rằng tỷ
giá hối đối có thể là m ột công cụ hiệu quả trong việc giảm thặng dư thư ơng
mại khi Trung Quốc là một nền kinh t ế đang chuy ển đổi nơi mà giá cả có thể
vẫn đóng m ột vai trị hạn chế những quyết định cung cầu.
B i ểu đồ 1: C án câ n t h ươ ng m ại v à t ỷ g iá hố i đ o ái th ự c h iệ u
q uả , s ố li ệu hà n g t h á ng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Tranh luận đầu tiên, Trung Quốc đang đối mặt với một áp lự c lớn từ các nư ớc
phát triển đến việc nâng giá đồng nhân dân tệ. Thật vậy, tỷ giá hối đoái thực
hiệu quả đã trải qua việc nâng giá nhanh từ năm 1994 đến cuối năm 1997
như ng có xu hướng giảm giá trị kể từ sau đó cho đến khi di chuyển đến m ột chế
độ tỷ giá hối đối linh động hơn được thơng báo tháng 7 năm 2005. Sau đó
đồng nhân dân tệ đánh giá cao trong những giới hạn hiệu quả thực tế
Phần lớn thặng dư thương mại của T rung Quốc tạo ra một v ấn đề q uan tr ọng
không chỉ cho Trung Quốc mà cho những nư ớc khác trên thế giới. M ặc dù mối
quan tâm chung trong vấn đề này là sự tồn tại của các giả thuyết như ng vẫn
chư a kết luận. Việc thiếu dữ liệu phù hợp và một chuỗi thời gian dài đã khuyến
khích nghiên cứu vào những m ối liên kết giữa tỷ giá hối đoái của đồng nhân
dân tệ và thư ơng mại Tr ung Quốc. Kể từ mùa hè năm 2003, khi những t hảo
luận về việc đồng nhân dân tệ b ị đánh giá thấp được đặt lên hàng đầu, nghiên
cứu trên chính sách tỷ giá hối đối Trung Quốc đã rộ lên nhưng nó đã tập trung

vào dự tốn cân bằng dài hạn tỷ giá hối đoái cho Trung Quốc hoặc khám phá ra
một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp nhất cho nền kinh t ế Trung Quốc. Trong khi

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cả hai câu hỏi liên quan rõ ràng, vấn đề cấp bách nhất là việc mất cân bằng t oàn
cầu liệu Trung Quốc có nên để đồng t iền của mình đánh giá cao như một cơng
cụ làm giảm thặng dư thương m ại khổng lồ củ a nó hay khơng.
Bài báo phân tích câu hỏi này dự a trên thự c nghiệm việc sử dụng phân t ích
cùng hội nhập và dữ liệu trong giai đoạn 1994-2005. T heo kết quả của chúng
tôi, một sự nâng giá t hực của đồng nhân dân t ệ sẽ làm giảm thặng dư thư ơng
mại của Trung Quốc về lâu dài nhưng hiệu quả s ẽ bị giới hạn. Tác động tư ơng
đối nhỏ so với kích thước của sự mất cân bằng chủ yếu là giải thích bởi độ co
giãn giá cả đặc biệt chúng tơi tìm thấy từ nhập khẩu: cụ thể là, nhập khẩu Trung
Quốc bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự nâng giá thực của đồng nhân dân tệ. Bằng
việc dự tốn phương trình nhập khẩu song phư ơng, chúng t ôi thấy rằng nhập
khẩu từ các nư ớc châu Á khác có khuynh hư ớng giảm nhưng các nư ớc khác thì
khơng. Kết quả này rõ ràng cũng có thể bị ngư ợc nếu đư ợc giải thích bởi tính
chất đặc biệt của thư ơng m ại nội địa ở châu Á, tức là một sự hội nhập theo
chiều dọc. Thật vậy, Trung Quốc nhập khẩu từ những nư ớc cịn lại của Đơng
Nam Á thì chủ yếu hướng tới việc xuất khẩu lại. Thêm vào đó, chúng tôi chỉ ra
bằng chứng m à các nước châu Á dường như không thể bù cho việc giảm trong
xuất khẩu của họ sang Trung Quốc bằng việc tăng xuất khẩu đến những nư ớc
khác vì tổng xuất khẩu của họ nhìn chung bị ảnh hư ởng tiêu cực bởi việc đánh
giá cao đồng nhân dân tệ. Nói cách khác, xuất khẩu từ các nư ớc Đông Nam Á
dường như là bổ sung hơn là thay thế cho hàng hóa Trung Quốc.
Phần còn lại của bài báo đư ợc sắp xếp như sau. Phần 2 đánh giá các loại tài liệu
đang có. Phần 3 mơ tả phư ơng pháp và dữ liệu đư ợc dùng. Phần 4 trình bày
nhữ ng kết quả phản ứng như thế nào của xuất nhập khẩu Trung Quốc đến

nhữ ng thay đổi trong tỷ giá hối đối và nhu cầu. Trong chương 5, chúng tơi cố
gắng đào sâu hơn trong vấn đề tại sao nhập khẩu T rung Quốc khơng có sự gia
tăng từ việc nâng giá đồng nhân dân tệ bằng việc dự toán phư ơng trình thư ơng
mại song phương với những đối tác kinh doanh chủ yếu của nó và sau đó bằng
việc phân tích phương trình xuất khẩu của các nư ớc Châu Á đư ợc chọn lọc.
Chư ơng 6 là kết luận.
2. XEM LẠI TÀI LIỆU
Các tài liệu hiện có về tác động của m ột sự nâng giá thự c của đ ồng nhân dân tệ
đối với thư ơng m ại Tru ng Quốc có thể chia trên hai nhóm theo những chính
sách có liên quan. Chuỗi thứ nhất và lớn nhất cho thấy bằng chứng mà một sự
nâng giá thực của đồng nhân dân tệ làm giảm cán cân thư ơng mại, hoặc là
thông qua xuất khẩu hoặc là thông qua nhập khẩu hoặc cả h ai. Chuỗi thứ hai
hoặc k hơng tìm thấy những t ác động đáng kể trên cán cân thư ơng mại hoặc
thậm chí là một điểm tích cực.
Trong chuỗi thứ nhất, Cerra and Dayal-Gulati (1999) ư ớc tính độ co giãn t heo
giá của xuất nhập khẩu Trung Quốc cho giai đoạn 1983-1997 với một mơ hình
hiệu chỉnh những sai sót và nhận thấy chúng t hì ảnh hư ởng t iêu cực khơng
đáng kể cho xuất khẩu (-0.3) và tích cự c đáng kể cho nhập khẩu (0.7). Hơn nữa,
chúng chỉ ra r ằng cả hai độ co giãn t ăng theo thời gian. Dees (2001) cải thiện
dựa trên những phân tích trước đây bằng cách t ách xuất nhập khẩu của Trung

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Quốc thành hai loại: chế biến( tức là nhập khẩu linh kiện lắp ráp) và xuất nhập
khẩu gốc. Ông t a cũng đã tìm t hấy trong dài hạn, việc đánh giá cao tỷ giá hối
đoái làm giảm xuất khẩu. Ông ta cũng chỉ ra rằng xuất khẩu gốc thì giá cả co
giãn hơn xuất khẩu chế b iến và nhập khẩu chế biến tăng nhẹ trong trường hợp
nâng giá đồng nhân dân tệ. Ben1assy-Que1re và Lahreche-Révil (2003) mô
phỏng tác động của việc đồng nhân dân t ệ giảm giá thự c 10% và báo cáo một

sự gia tăng trong xuất khẩu Trung Quốc đến các nước OECD và sự sụt giảm
nhập khẩu Trung Quốc từ nền kinh tế châu Á mới nổi nếu họ duy trì tỷ giá hối
đối cố định. Kamada và Takagawa làm một vài mơ hình m ơ phỏng để tính
tốn tác động của cải cách tỷ giá hối đoái Trung Quốc. H ọ chỉ ra rằng một sự
giảm giá trị 10% sẽ làm tăng nhẹ nhập khẩu của Trung Quốc trong khi t ác động
đến xuất khẩu của Tr ung Quốc sẽ không đán g kể. Như vậy, 4 bài báo đó cho
thấy xuất khẩu thì bị ảnh hư ởng tiêu cực v à nhập khẩu thì được ảnh hưởng t ích
cực bởi sự nâng giá của đồng nhân dân tệ. Tất cả các bài nghiên cứ u đó sử dụng
tài liệu trư ớc khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO.
Một vài bài báo sử dụng các dữ liệu thực tế trư ớc khi trở thành thành viên của
WTO chỉ tập trung vào việc n ghiên cứu xuất khẩu Tr ung Quốc. Yue và Hua
(2002) và Eckaus (2004) cả hai đã sớm đưa ra kết quả là việc đánh giá cao tỷ
giá h ối đoái thực làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc. Giống Cerra và DayalGuyati, nhưng với các dữ liệu gần đây hơn, Yue và Hua chỉ ra rằng xuất khẩu
của Trung Quốc thì đang trở nên co giãn về giá hơn. Voon, Guangzhong và
Ran (2006) sử dụng dữ liệu ngành cho 1978-1998 và kết hợp các mức độ phá
giá của đồng nhân dân t ệ khi dự tốn phương trình xuất khẩu của Trung Quốc,
họ cũng tìm thấy những kết nối tiêu cự c giữa những đánh giá cao và xuất khẩu
của Trung Quốc.
Những bài báo sử dụng những dữ liệu gần đây hơn hỗ trợ những kết quả sớm
hơn về tính co giãn tiêu cực tỷ giá hối đối củ a xuất khẩu nhưng lại không thừa
nhận kết quả là sự đánh giá cao của đồng nhân dân tệ sẽ làm tăng nhập khẩu
Trung Quốc. Lau, Mo và Li (2004) ước tính xuất khẩu và nhập khẩu của Trung
Quốc từ G -3 sử dụng dữ liệu hàng quý. Về lâu dài, một sự đánh giá cao của tỷ
giá hối đối thực hiệu quả t hì mang lại đán g kể trong việc giảm xuất khẩu. T hay
vào đó, khơng phải nhập khẩu gốc mà cũng không phải nhập khẩu chế biến
dường như đều bị ảnh hưởng bởi REER. Trong mọi trường hợp, những kết quả
thì khó để giải thích vì nó khơng rõ ràng làm thế nào họ giảm giá xuất nhập
khẩu và s ố quan sát thì nhỏ. Thorbecke (2006) sử dụng mơ hình hấp dẫn để
nghiên cứu tác động của tỷ giá hối đoái thay đổi trên những mơ hình tam giác
thương mại ở châu Á. Cuối cùng, ông ta không tổng hợp xuất khẩu vào trung

gian giữ a vốn và hàng hóa cuối cùng. Nhữ ng kết quả của ông ta chỉ ra rằng một
sự nâng giá đồng nhân dân tệ 10% làm giảm xuất khẩu cuối cùng của Trung
Quốc gần bằng 13%. Tuy nhiên, sự đánh giá cao sẽ không ảnh hư ởng đáng kể
đến nhập khẩu của Trung Quốc từ M ỹ. Cuối cùng, Shu và Yip (2006) ước tính
tác động của biến động tỷ giá hối đối đến tồn bộ nền kinh tế Tr ung Quốc và
cho thấy rằng một sự đánh giá cao có thể làm giảm xuất khẩu do ảnh hưởng của
sự thay đổi số lư ợng tiêu dùng, dẫn đến một sự sụt giảm vừa phải trong tổng
cầu.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trong khi nhữ ng bài báo trư ớc đó đã đư a đến m ột kết luận rằng một sự đánh
giá cao của đồng nhân dân tệ sẽ dẫn đến một sự suy giảm trong thặng dư
thương mại của T rung Quốc thông qua t ác động tiêu cự c chủ yếu của nó trong
xuất khẩu Tru ng Quốc, một vài bài báo khác đưa r a m ột cái nhìn hơi khác về
cách thức mà chính sách tỷ giá hối đối có thể ảnh hưởng đến thặng dư thư ơng
mại của Trung Quốc. Ví dụ, Jin (2003) ư ớc tính mối quan hệ giữa lãi suất thực,
tỷ giá hối đoái thực và cán cân thanh toán của Trung Quốc và kết luận rằng một
sự nâng giá thực có xu hư ớng thực sự làm tăng thặng dư cán cân thanh toán.
Cerra và Saxena (2003) sử dụng dữ liệu ngành để nghiên cứu hành vi của
nhữ ng nhà xuất khẩu Trung Quốc và thấy r ằng giá xuất khẩu cao hơn đã t ăng
nguồn cung xuất khẩu đặc biệt trong những năm gần đây.
Tác động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa lên xuất khẩu thì khơng lớn. Trong bất
cứ sự kiện nào, những kết quả của họ như bất kỳ các dữ liệu ngành khác cần
được thực hiện một cách cẩn thận vì khoảng một nử a xuất khẩu của Trung
Quốc được đề cập trong các dữ liệu ngành và khơng có điều chỉnh chất lư ợng
được báo cáo trong chuỗi giá cả đơn vị.
Một trong những nỗ lực gần đây nhất để dự tốn phương trình xuất nhập khẩu
Trung Quốc là của M arquez và Schindler (2006). Họ sử dụng tổng số cổ phần

của thư ơng mại thế giới thay vì khối lư ợng nhập khẩu và xuất khẩu để tránh sử
dụng các m ặt đại diện cho giá cả xuất nhập khẩu Trung Quốc. Theo kết quả của
họ, việc nâng giá thự c đồng nhân dân t ệ không chỉ ảnh hưởng tiêu cự c đến phần
xuất khẩu Trung Quốc mà cịn đến phần nhập khẩu, ít nhất là cho mậu dịch
thông thường. Trong khi các mối quan tâm là tác động ư ớc tính vào thị phần
xuất nhập khẩu để khơng có kết quả nào được tạo ra trong t ài khoản thư ơng
mại. Hơn nữa, khơng có những kỹ thuật hội nhập được sử dụng để chỉ độ co
giãn ngắn hạn có thể được ư ớc tính.
Theo một bản tóm tắt ngắn, rõ ràn g phần lớn các bài nghiên cứu trước đó đã
cho thấy rằng một sự đánh giá cao tỷ giá hối đoái thực làm giảm xuất khẩu
Trung Quốc. Kết quả là sự thay đổi lớn trong phương pháp nghiên cứu, khoản
thời gian và dữ liệu bao phủ. Tuy nhiên, độ co giãn tỷ giá hối đối của nhập
khẩu Tr ung Quốc thì không rõ ràng lắm. Trong khi các nghiên cứ u trước đó đã
tìm thấy một sự nâng giá để làm tăng nhập khẩu củ a Trung Quốc, các nghiên
cứu gần đây đã đưa ra những kết quả rất khác nhau.
Nói chung, khơng có một k ết luận rõ ràng về những tác động của việc giảm giá
đồng nhân dân t ệ lên cán cân thư ơng mại của Trung Quốc có thể được tạo r a
dựa trên những nghiên cứu trước đó.
Trong bài báo này chúng tơi nhìn thấy tác động của tỷ giá hối đo ái thực trong
thương mại T rung Quốc với các dữ liệu gần đây. Ngoài ra, những kỹ thuật hội
nhập đư ợc sử dụng để tập trung vào cấu trúc phát triển trong dài hạn. Chúng tơi
cũng mở rộng phân tích từ việc tổng hợp các phương trình xuất nhập khẩu tới
nhữ ng hợp tác song phư ơng để đ iều tra xem liệu có sự khác biệt lớn giữa các
đối tác thư ơng mại của T rung Quốc. Điều này thì đặc biệt quan trọng cho các
nước còn lại của châu Á như chúng ta s ẽ t hấy sau.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LUAN VAN CHAT LUONG download : add



LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.PHƯƠN G PHÁP LUẬN VÀ DỮ LIỆU
Để đánh giá độ nhạy cảm của xuất nhập khẩu Tr ung Quốc đến thay đổi
tỷ giá h ối đoái t hực đồng nhân dân tệ, chúng tơ i ư ớc tính chuẩn phương trình
xuất khẩu và nhập khẩu . Chúng tơi sử dụng kỹ thuật đồng tiền liên kết vì
chúng t a đang quan t âm đến các mối quan hệ dài hạn. Ngồi ra, chúng tơi sử
dụng giảm dạng phương trình xuất khẩu và nhập khẩu để tránh khuynh hư ờng
cân bằng đồng thời từ ước tính cung và cầu ri êng biệt. Tuy nhiên, để tránh
nhữ ng vấn đề nảy sinh cho việc bỏ qua các biến số, chúng tôi bao gồm các yếu
tố quyết định cung v à cầ u trong thu gọn dạng phư ơng trình.
Hai phương trình ước tính như s au:

Xt là viết tắt của khối lư ợng xuất khẩu từ Trung Quốc, M t cho khối lư ợng nhập
khẩu vào Trung Quốc, REERt cho tỷ giá hối đoái t hực hiệu quả của Nhân dân
tệ, Yt * cho nhu cầu nước ngoài và Yt là nhu cầu trong nư ớc. Các thơng số ư ớc
tính là α1 là độ co giãn của xuất khẩu theo tỷ giá hối đoái, α2: độ co dãn của
xuất khẩu theo thu nhập, β1: độ co dãn của của nhập khẩu theo tỷ giá hối đoái
β1:độ co dãn cuả nhập khẩu theo t hu nhập.
Với tầm q uan trọng của ngành chế biến đối với nền kinh tế Trung Quốc,
chúng tôi ước tính phư ơng trình riêng biệt cho ngành xuất khẩu chế biến và
ngành thông thường. Giống như thế, chúng t ôi phân biệt giữa hàng nhập khẩu
để chế biến và hàng nhập khẩu thông thư ờng. Đồ thị A1.1 và A1.2 (Phụ lục 1)
cho thấy xu hướng xuất khẩu và nhập khẩu hàng thông thư ờng và chế biến: cả
hai đã tăng trư ởng nhanh hơn nhiều từ năm 2001 trở đi, cùng với việc Trung
Quốc gia nhập WTO.
Một khó khăn đáng kể khi làm việc với các dữ liệu ngành thương mại

Trung Quốc là giá trị và khối lư ợng khơng dễ dàng phân tích khi khơng có chỉ
số giá xuât nhập khẩu ở cấp độ tổng hợp. Do đó, chúng tơi cần phải sử dụng
một đại diện cho các dữ liệu giá. Như là một đại diện cho giá xuất khẩu, chúng
tôi sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của Tr ung Quốc (CPI). Lý do tại sao chúng tôi
thực hiện như một thước đo giá chung là Cục Thống kê Q uốc gia không cung

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cấp dữ liệu cho chỉ số giá sản xuất ;và tồn bộ chỉ số giá bán khơng tồn tại cho
tồn bộ mẫu. Về giá nhập khẩu, chúng t ơi tính toán chỉ số tỷ trọng giá xuất
khẩu của hai mư ơi lăm đối tác thư ơng mại quan trọng nhất của Tr ung Quốc và
giảm nhập khẩu của Trung Quốc với chỉ số này (nguồn dữ liệu có thể đư ợc tìm
thấy trong bảng( A1.1, Phụ lục 1). Như m ột bài thự c nghiệm mạnh mẽ, chúng
tôi sử dụng giá xuất khẩu Hồng Kông như là một đại diện cho giá xuất khẩu của
Trung Quốc và kết quả được xác nhận.
Tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER) đư ợc rút ra từ số liệu thống kê của
tổ chức tài chính quốc tế IM F và được xây dự ng như sau:

Trong đó, N là viết tắt của số lư ợng các loại tiền tệ được bao gồm trong
chỉ số, wi là trọng lượng của các loại tiền tệ thứ i và reri ,t là tỷ giá thự c song
phương đối với đối tác kinh doanh của Trung Quốc. Chúng tôi cũng sử dụng
REER –đư ợc xây dự ng bởi các BIS (Ngân hàng thanh tốn tồn cầu) là thử
nghiệm mạnh mẽ nhưng kết quả không thay đổi.
Chúng tôi hy vọng độ co dãn của xuất khẩu theo tỷ giá hối đối thì tiêu cực như
các sản phẩm của Trung Quốc cạnh tranh trên t hị trư ờng thế giới. Trong trư ờng
hợp Trung Quốc, những dấu hiệu hy vọng của độ co dãn của nhập khẩu theo tỷ
giá hơi đối chưa rõ ràng. Một đánh giá thự c tế nên khuyến khích nhập khẩu
nếu sức mua t ăng mạnh h ơn so với giảm cầu sau sự sụt giảm liên quan đến xuất
khẩu. Phản ứng phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu nhập khẩu. Nếu hàng nhập khẩu

chủ yếu là sản phẩm thay thế cho sản xuất trong nước, độ co dãn theo giá nên
tích cự c như sự đánh giá tăng nhập khẩu. Tuy nhiên, về cơ bản nếu nhập khẩu
các linh kiện và hàng hóa đầu tư trực tiếp tới ngành công nghiệp xuất khẩungành rất rất phổ biến ở Trung Quốc, họ có thể bị ảnh hư ởng tiêu cự c bởi một
sự

đánh

giá

cao

giống

như

trong

xuất

khẩu.

Nhu cầu nước ngoài cho xuất khẩu Trung Quốc được đo bằng nhập khẩu thế
giới (khơng t ính nhập khẩu Trung Quốc) và thất thốt do chỉ số giá nhập khẩu
tồn cầu. Rõ ràng rằng m ột số biện pháp dựa trên sản xuất có thể cũng đã được
sử dụng nhưng các dữ liệu không tồn t ại trong hàng tháng. Hơn nữa, đó là loại
dữ liệu có thể có nhữ ng khó khăn nghiêm trọng hơn trong việc nắm bắt sự tăng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



trưởng nhanh của thư ơng mại thế giới trong vài năm qua, rõ ràng nhanh hơn
tăng trưởng GD P, do sự mở cửa của các nền kinh tế mới nổi.
Nhu cầu nội địa cho hàng nhập khẩu thông thường chúng t a có khối
lượng sản xuất cơng nghiệp. Chắc chắn GDP sẽ là một biện pháp đo lường sản
lượng kinh tế bao quát hơn nhưng cơ quan th ống kê của Trung Quốc vẫn chưa
công bố GDP thống kê hàng quý từ 1994-2005 kể từ khi cải cách thống kê lớn
năm 2005. Đối với hàng nhập khẩu để chế biến, chúng tô i sử dụng xuất khẩu
chế biến như là một yếu tố cho cầu dài hạn. Những dấu hiệu kỳ vọng cho co
giãn theo thu nhập là t ích cự c cho cả xuất khẩu và nhập khẩu.
Sự kiểm tra bổ sung được tính trong phư ơng trình xuất khẩu, nhập khẩu
trên cơ sở p hù hợp với các tài liệu thư ơng mại,cũng như trường hợp của Trung
Quốc. Đối với xuất khẩu, chúng tôi kiểm tra cho sự liên quan của giảm thuế giá
trị gia tăng (VAT) được sử dụng tại Trung Quốc n hư một công cụ chính sách
hay để khuyến khích hoặc khơng khuy ến khích xuất khẩu phụ thuộc vào chu kỳ
kinh doanh. Nhữ ng dấu hiệu hy vọng về giảm thuế GTGT là rõ ràng t ích cực.
Để giới thiệu sự cân nhắc giảm dạng phư ơng trình, chúng tơi sử dụng một p hép
đo sử dụng công suất. Điều đầu tiên là sử dụng công suất cao chỉ để h ạn chế
nguồn cung t iềm năng, mà có thể cản trở tăng trưởng xuất khẩu. Sử dụng công
suất đư ợc định nghĩa là sự khác biệt giữa sản xuất công nghiệp và xu hư ớng của
nó, sau này đư ợc tính bằng cách sử dụng một bộ lọc Hodrick Prescott.
Biến kiểm soát cuối cùng trong phương trình xuất khẩu là các cổ phiếu
thực của đầu tư trực tiếp nư ớc ngoài (FDI). Tr ong khi m ối quan hệ giữa thư ơng
mại và xuất khẩu cũng được thành lập trong văn học, nó có thể là có liên quan
đặc biệt cho T rung Quốc đư a r a số lượng lớn FDI hư ớng đến xuất khẩu. Mặc
dù nhìn chung hy vọng rằng sự gia tăng cổ phần của FDI sẽ thúc đ ẩy xuất khẩu
của Trung Quốc, các cơ cấu phứ c tạp của dây chuyền sản xuất, nơi các linh
kiện và sản phẩm dở dang có thể vận chuyển qua nhiều nước trư ớc thị trư ờng
cuối cùng, có thể phứ c t ạp như điều đầu tiên.
Dịch chuy ển phương trình nhập khẩu, th uế nhập khẩu rõ ràng cần phải
được tính kể từ khi họ đã có kinh nghiệm giảm thuế đáng kể, đặc biệt kể từ khi

gia nhập WTO. Việc kiểm soát thứ hai, thêm lần nữa là các cổ phiếu FDI. Về
nguyên tắc, chúng tôi hy vọng tìm t hấy một hệ số tích cực vào các cổ phiếu FDI

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


như cơng ty nước ngồi có nhiều khả năng sử dụng máy móc, linh kiện, đồ phụ
tùng nhập khẩu trong sản xuất so với các công ty Trung Quốc. Tuy nhiên, khi
các cơng ty nước ngồi bắt đầu lăn bánh toàn dây chuyền sản xuất cho Trung
Quốc, nhu cầu nhập khẩu thực sự có thể được giảm theo sự gia tăng trong các
cổ phiếu FDI.
Cuối cùng, m ột xu hướng tất yếu đư ợc bao gồm trong cả h ai phư ơng
trình xuất khẩu, nhập khẩu khi có ý nghĩa thống kê. Trái lại, các biến xu hư ớng
sẽ giúp nắm việc cải thiện năng suất và những cải cách đang t iến hành trong
nền kinh t ế Trung Quốc mà chúng ta không thể dễ dàng đo lường được.
Tất cả các biến khác, trừ giảm thuế GTGT và thuế nhập khẩu, đư ợc tính
như là một phần của giá trị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, đang ở dạng logarit.
Khi Trung Quốc không thể làm m ẫu theo mù a chuẩn, chúng t ơi t hích sử dụng
dãy chư a điều chỉnh nhưng để giới thiệu biến ngẫu nhiên cho năm mới và
Tháng 11 cuả Trung Quốc.
Chúng tôi sử dụng dữ liệu hàng tháng cho giai đoạn 1994-2005. Bắt đầu
từ những phân tích trước khi đến năm 1994 sẽ có ít ý nghĩa vì năm đó là một
bước đ ột phá trong cải cách thị trường T rung Quốc. Một số các cải cách này
đặc biệt có liên quan đến các câu hỏi chúng tơi đặt ra với chính chúng ta. Cụ
thể, hai hệ thống tỷ giá đã được thống nhất, kế hoạch nhập khẩu bắt buộc đã
được loại bỏ và yêu cầu cấp phép và hạn ngạch đã giảm. Ngồi ra giá cải cách
bị đẩy về phía trước, đồng Nhân dân tệ bắt đầu được chuy ển đổi trên tài khoản
vãng lai và sự phát triển khu vực tư nhân đư ợc hưởng lợi từ luật doanh nghiệp
mới.
Việc thay đổi liên tục hướng t ới một nền kinh tế thị trư ờng cho phép

Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng 12 năm 2001. Do sự chuẩn bị lâu dài cho
việc gia nhập và chuyển tiếp phù hợp giai đoạn sau đó, rất khó để ư ớc tính khi
nào, và bao nhiêu, thành viên WTO của Trung Quốc bắt đầu gây ảnh hư ởng
đến thư ơng mại của Trung Quốc. Thông tin thự c tế đến năm 2000 là thời điểm
khi việc gia nhập của Quốc trở nên sáng sủa. Chúng tôi cũng hỗ trợ việc lựa
chọn năm 2000 để phá vỡ mẫu của chúng tôi bằng các kỹ th uật thống kê, cụ thể
là chúng tơi tìm thấy một phá vỡ cơ cấu trong đầu năm 2000 thông qua một bài
kiểm tra Chow. Tr ong kết luận, chúng tôi kiểm tra xem liệu tngoại thương của

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trung Quốc đã trở nên nhạy cảm về giá hơn so với WTO bằng cách chia mẫu
của chúng tôi thành hai giai đoạn: từ năm 1994 đến cuối năm 1999 và từ đầu
năm 2000 đến hết mẫu của chúng tôi.

4. Kết quả các phương trì nh xuất và nhập khẩu của Trung Q uốc
Trước t iên, chúng tôi k iểm tra bậc của liên kết giữa các b iến trong bảng phân
tích. Chúng tơi sử dụng AD F kiểm định sự tồn tại của nghiệm đơn vị. Hầu như
tất cả các biến không ổn định ở mọi mứ c ý nghĩa như ng là biến ổn định ở sai
phân bậc nhất.
Sau đó chúng tơi kiểm tra sự tồn tại của các vec-tơ đồng liên kết bằn g cách sử
dụng quy trình Johansen. Chúng tơi tìm thấy ít nhất một vec tơ đồng liên kết
cho mỗi nhóm biến số được kiểm định. Như đề nghị của Philips và Loritan
(1991) , việc tìm ra một vector đồng liên kết cho phép chúng t ôi ước lượng hàm
hồi quy của các yếu tố xác định độ trễ và sai phân của chúng bằng phư ơng pháp
bình phương bé nhất phi tuyến tính. Như vậy, phương pháp đó sẽ giúp có đư ợc
ước lư ợng không chệch và phù hơp với các thông số cần ước lư ợng cả trong
ngắn hạn và dài hạn.
Như đã đề cập trư ớc đây, chúng tôi chạy hồi quy các phương trình xuất và nhập

khẩu sử dụng mẫu đầy đủ (1994 – 2005) và mẫu ngắn hơn (từ năm 2000 đến
2005), tập trung vào thời kỳ hậu WTO. Cả hai trư ờng hợp chúng tôi xem xét
cẩn thận để phân biệt họat động thương m ại cho mục đích gia cơng t ái xuất và
họat động thư ơng mại bình thư ờng , vì thế chúng tơi thự c hiện phương trình
độc lập cho mỗi họat động trong 2 lĩnh vực xuất khẩu và nhập khẩu. Con số tối
đa trong ngắn hạn đư ợc xem là độ trễ trong các p hư ơng trình là 3 và cuối cùng
chúng tôi chỉ bao gồm những số đầy đủ và đáng kể.
Kết quả đầy đủ của phư ơng tr ình xuất khẩu đư ợc tìm thấy ở bản A1.2. Độ co
giãn theo tỷ giá của Trung Quốc trong dài hạn - cho họat động thương mại gia
công và thông thường – mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê trong m ẫu đầy đủ
và cả m ẫu cho giai đọan từ khi gia nhập WTO. Khi có sự biến đổi phù hợp
(xem Bảng 2) độ co dãn trong dài hạn tác động đến tỷ giá thự c là khoảng -1.3
cho xuất khẩu hàng gia công. Đối với xuất khẩu thơng thư ờng, nó giảm xuống
từ -2.3 đến -1.6 cho các mẫu hiện t ại. Kết quả của chúng tôi rất gần với những
kết quả trư ớc đây đư ợc thự c hiện bởi các tác giả khác cũng sử d ụng phân t ích
đồng liên kết (-1.5 cho tổng hoạt động xuất khẩu theo Lau, Mo và Li năm 2 004
và -1.3 theo Shi và Yip năm 2006). Nhữ ng kết quả đó cũng gần tương tự như
độ co giãn theo giá của xuất khẩu được ư ớc lượng cho các quốc gia công
nghiệp lớn( -1.5 và -1.6 cho Mỹ và UK, theo Hooper et at., 1998). Ảnh hư ởng
tích cự c trong dài hạn đối với xuất khẩu của Trung Quốc do sự tăng lên trong
nhu cầu thế giới là rất nhỏ và khơng có ý nghĩa thơng kê trong mẫu đầy đủ của
chúng tơi, nhưng nó lại có ý nghĩa lớn tr ong giai đọan sau khi trở thành th ành
viên của WTO cho cả xuất khẩu hàng gia công lẫn hàng thông thường. Kết quả
này phù hợp với ý kiến cho rằng Trung Quốc đã đối mặt với những rào cản lớn
trong việc hưởng lợi từ sự t ăng trư ởng của các quốc gia khác trong giai đọan
trước khi gia nhập WTO. Hơn nữ a, khi sử dụng m ẫu gần đây nhất, hệ số co
giãn theo thu nhập của xuất khẩu của T rung Quốc rất gần 1, như ta mong đợi.
Bảng 2: Hệ số co giãn theo giá và thu nhập trong dài hạn

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Xuất khẩu
thông thư ờng

Xuất khẩu
qua đã chế
biến

Nhập khẩu
thông thư ờng

Nhập khẩu để
chế biến

-1.8
-1.6

-1.3
-1.2

-1.4
-1.4

(0.15)
-0.9

1994-2005
(0.1)
(0.1)

(-0.2)
Độ co giãn
0.8
1.0
(0.0)
của thu nhập 2000-2005
(Giá trị trong dấu ngoặc đơn khơng có ý nghĩa thống k ê)

0.5
(0.0)

Độ co giãn
của tỷ giá

1994-2005
2000-2005

Đối với các biến số kiểm soát việc sử dụng năng lực sản xuất có một tác động
đáng kể lên xuất khẩu mang tính tạm thời hoặc chậm trễ nhất trong 1 tháng,
xuất khẩu chỉ xảy r a đồng thời cùng một lúc hoặc chậm trễ 1 tháng. Dấu hiệu
của việc sử dụng năn g lực sản xuất là mang dấu âm , cùng với ý kiến cho rằng
thị phần sản xuất lớn hơn tiêu thụ trong thị trường nội địa vào trong những giai
đoạn phát triển cao. Việc bồi hồn thuế VAT thì khơng đư ợc t hống kê trong bất
kể quy chuẩn nào và vì vậy chúng tôi sẽ lọai bỏ chúng ra khỏi sự ước tính cuối
cùng vì vậy sẽ rút ngắn thời gian ư ớc lượng ban đầu do sự hạn chế của dữ liệu.
Như đã đề cập ở trên, các dữ liệu chỉ số vốn FDI vào đầu năm 1997 và đư ợc
giới thiệu như một biến giải thích trong suốt giai đoạn gần đây. Một chút ngạc
nhiên, chỉ số vốn FDI không ảnh hưởng đáng kể đến xuất khẩu của Trung quốc
về mặt ý nghĩa thống kê. Xu hướng này là tích cực và đáng kể đối với các
phương trình trong khi dư ờng như xuất khẩu giảm trong năm mới ở Trung

Quốc và gia tăng trong tháng 12. Nếu chúng t a lọai bỏ xu hướng trên trong ước
tính thì các hệ số trên cả nhu cầu thế giới và dịng vốn FDI sẽ trở nên mạnh mẽ
tích cự c và đáng kể hơn. Tuy nhiên, kết quả của chúng tơi về độ co giãn tỷ giá
hối đối cơ bản là vẫn khơng thay đổi.
Các hệ số ước tính của các phư ơng tr ình nhập khẩu được thể hiện ở B ảng A3
trong phục lục. Các yếu tố về nhu cầu đóng vai trị tư ơng đối vừa phải tr ong
việc giải thích nhập khẩu trong thời gian qua. Trong các ví dụ về sau, nhập
khẩu cho mục đích gia cơng phản ứng tích cực với các nhu cầu ở bên ngòai,
điều này được đo lường bằng xuất khẩu cho mục đích gia cơng. Như mong đợi,
sản lượng cơng nghiệp trong nư ớc làm gia tăng nhập khẩu thông thường.
Như mong đợi, việc xuất hiện FDI có vẻ tác động tích cực lâu dài đến việc nhập
khẩu bình thường và việc nhập khẩu cho m ục đích gia cơng. Cuối cùng, việc
giảm thuế nhập khẩu dư ờng như giúp gia tăng việc nhập khẩu chế biến về dài
hạn, vì xuất khẩu giảm vào dịp tết cũng như tháng 12
Cuối cùng, sự co giãn tỷ giá đ ối với nhập khẩu thì ln ln tiêu cự c và n hìn
chung rất đáng kể. M ột ngoại lệ duy nhất là trư ờng hợp nhập khẩu để chế biến
trong giai đọan sau làm cho hệ số của tỷ giá hối đoái âm ở mứ c 15%. Bên cạnh
có ảnh hư ởng trự c tiếp đến tỷ giá , việc nhập khẩu để chế b iến bị ảnh hư ởng
gián tiếp thông qua các nhu cầu ví dụ như xuất khẩu đã qua chế biến. Nếu tính
cả việc ảnh hư ởng gián tiếp , phản ứng tiêu cực của xuất khẩu để chế biến nếu
đánh giá đúng mự c thì m ạnh hơn phản ứng của việc nhập khẩu thơng thư ờng
Tóm lại nhận thứ c đúng đắn đối với tỉ giá nhân dân tệ nhầm giảm bớt nhập
khẩu hơn là kích thích nó. Mặc dù ngược với cái nhìn đầu tiên, việc co dãn âm
đã được báo cáo trong các số liệu gần đây, chẳng hạn như M arquer và
Schindler (2006). Phát hiện về cơ bản hàm ý rằng nhập khẩu-kể cả nhập khẩu

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


thông t hường-nhạy cảm hơn so với sự giảm xuất khẩu đư ợc gây ra bởi sự tăng

giá của đồng nhân dân t ệ để t ăng giá sứ c m ua.
5.Nhìn vào những ngun nhân đằng sau tính tiêu cực s ự co giãn tỷ
giá hối đoái.
Sự thật là sự t ác động của việc nâng giá trị thự c đồng Nhân dân tệ cho
các mặt hàng nhập khẩu là một hiện tượng thu hút sự quan tâm nó yêu cầu phải
phân tích cẩn thận. Tất cả đều đi vào việc xem xét nhữ ng t ác động tiêu cực đối
với việc giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong trường hợp tỷ giá hối
đoái thự c đánh gi á cao . Gỉa thuyết tiên nghiệm của chúng tơi là điều này có
liên quan đến một đặc trưng đặc biệt của thư ơng m ại Tr ung Quốc như là m inh
họa bởi những khác biệt quá lớn trong cán cân thư ơng m ại đối với các q uốc
gia.( Đồ thị 2 và 3)
Đ ồ t hị 2: C á n câ n t h ư ơn g m ạ i T ru n g Q u ốc vớ i
cá c n ư ớ c t iê u biểu nă m 20 0 5, bn US $

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trung Quốc nhập khẩu một số lư ợng lớn những hàng hóa trung gian từ phần
cịn lại của Châu Á để gia công và tái xuất khẩu. Kết quả là, mức độ hội nhập
theo chiều dọc cao giữa các nư ớc công nghiệp xuất khẩu Châu Á tạo cho những
mặt hàng xuất khẩu của họ nhiều sự bổ sung hơn là thay thế những sản phẩm
của Trung Quốc. Điều này có nghĩa là một sự nâng giá của đồ ng nhân
dân tệ có thể dẫn đến sự sụt giảm khơng chỉ trong xuất khẩu Trung
Quốc mà còn nhập khẩ u
Trong khi sự hội nhập theo chiều dọc đư ợc áp dụng nhiều hơn cho công
nghiệp chế biến, ngư ời ta k o nên quên rằng cùng nhiều hoạt động nhập khẩu
thông thường như đầu vào cho khu vực xuất khẩu ví dụ như đầu tư hàng hóa.
Nhìn chung, dường như chỉ một thị phần nhỏ của những sản phẩm nhập khẩu
có thể cạnh tranh với những sản phẩm nội địa Trung Quốc. Điều này là vì phần
tiêu thụ hàng hóa chất lư ợng khơng cao trong những hàng hóa n hập khẩu của

Trung Quốc tương đối nhỏ. Thêm vào đó, một bộ phận đáng kể n hững hàng
hóa nhập khẩu bao gồm năng lư ợng và nguyên liệu thô và một p hần nhựng sản
phẩm nhập khẩu chỉ làm theo đầu tư trực tiếp nư ớc ngồi.
Để tìm hiểu vấn đề xa hơn nữ a với những ngày giá trị đư ợc viết rõ,
chúng tôi chạy hồi quy song phư ơng cho 10 đối tác thương mại lớn nhất của
Trung Quốc để m à đánh giá những sự tác động khác biệt có thể có của việc
nâng giá trị thực đồng nhân dân t ệ đối với các quốc gia.Vấn đề ưu tiên của

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chúng tơi là những hàng hóa nhập khẩu từ các nư ớc Đông Nam Á nên phản ứng
tiêu cực đến việc nân g giá trị đồng Nhân Dân tệ ,đ ang phần lớn là nhữ ng sản
phẩm trung gian cho T rung Quốc để tập hợp lại và tái xuất khẩu. T hực tế,
nhữ ng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia khác đư ợc kỳ vọng để phản ứng lại
việc nâng giá trị đồng nhân dân t ệ hơn phụ thuộc m ột cách m ơ hồ vào kết cấu
xuất khẩu của họ. Những hàm toán học hai bên được ước lượng theo công thức:

Trường hợp Trung Quốc xuất khẩu hoặc nhập khẩu đến và từ quốc gia j
( Xfj và M fj’) được giải thích bởi tỷ giá hối đoái thự c song phương (RERjt), cầu
trong nước và cầu nư ớc ngoài( Y* tj và Yt ) và kiểm sốt các biến. T hật khơng
may, chúng tơi không thể tách xuất khẩu và nhập khẩu cho những sản phẩm
thơng t hường và gia cơng khơng vì những dữ liệu thực. Như nghiên cứu trư ớc,
CPI đư ợc sử dụng như một sự giảm giá cho hàng nhập khẩu và xuất khẩu
Trung Quốc được chuyển đổi thành khối lư ợng bằng cách sử dụng chỉ số giá
xuất khẩu đối với mỗi một quốc gia thương mại. Tỷ giá hối đoái thương mại
song phương thự c giữ a Nhân Dân tệ và đơn vị tiền tệ của mỗi một đối tác xuất
khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc t hì được đo lường trong nhiều kỳ CPI. Nhu
cầu cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc thì đư ợc đại diện bởi GDP thực của
một trong nhữ ng đối tác xuất khẩu của T rung Quốc, trong khi đó nhu cầu nội

địa của Trung Quốc thì một lần nữa đư ợc đánh giá lại bằn g sản xuất công
nghiệp. chúng tôi cũng giới thiệu vốn đầu tư trực tiếp song phư ơng ở cả phư ơng
trình xuất khẩu và nhập khẩu. trước tiên, chúng tôi giới thiệu khả năng sử dụng
của những phư ơng trình xuất khẩu. cuối cùng, một hư ớng đư ợc giới thiệu với
nhữ ng con số thống kê đầy ý nghĩa.
Chúng tơi ước tính nhữ ng phương trình thư ơng m ại song phương cho
giai đoạn từ 2000-2005 bởi vì ở m ột vài quốc gia, dữ liệu đã k hông tồn tại cho
cả thời kỳ. Bài thực hành này cho phép chúng t a so sánh những kết quả giữa
các quốc gia và với các nư ớc khác cho các phương trình xuất khẩu và n hập
khẩu chung. Tiếp theo giốn g như trình tự trước đó, chúng tơi t iến hành thử
nghiệm căn đơn vị cho t ất cả những biến song phư ơng. Hầu hết tất cả trong số
đó là I(1) và ít nhất một vec tơ hội nhập được tìm thấy cho mỗi hàm xuất khẩu
và nhập khẩu song phương.
Những kết quả cho những hàm xuất khẩu song phương thì rất giống
nhữ ng ư ớc tính tổng hợp của chúng tơi và cũng như các quốc gia . Việc nâng
giá song phương của tỷ giá hối đoái thực của nhân dân tệ đổi lấy rằng mỗi một

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


đối tác thư ơng mại chính của Trung Quốc cắt giảm hàng xuất khẩu Trung Quốc
mặc dù kết nối M ỹ và Đài Loan th ì khơng thống kê ý nghĩa. Ngoại lệ duy nhất
là Hồng Kơng thì hệ số là rõ ràng nhưng số thông kê không ý nghĩa. Kết quả
cho Hồng Kơng được đưa ra thì khơng có gì ngạc nhiên vì nhữ ng khó khăn
trong việc phiên dịch dữ liệu thương mại giữa Trung Quốc Đại Lục và Hồng
Kơng. Sau sự thay đổi t ính co giãn của tỷ giá hối đoái là cao nhất cho xuất khẩu
đến Singapore nếu chúng tôi bỏ qua hệ số không ý nghĩa lên nhữ ng hàng xuất
khẩu đến Mỹ.
Chúng tôi cũng nhận thấy rằng những hoạt động mang tính kinh tế ở các
đối tác thư ơng mại của Trung Quốc làm t ăng những mặt hàng xuất khẩu Trung

Quốc vì người ta có t hể kỳ vọng. tính co giãn thu nhập song phương thì ý nghĩa
cao cho tất cả các quốc gia ngoại trừ Đứ c. với Mỹ và Cộng đồng Châu Âu, hệ
số co giãn thì rất rộng. điều này có thể là do thời gian tương đối ngắn kể từ khi
Trung Quốc gia nhập WTO, một nhân tố chính thay đổi thương mại thế giới.
bên cạnh đó, nó chỉ ra t ầm quan trọng của những nhân tố nhu cầu để giải thích
sự mất cân bằng trong tăng trư ởng thương m ại giữa Trung Quốc và Mỹ hoặc
các nước khu vực Châu Âu.
Trong một số trư ờng hợp, biện pháp t ăng năng suất, cải biến xu hư ớng
thì cũng tích cực và có ý nghĩa. Với Hàn Quốc và Đài Loan, t uy nhiên xu
hướng thì tiêu cực. Như là đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, m ột sự tăng lên
trong đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc và Đài Loan vào Trung Quốc tăng các sản
phẩm xuất khẩu của Trung Quốc đến các nư ớc này nhưng với Đức và Italy thì
tác động theo chiều ngược lại. Điều này có thể từ sự khác biệt trong hành vi ở
các t ập đoàn đa quốc gia Châu Á và Châu Âu khi giao dịch với các thị trư ờng
Trung Quốc. Cũng với đề cập trên một sự liên kết tiêu cực thể phản ánh một sự
chuyển đổi của tồn bộ quy trình sản xuất sang Trung Quốc. trong khi trước đó
nó có thể là n hững sản phẩm bán thành phẩm lần đầu tiên đư ợc xuất khẩu từ
Trung Quốc đến Đức và chỉ sau một vài sản phẩm được bốc xếp xuống tàu để
đi đến nơi cuối cùng, thì giờ đây có lẽ tồn bộ những quy trình sản xuất hàng
loạt có lẽ đã được chuyển đến Trung Quốc và không cần phải chuyển hàng hóa
đến Đức nữa. Tuy nhiên, kết quả này nên đư ợc xem xét m ột cách cẩn trọng vì
nhu cầu của nó cần đư ợc phân tích sâu hơn.
Kết quả của những hàm t oán học nhập khẩu song phương ít sự đồng nhất
hơn. Trước tiên, chúng tơi đã ư ớc tính những sự co giãn giá trong dài hạn cho
thấy rằng việc nâng giá trị thự c của đồng Nhân Dân Tệ làm giảm hàng hóa
nhập khẩu từ tất cả các nước Châu Á đến Trung Quốc. Hệ số thì có ý nghĩa với
Hàn Quốc và Thái Lan. Với những nư ớc có thu nhập cao chẳng hạn như Mỹ,
Đức và Nhật Bản, hệ số bị phủ nhận như ng nó là nhữ ng số thống kê không ý
nghĩa. Chỉ đối với Nga và Australia hệ số thì tích cự c mặc dù khơng m ang
nhiều ý nghĩa.


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đối với những hệ số co giãn theo thu nhập, chúng thì ln ln tích cực
mặc dù hơi thấp và luôn luôn thống kê không ý nghĩa. Phần lớn hàng hóa xuất
khẩu của các nước đến Trung Quốc tăng theo thị phần đầu tư trực tiếp nư ớc
ngoài song phương. Những hàng hóa nhập khẩu của Tr ung Quốc từ Nhật Bản,
Đài Loan, Đức, Nga, M alaysia v à T hái Lan tăng t heo đầu tư trực tiếp nước
ngoài từ những quốc gia này. Một lần nữ a, Hàn Quốc thì có một vài điều gì đó
ngoại trừ với việc giảm và hệ số ý nghĩa từ đầu tư trực tiếp nước ngồi. Bảng 3
tóm tắt việc biến đổi giá dài hạn những co giãn thu nhập cho các hàm xuất khẩu
và nhập khẩu hàng hóa song phương của T rung Quốc.

Để có thể hiểu tốt hơn về n hững kết quả thay đổi khác nhau cho độ co
giãn tỷ giá hối đối hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc, chúng tơi h ãy nhìn
vào vị thế hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc từ mỗi một đối tác thương mại
chính của nó Australia và N ga xuất khẩu chủ yếu là năng lượng và nguyên liệu
thô đến Trung Quốc, những thứ có thể giải thích bởi những phản ứng yếu ớt
của những hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc từ các quốc gia này trong những
thay đổi tỷ giá hối đối thực song phư ơng. Một vài điều gì đó bất ngờ là một sự
tăng lên trong các hoạt động mang tính kinh tế khơng có sự t ác động đầy ý
nghĩa rõ ràng trên các hàng hóa nhập khẩu của N ga. Thự c sự, sự liên kết này thì
bị phủ định mặc dù rất xa thống kê đầy ý nghĩa. Điều này có thể đư ợc giải thích
bởi những sự kết nối phương t iên vận tải kém phát triển giữ a Trung Quốc và
Nga. Nếu sức chứ a của đư ờng xe lử a đ ã được sử dụng, không nhiều dầu thô
hơn đã đư ợc chuyển đến Trung Quốc vì những cấp độ của nhu cầu. Nhưng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



ngư ợc lại, những hàng hóa nhập khẩu của Australia tăng lên theo giá trị gia
tăng thuộc về công nghiệp của Trung Quốc.

.

Một nhóm thứ hai của các quốc gia m à chúng tơi có thể p hân chia dựa
trên nền tảng những kết quả, là những quốc gia có thu nhập cao. Những hàng
hóa xuất khẩu từ Đức, Nhật, và M ỹ thì khơng nhạy để có nhữ ng thay đổi trong
tỷ giá hối đoái song phư ơng. Trong khi đó nhữ ng trường hợp tại Đức và N hật
hàng hóa nhập khẩu thì rõ ràng được lèo lái bằng đầu tư trực tiếp nước ngồi,
nhữ ng hàng hóa nhập khẩu của M ỹ dường như đem lại lợi nhuận nhiều hơn từ
tổng ngạch phát triển kinh tế ở Trung Quốc. điều này thì tự nhiên khi nhìn vào
cấu trúc nhập khẩu từ các nước này. Trong khi 1 nửa hàng hóa xuất khẩu của
Nhật Bản và Đức đến Trung Quốc là những sản phẩm m áy móc và hàng điện tử
thường đư ợc sử d ụng làm định hư ớng xuất khẩu và để có sở hữu cơng nghiệp
nước n gồi m ở rộng, những hàng hố n hập khẩu từ Mỹ thì chi tiêu mở r ộng
nhiều hơn từ soybeans và m áy bay và chíp kỹ thuật cao. Trong khi nhiều sản
phẩm này được hướng vào khu vự c trong nư ớc thì khơng có hàng thay thế hoặc
là sự cạnh tranh của Trung Quốc cho các sản phẩm này, những hàng hóa mà có
rất nhiều sự lý giải cho việc giảm thấp và thậm chí phủ nhận độ co giãn của tỷ
giá hối đối.
Nhóm thứ ba của các nư ớc bao gồm các quốc gia châu Á m ới nổi, những
nước m à hàng hóa xuất khẩu đến Trung Quốc không bị ảnh hư ởng sự nâng giá
đồng Nhân Dân Tệ. Những nước này chủ yếu xuất khẩu những hàng hóa,
nhữ ng bộ phận đến cơng nghiệp xuất khẩu Trung Quốc và thậm chí những hàng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



hóa mà họ xuất khẩu đến Trung Quốc khơng liên quan đến việc n âng giá trị
đồng Nhân Dân Tệ.
Như chúng tơi có thể nhìn t hấy ở biểu đồ 4, thị phần của những hàng hóa
xuất khẩu đến Trung Quốc lục địa thì rất cao củ a một số các nư ớc ở C hâu Á.
Nếu chúng tôi cho rằng một bộ phận của hàng hóa xuất khẩu đến Hồng Kông
cũng giữ đến Trung Quốc lục địa thị phần trở nên rộng hơn. Chẳng hạn như,
hàng hóa xuất khẩu từ Đài Loan đến Tru ng Quốc lục địa và H ồng kông gần
40% của t ất cả sản phẩm xuất khẩu của Đài Loan
B i ểu đồ 4 : T hị ph ần xu ất kh ẩu tới Đ ại Lụ c
T ru n g Q uố c và H o ng K on g t ừ cá c n ướ c
A si a n ch ủ yế u n ă m 2 005, %

Vì vậy, những kết quả của chúng ta đ ang chỉ r a một sự giảm hàng hóa
nhập khẩu trong việc nâng giá trị Nhân Dân Tệ từ phần còn lại củ a Châu Á đến
Trung Quốc có một sự liên quan đến nhiều quốc gia Châu Á. Điều này thì thậm
chí là nhiều hơn vì vậy nếu họ khơng thể b ồi thường cho hiệu ứng này bằng
việc tăng hàng hóa xuất khẩu đến những dự định khác. Điều này thì phụ th uộc
rất nhiều vào cấp độ bổ sung theo hàng hóa xuất khẩu và cũng phụ thuộc vào
nhữ ng phản ứng của những chuỗi cung cấp đến việc định giá lại Nhân Dân Tệ.
trong lúc đang kiểm tra cho giả định này có thể y êu cầu m ột sự p hân tích nhân

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tố chi tiết, chúng tôi nổ lực để cho 1 câu trả lời sơ bộ bằng việc ư ớc tính các
hàm xuất khẩu cho những đối tác thương mại chính của Trung Quốc ở Châu Á.
Theo như hàm xuất khẩu thì giống như chúng ta đã có ở Trung Quốc
sớm hơn để m à chúng tơi giải thích hàng hóa xuất khẩu bởi ảnh hư ởng tỷ giá
hối đoái thực của các quốc gia và nhu cầu thế giới. Thêm vào đó, chúng tơi bao
qt vào hàm ảnh hưởng tỷ giá hối đoái thự c Tr ung Quốc như là sự nới rộng

biên độ có thể. Dữ liệu về những tỷ giá hối đối thực thì một lần nữa đư ợc dựa
trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng CPI và nhu cầu của thế giới thì được đo lư ờng
bằng tổng hàng hóa nhập khẩu của th ế giới. Xu hư ớng này được bao qt khi
nó tìm thấy đư ợc những con số thống kê đầy ý nghĩa.
Chúng t ơi ước tính những hàm xuất khẩu cho những đối tác thương mại
Châu Á chính của Trung Quốc trong giai đoạn 2000-2005. Dữ liệu m à chúng t a
sử dụng thì được thay đổi theo mùa bởi những tác giả bằng cách sử dụng
chư ơng trình CensusX12. Chúng Tơi tìm thấy một lần nữa những biến số đư ợc
nhóm lại của cấp độ một và tồn tại tối thiểu một phư ơng cointegrating theo mỗi
một nhóm nhữ ng biến số.
Những kết quả chi tiết từ những hàm xuất khẩu cho việc lựa chon của
các quốc gia Châu À thì được báo cáo trong bảng A1.6. Khi việc biến đổi
nhữ ng con số thống kê dài hạn đã đạt được (bảng 5), chúng ta có thể nhìn thấy
rằng hàng hóa xuất khẩu từ phần lớn các quốc gia Châu Á thì khơng bị ảnh
hưởng bởi việc n âng tỷ giá thự c của Trung Quốc. với Hàn Quốc, Đài Loan và
Thái Lan, việc p hủ nhận sự tác động của việc nâng giá trị Nhân Dân T ệ là
nhữ ng con số thống kê đầy ý nghĩa. Chỉ Malaysia thì chấp nhận, hàng hóa xuất
khẩu có thể mang lại lợi nhuận từ việc nâng giá trị thực Nhân Dân T ệ. Tuy
nhiên, kết quả chấp nhận này có thể bởi vì có thể sự thật bên cạnh linh kiện
điện tử, Malaysia cũng xuất khẩu một số lượng đáng kể dầu và nhữ ng ngun
liệu thơ khác. Vì vậy, quốc gia- những kết quả nền tảng từ những hàm xuất
khẩu thì rất gần nó sở hữu chúng ta đã tìm cho nhữ ng hàm nhập khẩu song
phương Trung Quốc để mà hàng hóa xuất khẩu từ nhiều quốc gia Châu Á khác
không giống như được gửi lại đầy đủ đến các quốc gia khác khi m à nhu cầu của
Trung Quốc cho hàng hóa nhập khẩu co lại. Vi nhữ ng độ co giãn thu nhập
được kỳ vọng thì ln ln tích cực m ặc dù nó là những con số thống kê không
ý nghĩa trong trư ờng hợp của Philippines và Thái Lan. Những kết quả của
chúng ta thì theo đó rất nhiều trong tuyến với Aheane et al (2006) và Cutler et
at (2004) ngư ời đã tìm thấy những nhân tố phổ biến, như những nhu cầu thế
giới, những cuộc đua hàng hóa xuất khẩu từ cả hai Trung Quốc và những quốc

gia Châu Á khác.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


6. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, đã có m ột cuộc thảo luận chuy ên sâu ở cả Tr ung Quốc
và diễn đàn quốc tế về m ong mu ốn nâng giá đồng nhân dân tê. Nhiều ngư ời cho
rằng chính sách tỷ giá hối đối sẽ khơng phục vụ mục đích giảm thặng dư
thương mại lớn của Trung Quốc. Bài nghiên cứu này cho thấy bằng thực
nghiệm rằn g cán cân thư ơng m ại của Trung Quốc là nhạy cảm v ới những biến
động bất thường trong tỷ giá hối đoái thự c. Trong thự c tế, việc ư ớc tính độ co
giãn dài hạn của xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc đối với thay đổi tỷ
giá hối đoái thực của đồng nhân dân t ệ trong khoảng thời gian từ năm 1994 đến
cuối năm 2005, chúng tơi đã tìm ra đư ợc bằng chứng sát thực chứng minh rằng
một sự nâng giá thự c tế sẽ làm giảm xuất khẩu m ột cách đáng kể trong thời
gian dài. Đ ây là cả hai trường hợp cho xuất khẩu chế biến (tức là chuyển đổi và
tái xuất hàng hoá) và xuất khẩu gốc. T uy nhiên, việc nâng tỷ giá hối đoái thực
cũng làm giảm nhập khẩu đối với Trung Quốc. Điều này hạn chế tác động rịng
của chính sách tỷ giá hối đối trên thặng dư thư ơng m ại.
Căn cứ vào độ co giãn mà chúng t ơi ư ớc tính trong khoảng t hời gian kể từ khi
việc gia nhập WTO đã được biết đến, một sự nâng giá thự c 5% trong tỷ giá hối
đoái của đồng nhân dân tệ sẽ dẫn đến sụt giảm khoảng 7% khối lượng xuất
khẩu trong năm 2005. Khi chúng tơi đưa vào tính tốn liên kết trực tiếp từ tỷ
giá lên nhập khẩu cũng như liên kết gián tiếp từ sự giảm trong chế biến xuất
khẩu lên nhập khẩu để xem xét, tổng khối lư ợng nhập khẩu giảm k hoảng 4%.
Dựa trên các ước t ính này, thặng dư thương mại đã có thể t hu nhỏ gần bằng một
phần tư từ khoảng 100 U SD tỷ đến dư ới USD 80 tỷ. Tuy nhiên, những số liệu
này phải được nghiên cứ u một cách cực kỳ cẩn thận vì tính tốn rất khó khăn
nên khơng đư a vào tính tốn.Ví dụ, những ảnh hưởng xuy ên suốt từ tỷ giá lên

giá xuất khẩu và n hập khẩu và từ đó lên thặng dư thương mại. Có khả năng là
nhữ ng con số của chúng tôi ư ớc lượng quá cao việc s uy giảm trong th ặng dư
thương mại cũng như trong trư ờng hợp nâng giá, giá xuất khẩu bằng ngoại tệ có
thể s ẽ gia tăng vì vậy tác động thực của cán cân thư ơng mại thực tế có thể nhỏ
hơn một cách đáng kể. Mặt khác, sự d ao động bất thường trong tỷ giá của đồng
nhân dân tệ có thể khơng ảnh hưởng thí dụ tới giá dầu thế giới vì vậy hiệu ứng
thơng qua lên giá n hập khẩu của Trung Quốc có thể sẽ nhỏ hơn nhiều. Thật

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


không may, các hiệu ứng xuyên suốt ở Trung Quốc khó để ước tính do thiếu
các dữ liệu chuỗi thời gian về giá xuất nhập khẩu. M ặc dù không hoàn toàn mới
như ng việc chỉ ra rằng giảm nhập khẩu của Tr ung Quốc như là kết quả của việc
đánh giá đúng tỷ giá là rất thú vị và lý luận của nó đã được nghiên cứ u sâu hơn.
Chúng tôi khám phá nhữ ng vấn đề xa hơn bằng cách ước lư ợng mối quan hệ
song phương giữa thư ơng m ại của Trung Quốc với các đối t ác kinh doanh chủ
yếu. Có vẻ như việc nâng giá thực đồng nhân dân tệ so với tiền tệ của m ột đối
tác thương mại nhìn chung đã làm giảm xuất khẩu đặc biệt từ các nước Asian
khác. Kết quả cho việc nhập khẩu từ các nư ớc Châu Á của Tr ung Quốc có thể
được giải t hích bởi mức độ hội nhập theo chiều dọc của ngành xuất khẩu của
các nư ớc Asian. Như vậy mạng lư ới sản xuất của Asian đã làm cho các sản
phẩm nhập khẩu từ các nư ớc Asian khác một sự bổ sung hơn là thay thế. Giả
thuyết này là đúng bởi kết quả n ghiên cứu của chúng tôi về tổng kim ngạch
xuất khẩu của các quốc gia Asian và khơng chỉ xuất khẩu tới Tru ng Quốc- cịn
chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi sự gia t ăng tỷ giá thự c của đồng nhân dân tệ. Bài
viết này quan t âm nhiều tới phản ứng của Châu Á với sự đánh giá cao bất ngờ
của đồng nhân dân tệ đặc biệt nếu các quốc gia Asian cũng t ăng giá so với các
đồng tiền khác. M ặc dù nghiên cứ u này chỉ tập trung vào khối lư ợng xuất khẩu
và nhập khẩu vì vậy những kết luận có thể khơng tồn diện. Nó phục vụ cho

một chú ý quan trọng của nghiên cứu về ảnh hưởng tiền ẩn về sự đánh giá thực
của Trung Quốc và sự kết hợp chính sách tỷ giá hối đối khác nhau ở Châu Á.
Mặc dù có một số lư ợng những nghiên cứu về vấn đề n ày như ng nghiên cứu
bằng cách sử dụng dữ liệu m ới là cần t hiết.
Cuối cùng, trong khi xuất khẩu Trung Quốc rõ ràng được hưởng lợi từ việc t ăng
trưởng kinh tế nhanh chóng, thì trong bài viết này độ co giãn theo thu nhập của
nhập khẩu của T rung Quốc chịu ảnh hưởng chậm hơn. Dường như hàng nhập
khẩu sang Tru ng Quốc phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn là các
hoạt động kinh tế trong nư ớc. Mặc dù các m ẫu dữ liệu trong bài báo này chỉ có
giá trị đến cuối năm 2005 nhưng nhữ ng kết quả mới được k iểm chứng bởi sự
phát triển kinh tế gần đây. Nhu cầu bên ngoài mạnh mẽ và sự gia tăng luồng
vốn FDI đã giữ cho xuất nhập khẩu Trung Quốc ngày càng tăng đến tận mùa hè
năm 2008. Từ khi suy thối kinh tế tồn cầu và việc giảm đột ngột trong FDI đã
góp phần làm yếu đi xuất khẩu cũng như nhập khẩu của Trung Quốc đặc biệt từ
các quốc gia thành viên Asian. Thực tế, thư ơng mại trong khối Asian đã giảm
mạnh trong vài tháng qua.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



×